CHƯƠNG MƯỜI BA
Ba tháng sau khi dọn về nhà mới. Một hôm, Đông Nhựt bàn với vợ:
– Chúng ta, mỗi đứa làm hai việc gần hai năm rồi. Làm nhiều để có tiền dằn cọc mua nhà. Nay coi như vậy là đầy đủ rồi. Kể từ đây trở đi, anh và em mỗi người chỉ làm một việc thôi, để chúng mình có thời giờ với con cái. Dù rằng các con ngoan ngoãn, nhưng ở xứ tự do nầy, nếu không dòm ngó, nhắc nhở, gần gũi chúng… cứ bỏ chúng ở nhà một mình hoài thì cũng không nên. Biết rằng, không có tiền không làm gì được cả. Nhưng chúng ta nói đủ thì đủ, còn nói thiếu thì không bao giờ đủ cả em à. Tiền Mỹ thơm lắm, nó quyến rũ con người ta làm việc không biết giờ giấc, không ngừng nghỉ. Làm việc không có thì giờ để ngủ, không có thì giờ để ăn. Làm việc bị đau lên đau xuống mà vẫn lướt qua, không chịu nghỉ ngơi dưỡng súc và vẫn cứ tiếp tục làm… Như vậy là mình làm tôi mọi cho đồng tiền.
Thể Hà đang đứng lặt rau, bà Châu đang trộn thịt để một lát cuốn chả giò chiên cho các cháu. Qua đây, nàng học nấu được nhiều món mà ngày xưa ở quê nhà dù là những món ăn đơn giản, tầm thường lẫn các món đặc biệt mà nàng không bao giờ biết tới như: kho thịt bò, làm món thịt heo kho trứng, làm món hủ tíu xào, bánh xèo, cháo lòng… Đàn bà ở xứ nầy cực quá. Làm ở sở tám giờ rồi mà về nhà còn có công việc lắt nhắt khác phải làm và có rất nhiều nỗi phải lo. May mà chồng nàng chí thú làm ăn, lo cho gia đình. May mà nàng được mẹ chồng yêu thương làm gần hết mọi việc trong nhà để con và dâu đủ sức đi làm hai việc.
Đông Nhựt tưởng vợ không nghe, nên hỏi thêm lần nữa:
– Anh nghĩ như vậy, còn em thế nào?
Thể Hà chưa trả lời vội, nàng rửa tay, rồi đi đến bàn nước gần chỗ chồng ngồi trên sô-pha, rót hai ly nước trà nóng, một ly cho mình còn một ly cho chàng. Nàng định uống, nhưng dừng lại hỏi bà Châu:
– Má uống nước không má? Con rót luôn.
Bà Châu không ngó lên, chú ý vào việc đang làm, trả lời con dâu:
– Chút nữa đã, má đang bận tay.
Thể Hà vừa đưa ly nước cho chồng, vừa nói:
– Em nghĩ anh nói cũng đúng. Để thứ hai em đến văn phòng của việc làm phụ cho họ biết, cuối tháng này em sẽ nghỉ việc luôn. Còn anh thì chừng nào?
Đông Nhựt thuận tay, kéo vợ ngồi xuống bên cạnh mình, âu yếm:
– Anh cũng sẽ nghỉ làm việc thứ hai vào cuối tháng nầy như em.
o O o
Nhà của Đông Nhựt cách thành phố Chicago khoảng 30 phút lái xe. Cuối tuần nào làm sang, họ chở cả nhà đi tiệm ăn một bữa rửa ruột là toi mất tiền một ngày làm của vợ chồng nàng. Số tiền đó, nếu chịu khó mua vật dụng về nhà nấu, ít nhứt cả nhà cũng ăn được mấy ngày. Má chồng nàng thường nói với con dâu, và mấy cháu:
– Ở nhà nấu nướng, không dùng nhiều dầu mỡ vừa tránh được chất béo có hại cho cơ thể vừa ngon miệng, vừa ăn uống thong thả, vừa tiết kiệm được nhiều thứ và nhứt là khỏi cho tiền típ.
Mồi lần bà càm ràm về trả tiền típ khi đi ăn ở nhà hàng, thì mấy đúa nhỏ phá lên cười, chúng nhao nhao:
– Bà nội kẹo quá đi, mình cho tiền típ ít hơn Mỹ nhiều mà còn tiếc.
Thể Dao cười, mắt hấp háy với nội:
– Nội à, tội nghiệp mấy cô tiếp viên học trò đó lắm! Họ đi làm lương giờ không có bao nhiêu đâu, chỉ nhờ vào tiền típ thôi.
Thể Quỳnh nhắc nhở bà:
– Bà không nhớ hè năm rồi con và chị Thể Dao làm ở tiệm bán đồ ăn sáng của Mỹ sao? Mỗi giờ chúng con chỉ được trả 1 Mỹ kim thôi. Nhờ vào tiền típ, ngày nào chúng con cũng đem về được mười mấy đồng đó nội.
