← Quay lại trang sách

CHƯƠNG BỐN

Thể Hà vừa bước vô ngôi nhà hương hỏa. Cậu Hai nàng ngạc nhiên đến cực độ, mắt cậu thao láo, lo lắng dáo dác nhìn quanh, như sợ có ai đang rình rập ở đâu đây vậy. Cậu hỏi:

– Cháu về một mình hả? Thằng Đông và mấy đứa nhỏ đâu? Chúng khỏe chớ? Cậu tưởng gia đình bây đi rồi.

Thể Hà chưa kịp trả lời thì cậu nói tiếp:

– Mợ Hai cháu đang cắt mấy trái bầu gần mộ ông bà ngoại. Đi, đi với cậu ra thăm mộ ông bà ngoại và mộ ba má cháu một chút.

Câu Hai lại bàn thờ rút lấy nắm nhang, và mở hộc tủ lấy cái hộp quẹt diêm, rồi cùng Thể Hà đi cửa sau, hướng ra chòm mả ở liếp đất cuối vườn. Thấy nàng, mợ Hai miệng mếu máo, mắt ướt long lanh:

– Mợ tuởng vợ chồng bây đi rồi chớ. Không ngờ bây vẫn còn ở đây. Bây ốm quá đi, mấy đứa nhỏ, chị vú, chị Hai và chồng bây khỏe không? Bộ thẳng bị họ quản thúc rồi à? Sao không dắt mấy đứa nhỏ về chơi? Và chừng nào bây trở về trển?

Cậu Hai gắt mợ:

– Bà thì cứ con cà con kê lải nhải, lẩm cẩm quá đi. Thời buổi nầy bộ vui sướng lắm sao mà về chơi? Cái miệng bà ăn mắm ăn muối nói bậy nói bạ. Ở Vũng Tàu có ai biết nó mà quản thúc. Bà mau vô bắt con gà làm thịt, nấu cơm cho cháu ăn để nó về cho sớm

Thể Hà, lẹ miệng ngăn cản:

– Thưa cậu mợ, nhà có sẵn gì ăn nấy được rồi. Hôm nay con về là thăm cậu mợ, thăm mồ mả ông bà ngoại và ba má con. Sáng mai con đi sớm. Gia đình các anh chị con vẫn khỏe mạnh?

Mợ Hai lấy chéo khăn đội trên đầu quẹt nước mắt. Tay nầy mợ ôm trái bầu vừa mới cắt còn dính mủ trên cuống, tay kia cắp rá đầy rau dền, mồng tơi, đọt ớt… Bà khổ sở:

– Không khỏe đâu. Quốc nạn cháu ơi! Mỗi nơi, mỗi hoàn cảnh gia đình đều có nỗi lo và nỗi khổ khác nhau. Thằng Cương, thằng Thinh, thằng Hữu thì đi công tác lao động trong Kinh Bùi gần Đồng Tháp Mười. Cậu Hai cháu, nhờ có ba đứa nó đi nên ổng được miễn. Cháu có biết ông Ba Thơ chết hôm tháng rồi, trong tù biệt giam ở Vườn Đào Cai Lậy không?

Thể Hà chưng hửng:

– Ông Ba Thơ già quá, và ổng có đi lính tráng, hay làm việc cho Quốc Gia ngày nào đâu, mà họ thù hận, giam cầm người ta cho đến chết?

Cậu Hai nàng cười gằn, tiếp lời vợ:

– Càn gì làm việc cho Quốc Gia. Chỉ cần cán bộ thấy gai mắt là chết người rồi. Họ nói ổng đi tu, làm thầy chùa, ăn bám nhân dân nên họ giở cái am của ổng và cho ổng đi học tập cải tạo. Với họ như vậy là đầy đủ chứng cớ phạm tội rồi. Nhưng chung qui cũng tại ông bà Ba Thơ có mẫu vườn trồng toàn là nhãn.

Thể Hà lấy làm lạ:

– Miếng vườn ông Ba Thơ trồng nhãn thì mắc mớ gì đến việc bắt ông đi học cải tạo? Bộ trồng nhãn cũng có tội sao?

Cậu Hai nàng chép miệng thở dài:

– Trồng nhãn không có tội, nhung miếng vườn của ổng bả thu hoạch huê lợi quá tốt. Chẳng may cho ông Ba Thơ, vợ con ông huyện ủy có miếng vườn kế bên. Họ thèm rỏ dãi miếng vườn mầu mỡ đó nên mới sanh ra khổ nạn cho gia đình ổng. Bây giờ thì ông Ba Thơ đã chết rồi, bà Ba Thơ sợ liên lụy đến mấy đứa con, nên đem sang nhượng miếng vườn lại cho vợ ông chủ tịch huyện. Thế là xong, huề cả làng mọi việc bình thường như không có chuyện gì đã xảy ra hết!