Thái Dương, nheo mắt:
– Thì ra bà nội mình không ngại tốn tiền ăn, mà tiếc tiền cho típ thôi. Nội nói đúng lắm, mấy chị nghĩ coi, mình vào tiệm ăn họ tính tất cả tiền chi phí của họ cho khách hàng. Vậy mà luật ở đây còn bắt thực khách phải cho tiền típ nữa, thật là bất công phải không nội? Nhưng nội à, nước nầy giàu, tặng người phục dịch cho mình chút xíu có chi đâu, như tặng gì cho ai nội thường nói “làm chút duyên đó mà!”.
Hai con chị quơ tay la chói lói thằng em:
– Ê, cái thằng nịnh bợ, cái thằng nầy nịnh bợ lắm đó nội.
Thái Dương cười lớn, vừa gạt tay hai chị ra, vừa la:
– Em nói chưa hết mà, hai người làm gì ong óng vậy? Nội ơi. đi ăn nhà hàng mà không cho típ, những người ngồi chung quanh sẽ nói: “Lão phật gia nầy keo kiết như kẹo kéo, kéo không ra” đó. Vậy để cho cháu mang tiếng rộng rãi thế nội nhen. Khi vào nhà hàng ăn xong nội trả tiền ăn, còn cháu làm chút duyên trả tiền típ.
Nghe Thái Dương nói xong, cả ba chị em ôm bụng cười bò lăn. Bà Châu cũng cười theo cháu và mắng yêu “Thằng cha mầy, dám chọc ghẹo bà hả?”.
Đông Nhựt nhìn mẹ, cười than thở: “Ôi ngày xưa má của ông chủ hãng Đông Nhựt hiệu Con Dế Nhủi nầy, ăn xài rộng rãi nổi tiếng, qua xứ người giàu tiền, giàu bạc sao mà keo kiệt quá vậy cà? Hèn gì gia đình mình phải sống ở vùng tuyết! Lạnh ơi, là lạnh!”.
Thể Dao được nhận vào trường đại học Northwestern (Illinois) năm thứ nhứt. Đây là một trong những trường đại học tư có nhiều giáo sư dạy giỏi và mắc có tiếng trong vùng. Tiêu chuẩn trường chọn sinh viên không phải ở tiền bạc, vì có tiền cũng chưa chắc đã vào được. Vì xa nhà nên Thể Dao ăn ở nội trú luôn trong trường.
Nhờ cô xin được học bổng và mượn được tiền ở ngân hàng để đi học nên vợ chồng Thể Hà chỉ tốn tiền quần áo, tiền ăn, tiền sách vở thôi, với số lương cu-li của vợ chồng nàng, việc lo cho các con sách vở, tiêu vặt cùng đủ làm họ ngất ngư, phờ phạc gần chết rồi, vì cứ đứa năm trước, đứa năm sau nối đuôi nhau vào đại học. Mặc dù con em Thể Quỳnh học khác trường với con chị Thể Dao, nhưng cũng phải tốn kém.
Hai con chị sắp ra trường đại học bốn năm thì thằng em lại vào. Thái Dương được nhận vào chương trình đặc biệt của ngành y khoa. Thái Dương sẽ học 3 năm phổ thông ở đại học và chuyển tiếp qua học 4 năm chuyên khoa về ngành y. Thay vì những sinh viên khác muốn học y khoa phải học xong 4 năm như Thể Dao, rồi sau đó phải thi cho đủ điểm mới làm đơn xin vào các trường đại học học y khoa.
Thủ tục thi cử, phỏng vấn vào trường y khoa cũng vất vả trăm chiều và gay go lắm. Nếu được nhận vào thì phải học thêm 4 năm chuyên môn nữa. Túc là trước sau phải học 8 năm mới thi lấy bằng bác sĩ (MD).
Thái Dương của vợ chồng nàng chỉ học 7 năm thôi. Thái Dương cũng làm đơn từ, thi cử để vào ngành y khoa như Thể Dao. Nhưng cháu học thời gian ngắn hơn 1 năm và ngay từ năm thứ nhứt đại học là ngành y khoa của trường đã dành chỗ cho cháu rồi, không phải bôn ba lo chạy tìm trường như chị Thể Dao và các bạn đồng môn.
Tội nghiệp Thể Dao phải gởi đơn đi rất nhiều trường, sau cùng mới được nhận vào trường y khoa xa nhà mãi tận tiểu bang Florida.
Còn Thể Quỳnh học ở trường đại học Champaigne (Illinois), cách nhà phải hơn 3 giờ lái xe, nên cô ở nội trú trong trường. Đó là một trong những trường đại học nổi tiếng đào tạo kỹ sư của nước Mỹ. Ai tốt nghiệp kỹ sư của trường nay ít khi bị thất nghiệp.
Lúc Thể Quỳnh học giữa năm thứ hai thì đi làm “cô-ốp” để được trau giồi và rút kinh nghiệm cho nghề mình sau nầy. Cô làm ở California, mỗi giờ được trả 13$ (số tiền lương nầy với thời bấy giờ không phải nhỏ). Trong khi 2 vợ chồng Đông Nhựt làm 1 giờ cộng lại cũng chưa bằng con mình làm 1 giờ. Nhưng Thể Hà và Đông Nhựt không bằng lòng lắm cho việc con ra làm ngang xương thư thế. Bởi lẽ vợ chồng nàng sợ, con ra đi làm ham tiền, ham xe rồi làm luôn không chịu trở vào trường học tiếp. Một hôm Thể Hà thỏ thẻ với con:
– Con đi làm gần đến 6 tháng rồi. Họ trả lương cao như vậy, con có định làm luôn hay không?
Thể Quỳnh vô tư, cười vui nói với mẹ:
– Tuần rồi, ông xếp của con gọi con lên nói. Nếu con muốn làm luôn thì ổng sẽ cho tăng lương và sau nầy muốn học để lấy cái bằng thì hãng sẽ trả tiền học phí cho con. Đó là điều kiện tốt
Thể Hà lo lắng, hỏi con:
– Con định sao, và trả lời thế nào với ông xếp?
– Con nói với ổng, khi xong hợp đồng 6 tháng con phải trở về trường học nốt thời gian còn lại để lấy bằng kỹ sư. Khi nào con ra trường, nếu hãng ổng còn cần người thì con sẽ trở lại làm. Ông ta có vẻ tiếc nhưng nhận lời, và còn dặn con chừng nào học xong phải gọi lại cho ổng hay. Con biết họ trả lương cao, nhưng ai biết được thời gian nào đó, hãng họ sập tiệm, hay họ mướn được người khác có bằng, giỏi hơn con thì con sẽ bị thất nghiệp. Lúc đó, con gái mẹ không có cái bằng lộn lưng thì xin hãng xưởng khác đúng cái nghề của mình rất là khó khăn mẹ à.
Nghe con nói, Thể Hà mừng thầm trong lòng. Nàng biết được con mình đã trưởng thành.
Gia đình Thể Hà ngày hôm đó vui như Tết khi được thư của đại học Northwestern hồi báo, nhận Thái Dương vào chương trình y khoa 7 năm của trường.
Bà nội chảy nước mắt, ôm thằng cháu hôn lấy hôn để. Rồi đến trước bàn thờ chồng vừa lạy tạ, vừa thút thít khóc. Đông Nhựt đắc ý, trầm ngâm hướng mắt qua cửa sổ nhìn trời xa. Mặt chàng hiện rõ vẻ cảm động, bùi ngùi và lẫn lộn vui mừng. Đàn ông mà, đâu có léo nhéo như đàn bà, như vợ chàng.
Thể Hà nhớ ra, lật đật đến bàn thờ Phật, lần lượt đến bàn thờ ông bà ngoại, cô Hai, ông nội cháu lạy tạ ơn và hứa, trước khi các cháu vào trường sẽ nấu mâm cơm canh cúng và sau khi ra trường cũng sẽ cúng trả lễ. Lòng nàng ngập tràn nỗi cảm hoài. Nàng đứng trước bàn thờ, đốt nhang, vai run run, tay xá xá và mắt rơi lệ vui mừng.
Mắt còn hoen dòng lệ, Thể Hà lật đật điện thoại báo tin cho vợ chồng Xuân Hà và Thái Vân biết. Ai cũng hân hoan chúc mừng cháu và mừng cho vợ chồng nàng. Nhứt là bà dì hờ Thái Vân của chúng, nàng ta còn hứa trước khi Thái Dương vào trường sẽ được vợ chồng nàng đãi cả gia đình Đông Nhựt một bữa ăn sáng đặc biệt ở nhà hàng Tàu, ngoài Chinatown.
Niềm vui ở tuổi già nơi xứ lạ quê người của bà Châu là thấy các cháu chăm chỉ học hành, ngoan ngoãn để không bỏ công con, dâu bà quá vất vả. Mùa đông vùng gia đình bà ở tuyết rơi suốt ngày và gió rét lạnh lùng gần sáu bảy tháng. Thấy dâu con cực nhọc, lòng mẹ xót xa. Nhưng bà không biết làm gì hơn ngoài việc lẩn quẩn trong nhà nấu nướng, dọn dẹp, và trông chừng các cháu nhắc nhở học bài, làm bài…
Mặc dù Thể Dao mới học năm thứ ba đại học, Thể Quỳnh học năm thứ nhì kỷ sư, và Thái Dương đã vào năm thứ nhứt. Các cháu bà học hành chưa xong, ít ra cũng phải còn một đoạn đường dài nhiều thử thách nữa. Nhưng chúng làm cho bà, con, dâu bà cảm thấy thỏa lòng, xứng dáng cho sự hy sinh và vất vả không biết mệt mỏi của họ và bà cũng lấy làm hãnh diện.