Mợ Hai nàng nói:

– Thôi cháu ở lại đây nói chuyện với cậu Hai nghen. Mợ vào bếp nấu cơm.

Cậu Hai chép miệng thở dài:

– Vậy thì bà vô nấu cơm đi. Thể Hà ăn xong, cậu sẽ đua cháu ra lộ trở về Sài Gòn hôm nay. Bình thường, thì cậu mợ sẽ không cho cháu đi gấp như vậy đâu. Nhưng thời buổi nhiểu nhương, bây giờ khổ lắm cháu ơi. Bất cứ chuyện oái oăm, ngược đời nào cũng có thể xảy ra trên đất nước này được hết, nhứt là tánh mạng con người có thua gì cỏ rác đâu. Nhang và hộp quẹt đây, cháu cúng mộ đi. Để cậu ra ruộng giở mấy cái lờ, xem coi có cá tôm chi nữa không.

Cậu Hai nói xong, vội bước lên chiếc cầu bằng khúc dừa cưa đôi bắc ngang qua cái mương xăm xắp nước, mọc đây rau mác và lục bình.

Được sự đồng ý của chồng, nên Thể Hà một mình đi chuyến xe đò sớm nhứt chạy về miệt Bắc Mỹ Thuận, về quê ngoại, để thăm cậu mợ Hai, thăm mồ mả ông bà, mộ ba má nàng một chuyến, trước khi gia đình nàng đi xa.

Trời còn tối mò, ngoài đường, ánh đèn điện héo úa vàng vỏ giăng mắc trên các cột trụ chơ vơ, lạnh lẽo. Thể Hà co ro trong chiếc áo bà ba của cô Hai, bên ngoài khoác thêm chiếc áo lạnh cũ. Đầu nàng đội chiếc nón lá lủng mấy lỗ vì bị miểng đạn pháo văng, vòng tre trên chóp nhọn của nón đã bị gãy lá bung ra te tua. Quần tét ống đã được má chồng nàng khéo tay khâu lại. Nàng mang đôi dép kẹp bị cấn, nên hơi đau mấy đầu ngón chân, nhưng có còn hơn là đi chân đất, đạp phải miểng sành, miểng chén đứt da làm độc thì đổ nợ.

Từ dạo giặc vào đến giờ, quần lãnh, áo nhiễu, những thứ y phục sang trọng, hợp thời trang Thể Hà đã cất kỹ hết vào bên trong, hoặc cái nào giữ lại thì giữ, cái nào bán được giá thì bán, để chi dụng cho gia đình mà nàng nghĩ rằng mình sẽ không có dịp để mặc lại nữa. Đi đâu thì nàng lấy áo quần cũ mặc, khi thì mượn của cô Hai, khi thì mượn của má chồng. Mặc đồ của cô Hai thì còn đỡ, mặc đồ má chồng thì nó rộng thùng thà thùng thịnh, vì bà có da có thịt hơn nàng và cô Hai nhiều, nên nàng cảm thấy mình như con vịt đang bơi trong ao nước. Quần áo mặc để đi ra khỏi nhà nàng không lựa chọn như trước nữa, cứ chộp đại, được thứ gì của hai bà thì mặc thứ ấy không kén chọn quần nầy, áo kia. Đôi lúc nàng lôi ra từ trong giỏ xách áo quần nhăn nheo, nhầu nát cũng không ủi thẳng thớm làm chi cho cực, có quần áo lành lặn như vậy cùng quá tốt rồi. Cô Hai và má chồng nàng cũng thường nói:

– Thời buổi nầy, quỉ vương trị đời, vàng thau lẫn lộn “khôn thì sống, mống thì chết”, mình phải giả dại qua ải, làm ngu, làm khờ, ăn mặc lem luốc, nghèo đói, thì tránh được rất nhiều thứ phiền phức, như vậy mới dễ sống hơn.

Bến xe đò còn khuya, thưa thớt người đa số hành khách trên xe là bạn hàng đi khoảng đường ngắn mua hàng hóa về bán lại, hoặc mang hàng đi bán ở chợ quê… Một số ít người có chuyện gấp, hoặc không có thời gian, phải đi để về cho kịp nên mới đi sớm như vầy. Lác đác một vài quán hàng nổi lửa đốt lò. Có quán sớm hơn, thơm phức mùi cà-phê. Vài người bán bánh mì đựng trong chiếc cần xé nhỏ, được bao lại bằng vải bố. Và bánh mì được họ trùm bởi một lớp vải dầy để giữ cho lâu nguội. Tiếng rao lanh lảnh trong bóng đêm còn dầy đặc: “Bánh mì nóng hổi vừa thổi vừa ăn đây!.. Bánh mì mới ra lò đây, ai mua bánh mì không? Bánh mì nóng hổi vừa thổi vừa ăn đây!..”.

Xe ra khỏi Phú Lâm. Gió sáng mát rượi, nhưng xe chạy nhanh, gió tạt mạnh qua cửa sổ làm hành khách ngồi co ro, khúm rúm vì lạnh, tóc và nón họ tung ngược về phía sau.

Mặt trời ửng hồng một vùng lớn ở hướng đông. Hai bên đồng ruộng còn lờ mờ. Ẩn hiện sau liếp dừa, liếp chuối, bờ tre, làn khói trắng tỏa từ mái lá. Lòng Thể Hà heo hắt ngậm ngùi. Nếu giặc không về quấy nhiễu gây tai hại cho nhân dân, thì miền Nam nước Việt dân hưởng hạnh phúc tự do no ấm vô cùng. Bây giờ cả phần đất tự do còn lại cũng rơi vào tay giặc. Rồi đây thân phận người dân không biết sẽ ra sao? Quân nhân, công chức những người làm trong chánh quyền cũ số phận sẽ đi về đâu? Chúng sẽ trả thù? Phải, chúng sẽ trả thù! Lần nầy người Việt Nam bị trả thù không phải từ ngoại bang giặc Tây, giặc Tàu, giặc Nhật… Mà chính người cùng chủng tộc trả thù nhau! Cơn gió lùa mạnh qua cửa sổ xe. Chú lơ xe la oai oái “zô, zô, zô… Cầu Ông Hưng đây, ai xuống cầu Ông Hưng?…”

Xuống xe tại bên nầy dốc câu Ông Hưng, Thể Hà đi lần theo con đường mòn về nhà ngoại. Ánh nắng mai nhẹ trải trên đồng ruộng bao la khô cằn chỉ còn trơ gốc rạ. Con chim thằng chài xẹt ngang, lanh lảnh kêu “trả chẹt, trả chẹt…”, rồi lẫn vào đám bần sum sê cành lá bên kia bờ lãng trống. Nhưng âm vang tiếng chim kêu vẫn còn vương vấn đâu đây.

Đường mòn nhỏ hẹp nầy, thay thế cho đường đất rộng, có cầu ván bắc ngang qua những con rạch nhỏ, rạch lớn, để xe đạp, xe Honda qua lại suốt đêm ngày, còn người đi bộ lui tới càng dễ dàng hơn. Nhưng từ khi giặc về quấy phá, đào lộ, giựt sập cầu, cấm không cho dân đi trên đường đất lớn nầy nữa. Dân chúng rất cần cho sự đi lại, ra đồng ruộng, đi chợ, trẻ con đi học… Nhưng họ không dám tu bổ lại con đường xưa, như đắp, bồi thêm đất, sửa chữa lại cầu bị hư, bắc lại cầu bị rút ván… Dân chúng qua lại gần con đường cũ, tránh những hầm hố. Họ đi trên bờ ruộng, trên bờ mẫu, có khi lấn vào liếp đất vườn của người ta. Đi riết lâu ngày dấu chân người đi dẫm nát cỏ, và đất cứng trở thành con đường mòn ngoằn ngoèo. Nhưng cũng có đường lối để đi, vì có những vùng đất liền không có sông, rạch, nên không thể đi bằng xuồng ghe được.

Thể Hà còn đang nghĩ ngợi không biết làm sao đi tới được nhà cậu Hai. Bởi trước mặt nàng, có nhiều đoạn đường bị phá vỡ, tạo thành những lỗ hang rộng, khá sâu, nước chảy cuồn cuộn chắn ngang lối đi.

Bỗng có chiếc xuồng ba lá bơi xuôi dòng. Thấy nàng, người đàn ông lớn tuổi trên xuồng lên tiếng:

– Cô ơi, chắc cô ở xa mới về đây hả? Con đuờng nầy rất nguy hiểm nên lâu lắm rồi không ai dám đi. Vì không biết còn trái lựu đạn hay trái mìn nào chưa nổ không? Cô muốn đi đâu vậy?

Thể Hà hoảng hồn lập bập trả lời:

– Thưa bác, cháu ở Cần Thơ sang đây thăm người cậu. Lâu rồi cháu không có về nên không biết. Cậu của cháu ở ngoài vàm Ông Hưng. Bác có qua ngang đó không, xin cho cháu quá giang, hoặc bác làm ơn chỉ cho cháu con đường nào đến đó.

Ông ta vừa tấp mũi xuồng vào bãi cỏ vừa nói:

– Cô xuống xuồng đi, tôi đưa dùm cô ra ngoải. Theo lẽ tôi không đi ra đến Vàm Ông Hưng, tôi chỉ đến rạch Bà Khoa, rồi tẽ vào đó để qua làng Mỹ Đức Tây. Nhưng thôi, tôi đưa cô ra vàm, rồi đi đường sông. Đánh vòng, tuy hơi xa một chút nhưng cũng không sao. Chợ Cần Thơ từ hồi hòa bình đến giờ ra sao, cô?