Đối với một người phụ nữ, gầy gò ốm yếu như Thể Hà, mà làm việc một ngày 16 giờ, ai nghe cũng chép miệng lắc đầu. Không biết người ta sẽ nghĩ gì trong bụng? Họ tội nghiệp cho Thể Hà quá vất vả, hay họ cười nàng ngu dại làm việc nhọc nhằn như trâu, ngựa? Nhưng “Khi đói rồi thì đâu gối cũng phải bò”, sự thật là như vậy! Xứ tự do, nếu không cờ bạc, không nghiện ngập thì làm sao đói được? Đây là nước Dân Chủ Cộng Hòa Tự Do, chớ có phải nước của Xã Hội Chủ Nghĩa của Cộng sản dâu.
Người dân ở xứ Hoa Kỳ làm việc nhiều tiền thì chánh phủ lấy bằng hình thức đánh thuế. Dân làm không đủ tiêu chuẩn thì chánh phủ cho thêm. Đời sống về an ninh, y tế được bảo vệ thỏa đáng (qua hình thức bảo hiểm sức khỏe, sinh mạng ở sở làm, của tư nhân, của chánh phủ).
Gia đình Thể Hà nhiều thứ cần phải chi dụng. Đầu hôm sớm mai ở xứ người, chỉ nhờ vào sức mình thôi, không thể ỷ lại vào sự giúp đỡ của Xuân Hà, của Thái Vân. Lúc mới qua, còn chân ướt chân ráo, hai người họ đã giúp cho gia đình nàng quá nhiều rồi.
Sống ở xứ người mấy năm, Thể Hà nhận thấy dân bản xứ cũng cực lắm, chồng làm, vợ làm, con làm, thời giờ với họ rất thiếu thốn. Trong nhà, họ ăn uống hàng ngày thì chia nhau mà trả, hoặc cha mẹ gánh cho con, cho dù chúng đã đi làm. Thường thì có việc làm, dù chưa lập gia đình trên 18 tuổi chúng cũng ra ở riêng để sống đời tự do, tự lập… Đặc biệt nhứt là dân bản xứ nếu có sống chung trong một nhà, cha, mẹ, con cái luôn riêng biệt về tiền bạc. Tiền mầy, tiền tao… Nghĩa là tiền của ai làm ra người đó giữ, không ai biết của ai, ai hỏi tới là phạm đời tư người khác! Nàng lấy làm lạ, nói với chồng:
– Anh nghĩ xem, vợ chồng có thương yêu mới ăn ở với nhau, sanh con cái lo gầy dựng tương lai cho chúng, cả cuộc đời, hoặc trong khoảng đời dài của vợ chồng. Vậy mà lại còn tiền mầy tiền tao! Em thấy, tiền bạc là thứ ngoài thân, sao họ lại coi trọng như thế? Lạ thật! Vậy chung sống với nhau làm gì? Cái xứ nầy quá khác biệt với xứ ta! Anh thấy, gia đình của ông bà ngoại em đó. Khi cậu Hai cưới vợ, ông bà ngoại cất nhà rộng hơn để cậu mợ ở chung. Câụ mợ làm vườn làm ruộng nhà. Tiền thu hoạch hoa màu, cậu mợ trao hết cho bà ngoại giữ, bà ngoại trang trải mọi thứ chi dùng cho gia đình. Cậu nuôi các em cậu học hành ở tỉnh thành, rồi cưới vợ cho em trai kế của mình. Cậu mợ Ba nuôi cậu Tư, nuôi má em. Cứ đứa lớn nuôi đứa nhỏ để cho cha mẹ rảnh rang hưởng tuổi già. Trong gia đình, anh nói em nghe, đứa trên nhường đứa dưới, đứa nhỏ nghe đứa lớn, “Quyền huynh thế phụ / Em ngã anh nâng”. Các cậu mợ cùng không hề đòi hỏi gì ở các em, sau khi họ ra trường đi làm việc có tiền, có nhà cửa, có địa vị… Rồi mợ Hai sanh con, con lớn thì cậu mợ cưới vợ cho con, cũng ở luôn trong nhà với ông bà ngoại em. Bởi vậy lúc còn nhỏ em thích về ngoại lắm, vì đông người vui vẻ. Các câụ các mợ em luôn thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Họ không bao giờ ganh ghét hay tranh giành mà luôn hãnh diện, sung sướng sự thành công của nhau. Em thấy như vậy mới là gia đinh chớ. Anh nghĩ thế nào, có đúng không ông xã?
Đông Nhựt nhìn vợ, mỉm cười.
– Trong xã hội Việt Nam cận đại, đâu có được nhiều gia đình như cậu mợ em. Phần lớn anh chị em thương yêu đùm bọc lẫn nhau là do sự giáo dục chặt chẽ của gia đình. Người dân nước ta đa số sống theo lễ giáo từ ngàn xưa để lại. Kính trên nhường dưới, nghe lời cha mẹ, tôn kính ông bà, lễ độ với những người chung quanh. Em không nhớ lúc còn nhỏ chúng ta đã được nghe ông bà cha mẹ ru con cháu ngủ: “Ở cho có đức có nhân / Mới mong đời trị mà ăn lộc trời / Thương người tất tả ngược xuôi / Thương người lỡ bước, thương người bơ vơ…” Những câu nói nhân nghĩa đó đã nằm trong đầu óc trẻ thơ manh nha hướng thiện rồi. Khi đi học thì trẻ con được thêm sự giáo dục cẩn trọng của thầy cô giáo “Tiên học lễ, hậu học văn”. Nhiều, rất nhiều về giáo dục của nước ta lúc xưa chỉ dạy “Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín… “ toàn là trong những môi trường đào tạo cho thanh thiếu niên có đạo đức, và trở thành người tốt. Nhưng bao giờ cũng vậy, sự việc gì cũng có bề trái của nó. Em nhớ lại coi chúng ta sanh ra và lớn lên trong đất nước chiến tranh. Cuộc chiến Quốc Cộng đã có từ đời cha ông chúng ta. Nhà trường chỉ đào tạo chúng ta thành người chân thật, hiền lương, cao thượng, vậy mà chương trình giáo dục dành cho chúng ta lơ là không chú tâm cho con em học nhiều, biết nhiều về tại sao đất nước chúng ta luôn có chiến tranh, và ai là kẻ thù? Lũ trẻ chúng ta không hiểu tại sao đất nước mình chiến tranh dai dẳng và cái tàn bạo, độc ác, dã tâm của kẻ thù. Thanh niên đến tuổi thì đi lính. Họ vô tư, nghĩ rằng đi lính là bổn phận và trách nhiệm của kẻ làm trai trong nước chiến tranh…
Đông Nhựt ngừng lại uống hóp nước, chàng nói tiếp:
– Biết rằng cổ nhân đã nói: “Có học mà không có đức thì là người ác. Có đức mà không có học thì là người quê”. Khôn hay dại gì thì hiện tại chúng ta cũng là kẻ lưu vong rồi! Xứ người mình mới đến, họ giàu, họ quá đầy đủ về vật chất, họ sống quá thực tế… nên họ chai cứng thiếu tế nhị về cái uyển chuyển éo le tình cảm. Một sớm một chiều, chúng mình không sao hiểu họ được. Cái quan trọng của chúng ta ngay bây giờ là việc gì tốt thì chúng ta học theo. Việc gì không hợp với gia đình ta thì quên đi. Đừng có bắt chước cái dở của họ để làm gương xấu thì làm sao dạy dỗ cho các con nên người.
Thể Hà rất bằng lòng về câu trả lời của chồng mình. Nàng luôn nể chồng, thương yêu chồng. Họ đã chung sống với nhau hơn hai mươi năm rồi. Hai người chưa bao giờ cãi lộn hay gấu ó với nhau. Nàng không “giận cá chém thớt”, ồn ào, lớn tiếng với chồng con. Mỗi lần thấy chồng bực bội khó chịu, nóng nảy thì nàng làm thinh không nói không rằng, lật đật tìm cách lặn mất. Bởi nhược điểm của nàng là rất sợ, và mắc cỡ cãi cọ, lớn tiếng. Nàng âm thầm lẳng lặng dò xét, theo dõi chồng. Rồi khi cơn phiền muộn của chồng dịu đi thì nàng hỏi han, khuyên lơn, giúp ý kiến…
Khi nàng bực bội thì Đông Nhựt cũng đối với vợ như vợ đã đối với mình. Cho nên hai người họ tránh được những thứ phiền toái thường xảy ra như những cặp vợ chồng ở gia đình khác. Chồng nàng vừa kể câu của cổ nhân “Người có học mà không đạo đức là người ác. Người có đạo đức mà không học là người quê” theo thiển nghĩ của nàng là: thà mình làm người quê còn hơn làm người ác.
Thật sự, đi làm việc nhiều giờ quá, nàng cùng mỏi mệt lắm chớ! Nhưng khi nhớ đến các con ngoan ngoãn, chăm lo học hành, cần sự giúp đỡ của mẹ cha, thì niềm vui tràn ngập tâm hồn lấn áp hết nỗi vất vả nhọc nhằn của nàng.
Đông Nhựt và Thể Hà vào ngày chủ nhật nầy đưa ba đứa nhỏ đến trường, để thứ hai, chúng bắt đầu niên học mới.