Thể Hà giựt mình, bởi nàng vừa nói láo với ông ta là ở Cần Thơ cho tiện, chớ ngại nói ở Sài Gòn sợ ông nói mình là “Mỹ ngụy” thì thêm rắc rối. Nàng ngượng ngập trả lời:

– Thưa bác Cần Thơ cũng như xưa, chợ búa vẫn buôn bán và đông người.

Ông ta chép miệng:

– Được vậy cũng mừng. Nghe nói tụi nó đánh tư sản mại bản chi đó, lấy ráo nhà cửa, của cải của người ta. Thiệt là đồ bất nhơn ác đức, cướp của đày ải người, tán tận lương tâm mà!

Thể Hà ậm ừ, không dám đề cập đến bất cứ việc gì. Suốt quãng đường trong con rạch ngắn chừng một cây số, ông ta nói gì nàng cũng “dạ, dạ” cho qua đi, vì nhớ lời chồng đã dặn: “Thời thế nhiễu nhương, lòng người tráo trở. Em còn nhớ phim “Chúng Tôi Muốn Sống” chớ? Một truyện phim hết sức trung thực nói về xã hội Miền Bắc nước ta dưới chế độ Cộng sản. Chuyện đó đã qua mấy mươi năm rồi. Nhưng tâm hồn những con người Cộng sản, bây giờ được tôi luyện chai lì hơn, độc ác hơn, dã man hơn, kinh khiếp hơn, lão luyện hơn, khoa học hơn, hiện đại hơn. Khi mà ai bị coi là kẻ thù thì họ sẽ sát hại bằng đủ mọi cách không nương tay. Họ dùng những thủ đoạn tinh vi mà kẻ đối nghịch không một chút nghi ngờ và cũng không tài nào biết được. Đến khi biết được thì chuyện đã xong, không sao xoay trở kịp”.

Chàng chép miệng thở dài, tiếp: “Để rồi coi, sẽ có một trận trả thù tập thể tàn khốc cho những người Quốc Gia sống bên nầy bờ Bến Hải nếu ngày xưa ai không giúp cho chúng, không làm tay sai ngầm cho chúng… Trong đó có chúng ta. Em hay nhẹ dạ, lại dễ tin người. Ngoài phường, khóm có gọi đi hội họp, thì em phải giữ gìn ý tứ, ai nói gì chỉ nghe thôi, không góp ý, không góp lời, cũng không bàn tán…”.

Lúc nghe chồng nói giọng thầy đời, nàng ghét lắm, phải là ngày xưa thì nàng chọc quê rồi, cho dù chàng nói phải, nói đúng cũng vậy. Nhưng bây giờ nàng không còn lòng dạ nào để nói chơi, hoặc nói giỡn nữa.

Xuồng ghé vào cầu nhủi, dưới bến sông nhà cậu của Thể Hà. Nàng lấy một ổ bánh mì được cột chung với ba ổ khác mua về cho cậu, tặng cho thằng bé cháu ông chủ xuồng, rồi cảm ơn ông, vội bước lên cầu, đi vào nhà cậu Hai.

Thể Hà rảo mắt nhìn quanh. Chưa đầy hai năm, sau ngày giặc vào cưỡng chiếm miền Nam mà cảnh vật quá đổi thay! Mấy cây cam sành, cam hồng mật sai oằn nhánh trước cửa nhà năm xưa, giờ xác xơ, khô héo. Cây quít đường trồng cạnh bàn thờ Ông Thiên, nửa bên nhánh lá còi cọc, nửa bên khô đét. Liếp trầu vàng của bà ngoại gần hầm nuôi cá bị heo ủi, gà bươi, dây còn, dây mất. Lá trầu lưa thưa không vàng, không còn bóng mượt sau đêm dài hứng những giọt sương, hoặc sau cơn mưa, hoặc sau khi được dùng gàu cán dài tát nước tưới lên. Lá trầu vàng thuở trước mỏng, phơi phới, dây trầu bò ôm quấn tròn thân cây vông nem màu bạc bạc, lá vông non xanh mươn mướt người ta thường dùng để gói nem hay cuốn bánh xèo ăn ngon lắm.

Thể Hà thấy tội nghiệp cậu Hai quá! Nỗi âu lo, khổ sở, buồn đau gậm nhấm, tàn phá con người thật nhanh chóng. Chưa bao lâu mà cậu Hai nàng trông già đi rất nhiều. Lưng cậu còm xuống, ốm yếu. Cậu mặc bộ đồ vải ú, áo ngắn tay ngã màu ngà vì cũ, lại dính lốm đốm đầy mủ cây, mủ chuối. Chiếc quần đen lỡ không dài cũng không ngắn, chỉ quá đầu gối. Đầu cậu đội cái nón lá cũ mốc thâm đen. Cậu đi nhanh và lẫn khuất trong bờ trồng nhiều chuối xiêm. Những bụi chuối, mà ngày xưa ông Sáu giúp làm vườn cứ một năm hai lần, móc đất sình non dưới mương đắp gốc, nên cây nào cây nấy mập ú, tàu lá xanh non như lụa, đánh phần phật khi gió thổi qua. Có cây trổ bắp no tròn, úc núc, cây có buồng chuối non, cây có quày chuối hườm hườm chín bói, bị chim ăn. Chuối bị chim ăn nầy, đốn xuống, chẻ làm đôi, lột vỏ đem nấu, bỏ thêm chút muối thì vừa dẻo lại vừa ngọt.