Thể Dao và Thể Quỳnh gặp lại bạn bè vui vẻ tay bắt mặt mừng tíu ta tíu tít. Các sinh viên đại học đều lớn cả rồi. Có người ở xa tự lái xe đến trường nhập học, có người cũng được cha mẹ đưa đến như các con nàng.
Rải rác trước sân khu đại học, sinh viên dụm năm, dụm ba rần rần, rộ rộ, kẻ đi qua, người đi lại, réo gọi nhau miệng vui cười tích toác. Trước cảnh nầy làm sao nàng khỏi chạnh lòng nhớ về cảnh cũ, trường xưa hồi còn học ở trung học. Nhớ Hậu Giang, nhớ Sài Gòn, nhớ Vũng Tàu. Nhớ miền quê ngoại. Ôi, nhớ quá đi thôi!
Đông Nhựt khều nhẹ vai làm vợ giật mình:
– Em làm gì mà thừ người ra vậy? Nhớ chuyện xưa à?
Thể Hà mỉm miệng cười với chồng, mà nước mắt vui mừng còn đọng trên mi:
– Thật sự em bùi ngùi và cảm động lắm anh à. Trời Phật, ông bà đã giúp đỡ cho các con, cho gia đình mình, em cảm thấy quá đầy đủ, quá hạnh phúc rồi. Em không đòi hỏi gì thêm nữa cả. Chỉ mong các con cố gắng học hành, ra trường, sớm nên gia thất là chúng ta mãn nguyện lắm rồi. Anh có đồng ý và nghĩ như em không?
Chàng cảm động siết chặt bàn tay vợ, miệng cười, mà mắt đỏ chớp chớp, chàng gật gật đầu:
– Đúng lắm, em nói đúng lắm! Mục đích của chúng ta trốn chạy, rời xa quê hương cùng vì tự do và tương lai của các con thôi. Ba, và cô Hai, trên trời biết được các cháu ngoan ngoãn, học giỏi cũng vui mừng không thua gì chúng ta!
o O o
Mùa đông, rồi những mùa đông buốt giá, lạnh lẽo tiếp nối đi qua!
Với lương của công nhân hạng bét, kiếm tiền chắc mót cho ba đứa con đang học ở đại học cùng một lúc vợ chồng Đông Nhựt vất vả trăm chiều. Cả hai gượng nổi cùng nhờ vào tình yêu thương của kẻ làm cha mẹ, cộng vào sự ngoan ngoãn chăm lo học hành của các con. Vợ chồng nàng quên đi nỗi nhọc nhằn, quên những phiền hà nhỏ nhặt chung quanh, quên thời gian, quên tuổi đời chồng chất, mà họ không hay biết tóc mình đã hoa râm tự bao giờ.
Mỗi ngày như mọi ngày, từ 5 giờ sáng Thể Hà đã thức dậy lục đục nấu nước, ăn uống, tắm rửa trước khi đến sở. Cho dù ngày nghỉ cùng thế, không thay đổi. Nàng nghĩ, có lẽ cái số mình là số con rệp nên nàng quen rồi, không sao ngủ trể, ngủ trưa được trong những ngày lễ ngày cuối tuần như những người khác được.
Chiều hôm qua, các con về chơi vì thứ hai chúng được nghỉ lễ, Thể Hà lại làm việc nhà gấp đôi những việc làm hàng ngày ở sở. Chuẩn bị từ mấy tuần trước, nàng chở bà Châu đi chợ mua nào là thịt bò, thịt heo, tôm, cá, gà… chất đầy trong tủ đông lạnh. Để ngày lễ các con về nghỉ, nàng sẽ phụ mẹ chồng nấu nướng cho chúng ăn, sợ chúng thèm khát tội nghiệp. Vì các con nàng ở nội trú, nên hàng ngày chỉ ăn những thúc ăn bản xứ, chớ đâu được thưởng thức những món đặc vị của quê hương.
Thứ hai là ngày lễ lớn, các trường học và sở làm công tư đều đóng cửa. Chiều hôm qua thứ sáu, vợ chồng Thể Hà trên đường rước các con về, Đông Nhựt hỏi:
– Ngày mai, đứa nào muốn ăn gì? Nói cho mẹ biết, để mẹ các con chuẩn bị làm.
Thể Dao, nói:
– Làm bánh xèo đi mẹ.
Thể Quỳnh cùng nhanh nhẩu:
– Nấu cháo lòng, có dồi heo do bà nội làm.
Thái Dương không lên tiếng, mắt mơ màng nhìn ra cửa xe tư lự. Thể Hà khều chồng làm ám hiệu liếc sang thằng nhỏ. Chàng nhìn thằng con qua kiếng chiếu hậu mỉm cười. Thể Hà là một người mẹ có tánh tình nhạy bén, và đa nghi không thua chi Tào Tháo. Mắt sáng ngời nhìn chồng, hai người không nói ra lời nào, nhưng họ ngấm ngầm biểu đồng tình với nhau rằng “Chắc chắn là thằng nhóc tì nầy bắt đầu chớm yêu rồi”.