Thuở thanh xuân, cậu Hai nàng đã đậu bằng Thành Chung. Vì cậu yêu con sông, cái mương, miếng vườn, thửa ruộng, bờ tre, con cá, lá rau, mà từ chối công việc làm công chức ở chốn thành đô hoa lệ, tưng bùng náo nhiệt. Cậu trở về quê an phận, sống cuộc đời bình đạm của một người nông dân. Nay giặc vào, muốn làm một thường dân bình phàm cũng khó, rất khó! Dáng vóc cậu khỏe mạnh, nét mặt vui tươi, nụ cười hiền hòa, rộng lượng, cởi mở ngày xưa nay cũng đã biến mất theo thời cuộc. Cậu bây giờ là một ông già ốm yếu, gầy gò, hắt hiu.

Thể Hà làm sao quên được thuở nàng còn học lớp đệ thất, đệ lục. Mỗi mùa hè nàng đều về ngoại sống cả tháng để nghỉ ngơi sau niên học vùi đầu trong học bài, làm bài, thi cử… Về ngoại theo các anh chị con cậu Hai đi câu cá, bắt chim, bắt trục hoặc đặt lờ, vó cá, nôm cá, xúc cá… Những ngày cận Tết thì tát mương, giở chà để có cá kho với thịt và có đệm trứng vịt. Tôm để làm gỏi và các loại cá khác rọng để ra giêng làm món ăn… khỏi phải ra tiền mua trong những ngày đầu năm, mà gia đình bên ngoại nàng kiêng cữ dữ lăm.

Nàng nhớ lần đó coi cậu Hai và mấy ông làm vườn giúp cậu giở chà ngâm dưới bến sông nhà ngoại. Muốn bắt cá ở chà cũng phải công phu và biết được con nước thì mới thu hoạch nhiều tôm, cá. Bắt cá chà ngầm, người ta phải bao chà bằng lưới hoặc bằng đăng. Đăng làm bằng tre, chẻ ra thành những cọng nhỏ bằng ngón tay út, dẹp. Những cọng tre nầy sắc bén phải chuốt cho sạch, cạnh cho tròn từ trên đầu xuống trước khi bện lại thành đăng, để không bị cắt đứt khi đụng chạm đến. Đầu dưới của đăng luôn được chuốt nhọn, để dễ dàng cặm xuống đất sình. Họ bện những cọng tre lại bằng loại dây thừng đã ngâm trong nước vỏ cây sắn. Nước vỏ cây sắn chát vô cùng. Những thợ chài lưới, họ thường lấy các loại chỉ, sợi, dây. dùng làm lưới, làm chài, làm nhợ câu… (không phai bằng ni-lông) ngâm trong nước vỏ cây sắn, vì chất chát của nó giữ cho dây chắc, lâu bền và không dễ bị mục.

Nếu dùng lưới để bao quanh đống chà, thì lưới được cột thật chặt vào những cây cột đóng sẵn từ lâu. Đống chà chất lớn hay nhỏ là tùy theo ý muốn của người chất chà. Họ lấy những nhánh cây khô có cành chi chít, bùm xùm, cột chặt lại với nhau, lượng thế nào mà bó chà ngấm nước vẫn còn nhẹ, vừa vòng tay một người ôm. Họ thảy chà xuống vùng nước đã cắm sẵn những cột bằng những thân cây tre già đầu dưới nhọn, thẳng, chắc, dài để khi cắm xuống đất sình sâu dưới sông mà cây vẫn phải cao hơn mực nước bình thường, để giữ chà không bị nước cuốn trôi đi, và để sau nay cột những tấm đăng, hoặc lưới bao chà.

Muốn bắt chà có nhiều tôm cá, thì chà nầy phải thả xuống nước từ năm sáu tháng trước, cho bọn tôm cá quen mùi quen hơi rong rêu của chà.

Cậu Hai nàng chờ đến con nước lớn tối trời rồi cho thảy xuống đống chà những cục mồi bằng đất sét nhồi với cám rang khen khét cho thật thơm, để nhử bọn cá, tôm kéo nhau đến ăn một bữa tiệc no nê. Tiệc của bọn cá tôm chưa tàn, nước đứng ròng là ba bốn người đàn ông lực lưỡng, nhẹ nhàng nhảy xuống nước, mở lưới hoặc đăng ra bao quanh đống chà lại. Họ làm lanh lẹ, cắm đăng hoặc lưới sâu trong sình non, để không cho bọn cá tôm chém giè chui qua lớp sình trốn ra ngoài. Mấy người đàn ông bao chà nầy lội quanh đống chà xem xét kỹ coi còn chỗ nào hở để kéo lại cho nó khít khao. Rồi họ cùng leo lên bờ về nhà ở gần, đánh một giấc chờ nước ròng sát thì trở lại giở chà. Nhưng thường thì họ ở lại. Có nhóm uống trà nóng ăn cốm chuồi, kẹo đậu phộng, phì phà điếu thuốc rê. Lại có nhóm, kẻ lận theo mồi nhắm, người đem trái xoài sống để chấm nước mắm đường, hay muối ớt, đem xị rượu đế, nhâm nhi cho ấm lòng trong lúc chờ nước rút. Họ cười nói, hoặc kể chuyện tiếu lâm, có người cảm khái ngồi dựa gốc cau hay gốc dừa gần đó lấy gân cổ, cất giọng khàn khàn ca những câu Vọng cổ mùi rệu không đầu không đuôi, hoặc câu ca Nam Ai thiết tha mặn nồng…

Nước cạn gần nửa sông, họ cùng trở xuống đống chà, chuyền tay nhau đưa chà ra bên ngoài lưới. Nước sông cạn dần. Các loại cá mắc trong vòng bao của lưới nhảy lung tung. Tôm chịu không nổi nước đục búng tróc tróc, đưa càng xanh râu đỏ lềnh mặt nước. Cá chài, cá mè vinh nhảy cao nhứt, cá thác lác, cá trèn bầu, cá bống tượng, gần như đủ loại cá rạch, cá sông…

Sau khi giở chà, bắt cá xong, mấy ông lo thu dọn đem lưới, đem đăng giặt cho sạch bùn sình, để còn dùng cho những lần sau. Họ chất chà trở lại chỗ cũ, để chờ mùa tới. Họ tắm rửa xong thì được mấy bà cho nhậu với cá nướng trui, tôm nướng, cá làm chả… Mấy ông nhậu một bữa tưng bừng hoa lá, và khệ nệ xách về nhà mỗi người một bao bàng đựng tôm cá để làm gỏi, dồn khổ qua… thêm phần phong phú cho những bữa ăn trong ba ngày Tết.

Chép miệng thở dài, lòng Thể Hà buồn rười rượi, lấy tàu cau khô rụng gần đó, xé sợi dây chuối cột túm lại như cây chổi để quét lá tre, lá mận, lá mai, các lá cây khác… rơi vướng trên những nấm mộ. Nàng đốt nhang mộ ông bà ngoại, lâm râm khấn nguyện ông bà phù hộ cho gia đình nàng được bình yên đến bờ bến tự do trong chuyến vượt biên sắp tới. Thắp nhang trước phần mộ của má ba, Thể Hà bùi ngùi xúc động. Hình ảnh ba nàng rõ nét như ngày nào: Dáng dấp khoan thai, giọng nói từ tốn, tiếng cười, khi vui, lúc buồn, hay hờn, giận, hiện rõ trên khuôn mặt hiền lành của ông. Giờ ba nàng nằm đây! Dưới bầu trời xanh ngăn ngắt, có tiếng chim hót líu lo, có cây che bóng mát, có lá reo trong gió vi vu suốt bốn mùa, có mồ yên, mả đẹp, ấm cúng bên mộ má và mộ chị nàng. Ba nàng nằm đó, dưới ba tấc đất! Gần rất gần, nhưng xa thật là xa. Nàng nhớ lúc đi học ở Sài Gòn, mỗi lần trở về thăm nhà. Thấy ba, nàng chạy đến ôm chầm lấy vai ông thổn thức. Ông vỗ nhẹ đầu nàng, cha con yên lặng! Qua phút giây nghẹn ngào, với giọng, ôn tồn chan chứa tình phụ tử, ba nàng bảo: “Con gái của ba đã về! Con gái ba về rồi!”. Câu nói đơn sơ, ngắn gọn ấy, trọn đời nầy không làm sao nàng nghe lại được nữa! Những giọt nước mắt nàng chảy dài trên má.

Sau buổi cơm trưa cùng cậu mợ. Thể Hà trở về Sài Gòn chiều hôm đó. Lúc xuống bến sông nhà, để cậu Hai chống ghe đưa vào Quốc Lộ Bốn, mợ Hai bịn rịn ôm vai nàng thút thít khóc. Cậu phải mấy lần hối thúc mợ cháu mới rời nhau. Không nói ra, nhưng trong lòng cả ba người đều biết rằng, giã từ lần nầy không biết bao giờ mới gặp lại? Chắc là phải kiếp tái sanh?