Thể Quỳnh đánh vào vai em:
– Thái Dương, ba nói kìa, mi có nghe không? Làm gì mà mặt mày lơ thơ tơ liểu buông mành vậy? Bộ thất tình rồi hả?
Thể Dao nhìn em, cười khúc khích, xía vào:
– Chắc Thể Quỳnh nói đúng đó. Mấy hôm trước con thấy hắn và con nhỏ Lylan Nguyễn ôm cặp đi sóng đôi qua bãi cỏ trước thư viện. Hai đứa nói cười trông tương đắc lắm. Sao, mới nứt mắt mà có bồ rồi hả Vũ đại thiếu gia?
Hai vợ chồng Đông Nhựt bật cười thành tiếng, tán thưởng giọng nói và lời lẽ dí dỏm có vẻ chị cả của Vũ đại cô nương gia đình mình. Thật sự thì cơ thể của Thái Dương đã biến đổi theo tuổi tác của thanh niên rồi. Về thăm nhà lần trước, giọng nói nó ồ ề, rổn rảng như vịt cồ chớ không còn trong ấm như xưa nữa. Nó nhổ giò, cao ngó thấy. Một vài mụt mụn điểm làn da trắng trên khuôn mặt thanh tú mà thằng nhỏ luôn săm soi, cằn nhằn, rồi nheo mắt, nhướng nhướng đôi mày rậm nhìn mẹ, cười nói:
– Mẹ xem, mấy mụt mụn vô duyên, mọc mất trật tự trên mặt khôi ngô, tuấn tú, đẹp trai của con. Làm sao cho hết đây mẹ?
Nói xong, cậu quý tử kia cười ha hả. Giọng cười dòn dã, hào sảng, đầy nam tính. Biết con mình đến tuổi hoa niên, nàng nhìn con, cười tủm tỉm:
– Mấy mụt mụn đó không làm con mất hiên ngang, phong nhã đâu. Đừng lo, không lâu nó tự nhiên biến mất.
Đông Nhựt biết hết, đi lại nhìn mặt thằng con, cười hì hì:
– Con có mấy mụt thì nhằm nhò gì. Ngày xưa vào tuổi con, mụn ở trên mặt ba như giề cơm cháy. Nhờ vậy mà má con “mê” ba như điếu đổ.
Thể Hà trề miệng, nguýt chồng:
– Chỉ xạo không hà! Nói tiếng “mê” thật khó nghe. Phải nói là “Ngày xưa ba yêu má con như điếu đổ, còn bây giờ thì hết rồi…” có đúng không?
Đông Nhựt có vẻ khoái chí, cười lớn với thằng con:
– Con thấy chưa? Má con sắp đổ ghè tương rồi kìa.
Nàng cười theo, và bỏ đi xuống nhà bếp, vừa đi vừa cằn nhằn:
– Thật là khùng, ai thèm ghen với anh chi cho mệt!
Thái Dương bị hai chị đánh vào vai, và bị họ tấn công bất ngờ bằng cách hỏi vặn trặt trẹo, cậu trai nổi cáu, cự nự, phản pháo liền:
– Nói bậy không hà. Ai có bồ hồi nào đâu? Mấy chị cũng biết con nhỏ Lylan học cùng lớp với em, đôi lúc hai đứa hỏi bài với nhau. Vậy là bồ hả? Thiệt tình, tâm tư con gái hẹp hòi, nhỏ mọn, cổ lỗ sỉ quá đi. Tuần rồi, em cũng thấy chị Thể Dao và anh chàng Tân ăn cơm trưa chung đó sao? Hai người còn đá lông nheo nữa. Vậy mà còn chọc quê người ta.
Thể Hà mỉm cười, nhìn thằng con trai ngọt giọng, hỏi:
– Cô Ly Lan người nước nào mà cái tên nghe vừa lạ lại vừa đẹp vậy con?
Thằng nhỏ tươi nét mặt, trả lời mẹ ngay:
– Cô ta tên họ là Lý Thị Hoàng Lan, cha Tàu, mẹ Việt, cổ nói ngày xưa ba má cổ dạy học ở trường Chu Văn An. Khi đến Mỹ để dễ gọi tên, ba má cô ta bỏ hai chữ lót ở giữa, viết dính liền họ và tên lại nên gọi là Lylan đó mẹ. Nhưng tụi Mỹ cứ gọi là Liliane.
Nghe thằng con nói xong, mắt mẹ còn sáng hơn mắt con. Thể Hà vui vẻ trong lòng, khi biết rằng con mình quen với cô gái người Việt.