Đông Nhựt chạy đôn chạy đáo tìm đường ra đi. Mấy lần bị giựt tiền, bị giựt vàng, làm cả gia đình chàng chới với. Số là Đông Nhựt đưa vàng đặt cọc cho chủ tàu, hoặc người mối lái để gia đình vượt biên, nhưng đến ngày ra đi, họ không cho biết, không gọi gia đình chàng cùng đi. Có lần bãi đổ người đi bị bể, Đông Nhựt chạy thoát, còn vợ con và hai bà già chưa đến nơi thì vợ chàng biết chuyện đã xảy ra, vội bồng bế quay đầu trở lại nhà. Lần đó mất hơn nửa số vàng dành dụm mà mừng hết lớn, còn cảm ơn ông bà phù hộ cho gia đình không ai bị bắt, và nhà chưa bị chúng tịch thu.

Đồ đạc như bình sứ, ly tách chén dĩa nhập cảng từ Nhật, Pháp, Hồng Kông… trưng bày trong tủ búp-phê, cho đẹp nhà và khi có khách hoặc đám tiệc lấy ra dùng không phải đi mượn hoặc mướn ở các tiệm. Những đồ vật có giá trị khác trong nhà như bộ kỷ trà màu gan gà có mạ vàng thiệt trên miệng tách, trên vòi, trên tay cầm của bình trà, của dĩa. Những cổ vật sưu tầm như tranh, tượng bằng ngà voi, bằng đồi mồi, bằng gỗ quý… đem ra bán từ từ, rồi bán đến giường ngủ, bàn ghế, áo, quần… Cái gì bán được thì bán, để chi dụng hàng ngày cho gia đình gồm bốn người lớn, ba đứa nhỏ. Và cũng để qua mắt bọn người được dân chúng khinh thường gọi là bọn cách mạng 30 tháng 4 luôn luôn dòm ngó, điềm chỉ để lập công, để dựa hơi kiếm chác…

Từ khi giặc vào đến giờ, gia đình Đông Nhựt xao xác, người lớn ăn không ngon, ngủ không yên. Đó là tình cảnh chung, của những người sống bên nầy bờ Bến Hải. Quân, dân, cán, chánh các cấp từ bộ, phủ, nha… từ các nhân viên cao cấp cho đến những viên chức tầm thường, những thương gia có tài sản đều bị tịch thu, bị đày đi cải tạo. Gia đình phải đi kinh tế mới… Thời thế điên đảo, nước mất, nhà tan, lòng người ngã nghiêng! Cảnh đời nầy, ngày xưa từ bậc Tiểu học Thể Hà đã được nghe giảng dạy ở trường. Nàng còn được xem cái xã hội miền Bắc trong sách vở, trong phim ảnh. Với tâm hồn vô tư, sống trong xã hội tự do, nàng ngờ ngợ không tin, mà nghĩ rằng: “Trên đời sao còn có những nước dã man, lạc hậu, những con người ác hiểm như vậy?”. Giờ đây có rồi. Đã hiển hiện trước mắt, trên đất nước nàng!

Mấy hôm rày, Thể Hà cảm thấy tâm hồn bất ổn hơn. Nàng như người bị say sóng gió, lừ đừ, hồi hộp, bồn chồn, đứng ngồi không yên. Không phải chỉ một mình nàng, mọi người lớn trong gia đình đều âu lo. Chỉ có các con nàng còn nhỏ không biết gì, nên ăn no, ngủ yên thôi.

Sáng nào má chồng nàng và cô Hai cũng nấu nồi cơm lớn, làm hai món ăn. Mỗi người trong nhà, ai cùng đang lo sợ, hồi hộp, chờ đợi, giống nhau. Đó là cuộc trốn chạy khỏi đất nước quê hương mình trong chuyến vượt biển sắp tới đây. Gia đình nàng đã quyết định bỏ lại sau lưng tất cả. Bỏ lại nơi sanh ra và lớn lên, bỏ lại những gì thân yêu trân quý nhứt, đã do sự cần cù nhẫn nại của vợ chồng nàng gầy dựng hơn nửa cuộc đời trên đất mẹ thân yêu nầy.

Thể Hà không biết má chồng và cô Hai nàng đang nghĩ gì? Hai bà biếng nói, ít cười. Đôi lúc nàng nghe được tiếng thở dài thườn thượt của họ. Thời gian gần đây, mỗi ngày khi ăn cơm chiều xong là hai bà dắt ba đứa nhỏ vào phòng kể chuyện, dỗ dành để chúng ngủ. Các cháu ngủ lâu rồi, nhưng hai bà vẫn còn thao thức, trở trăn, đi tiểu, tằng hắng, ho hen, hoặc cứ lục đục xếp đi xếp lại mấy bộ đồ. Hai bà đã lo sắp cho các cháu và mỗi người mấy bộ áo quần vào trong túi nải từ lâu lắm rồi để đem theo. Có lẽ vì trong lúc lòng bất an, nên hai bà làm cái gì đó để đỡ phần phập phồng hồi hộp.

Chồng nàng hốc hác, tiều tụy, đôi mày lúc nào cũng châu lại, có lẽ chàng không ngủ được. Chàng hay ngồi nơi vắng vẻ, hút thuốc hết điếu nầy đến điếu kia, yên lặng thừ người ra nghĩ ngợi… Thể Hà nhìn chồng xót xa, giọng đượm đầy nước mắt:

– Chuyện gì đến sẽ đến. Anh đừng suy nghĩ nhiều nữa. Anh là cột trụ của gia đình. Cột trụ mà ngã thì cái nhà sẽ sập. Anh mà ngã qụy thì em cùng không sao chống nổi, cũng sẽ ngã quỵ theo anh.

Đông Nhựt nắm tay vợ, bảo:

– Em hãy nghe anh nói, anh hỏi và em phải thành thật trả lời cho anh biết: Lần vượt biên nầy là quyết định sống còn cho bảy mạng của gia đình chúng ta. Đi lọt, tàu chìm cả nhà chết hết, thì không chuyện gì để nói. Nếu vợ chồng mình bị bắt ở tù thì má, cô Hai và các con phải làm sao? Nếu anh bị ở tù, thì em phải xoay xở bằng cách nào? Em có sợ cho chuyến đi thập tử nhứt sanh nầy không? Nếu em không muốn đi, hoặc em lo sợ, thì chúng ta sẽ tìm biện pháp khác. Chúng ta có thể ở lại đây, sống như mọi người, ai sao mình vậy?

Thể Hà thấu hiểu, nỗi đau buồn lo lắng ngấm ngầm trong lòng chồng hơn ai hết. Nàng chỉ cần nói: “không đi”, thì mọi dự tính chàng sẽ bỏ hết. Mắt long lanh màn lệ, nàng siết chặt tay chồng hơn:

– Em không hề nghĩ sẽ ở lại! Vì tương lai các con, chúng ta phải nhứt quyết ra đi. Chuyến ra đi nầy, dù trả giá thế nào em cũng cam lòng, không hề hối tiếc. Khi bước xuống tàu rồi, em kể như mình đi vào cõi chết. Em có nói với cô Hai và má rồi, nếu vợ chồng mình ở tù thì hãy bồng bế các cháu về quê ngoại em. Cậu mợ, và dòng họ bên ngoại em không bao giờ bỏ họ đâu. Nếu em ở ngoài thì rất dễ, em sẽ chạy lo để anh thoát, rồi chúng ta gầy dựng lại, tìm cách đi nữa.

Đông Nhựt chăm chú, lắng tai nghe. Nàng trầm giọng, nói tiếp:

– Nếu em sanh ra và lớn lên trong nước Cộng sản, em không được đi học, em không có sách Thánh hiền để đọc, tâm linh không được hướng về một đạo giáo nào. Em cũng không biết gì về nhân cách và bổn phận kẻ làm người. Em không biết luôn được nhân quyền và đời sống tự do của một con người. Thì có lẽ, em có cái nhìn và lối suy nghĩ khác hơn. Anh đừng cho em là đàn bà, mà xem thường em. Em đã quyết định ra đi rồi. Chúng ta không thể nào để cho các con sống trong xã hội nầy được!

Đã hơn hai năm rồi, từ ngày giặc Cộng chiếm miền Nam, gia đình Thể Hà vẫn chưa đi được. Còn bà chị trên giấy tờ của Thể Hà là Thái Vân và cô em chồng Xuân Hà thì hoàn toàn mất liên lạc với gia đình nàng! Cả nhà đuối lắm rồi, nàng buồn và thấp thỏm âu lo cho tình hình đất nước vô trật tự và những luật lệ đáng sợ nầy. Chúng muốn làm tình làm tội, muốn bắt bớ ai cũng được, chỉ cần chụp cho đối phương là CIA, tình báo, phản cách mạng là nạn nhân kể như tàn đời. Cửa nhà tan nát, con cái phân tán và người chủ gia đình bị đi cải tạo không có ngày về…

Vàng dành dụm của gia đình vơi dần, vơi dần. Bà Châu biết con dâu mình lo lắng, vì nàng sợ vàng hết mà cả nhà chưa đi được thì làm sao mọi người sống đây? Còn cô Hai lại bịnh rề rê vì lớn tuổi. Đông Nhựt cùng biết rõ hoàn cảnh và nỗi lòng của người nhà, chàng nhỏ nhẹ khuyên vợ:

– Em đừng lo quá rồi sanh bịnh thì khổ lắm. Gia đình mình sẽ đi được đến bến bờ tự do mà.

Với chồng, lúc nào nàng cùng tuyệt đối tin tưởng. Nhưng lần nầy, dù tin chàng nàng vẫn nơm nớp phập phồng âu lo.