Thể Hà cũng như bao nhiêu người mẹ bình thường Việt Nam khác, lúc nào nàng cũng muốn con gái, con trai mình sau nầy thành gia thất với người cùng chủng tộc con mình. Cùng một phong tục tập quán, rất dễ dàng hòa hợp, thông cảm và ăn đời ở kiếp với nhau. Giữa hai người nam và nữ muốn trở thành chồng vợ không phải là một chuyện dễ. Khi đã thành hôn, có con, có cái mà gãy đổ nữa chừng thì tội nghiệp cho con cái lắm. Ở với cha hay mẹ, chúng cũng bị mất mát tình thương. Nên vấn đề dựng vợ gả chồng về hôn phối của con, nàng rất khắt khe, luôn nghiêm khắc và khuyên dạy con mình về vấn đề nầy.
Thái Vân biết được, thường chọc quê: “Thể Hà à, qua giọng nói chua lè chua lét như giấm xủ của mầy, tao phát mệt. Cho tao xin đi, thời buổi nầy mà mầy còn cổ lỗ sĩ quá! Vả lại đây là nước Mỹ chớ không phải “xứ An Nam Mít tò” ở cái thuở mầy còn trung học nghen. Đừng có tụng kinh vào lỗ tai mấy đứa nhỏ nữa. Mầy phải cho chúng nó lớn chớ. Con cái ở đây trễ lắm 18 tuổi là nó ra ngoài sống riêng rồi…”
Thể Hà cũng cười, nàng nhăn mặt nã rốc-kếch liền: “Mầy có im cái họng có giọng the thé của mầy lại không? Mỗi người có quan niệm và cách dạy dỗ con cái khác nhau. Tao biết, tao quê mùa đã lâu đời. Quê đến nỗi đã thâm căn cú đế tận xương tủy rồi, chớ đâu phải mới đây. Mầy chê tao như vậy chẳng mới mẻ tí nào cả, chẳng có hề hấn gì tao hết. Tao phải nói cho con tao biết chớ, để sau nầy nếu nó làm sai, rầy nó, nó sẽ không bảo là tại tao không nói cho nó biết để nó tránh. Trừ khi đứa nào không nghe thì tao mới buông xuôi. Chớ còn nước thì tao còn tát. Gia đình con mình gãy đổ bộ nó không đau khổ sao? Làm cha mẹ, mình không đau buồn sao? Mình cũng vì thương con mà buồn khổ cũng không thua gì chứng nó đâu. Vậy, tại sao biết được con đường đi đó không tốt mà tao không nói trước để chúng nó ngừa?”.
Thể Hà giựt mình, khi tiếng cười khoái chí dòn dã của Thể Ọuỳnh vang lên, như vừa khám phá được bí mật của chị mình:
– Biết lắm mà, hai người rất tương đắc. Thôi thì hãy công khai cho cả nhà biết đi. Đừng có bí mật nữa người đẹp Thể Dao ơi!
Thể Dao mắc cỡ, đôi má ửng hồng háy cô em, phang lại ngay:
– Nói tầm bậy, công khai cái đầu của mi! Ta đi ăn trễ, hết chỗ nên ngồi chung bàn với hắn thôi. Còn anh chàng Henry Quang của mi ra sao rồi? Có hò hẹn đi xi-nê ngày mai không? Nhớ nói với hắn mua thêm hai ghế để tao với Thái Dương ngồi hai bên làm người hộ vệ cho bọn bây.
Thế là cả xe cười rộ lên. Thể Quỳnh bẽn lẽn, ngồi bên kia cũng chồm qua lưng Thái Dương vói tay đánh Thể Dao. Thể Hà giảng hòa:
– Thôi được rồi, đừng có moi chuyện của nhau ra nữa. Các con cũng lớn rồi. Gái lớn lấy chồng, trai lớn cưới vợ. Đó là thiên kinh địa nghĩa, theo luật Tạo Hóa, có gì xấu đâu? Nhưng khi các con còn ở trung học, ba mẹ không muốn cho các con có bạn trai, bạn gái là sợ các con còn quá trẻ, bị tình cảm chi phối rồi lỡ dở sự học hành. Nay mấy đứa cùng đã vào đại học, cũng là người lớn hết rồi. Thể Dao, Thể Quỳnh có thể tìm một người bạn trai, để khi ra trường nếu hợp ý thì đi đến hôn nhân. Ba mẹ đâu có cấm cản chuyện đó. Còn Thái Dương thì phải thận trọng, ba mẹ chỉ có mình con là trai, trách nhiệm con nặng nề hơn hai chị. Các con phải cẩn thận trong việc chọn cho mình người bạn đời. Gia đình chúng ta nghèo tiền, nghèo bạc, chớ không nghèo tín, nghèo nghĩa, nghèo tư cách làm người… Khi đã nên chồng vợ rồi thì phải ăn đời ở kiếp với nhau… Gãy gánh giữa đường tội nghiệp cho con cái…
Đông Nhựt cười nửa miệng, bất chợt xen vào chọc quê vợ:
– Các con phải nghe lời mẹ nói nghe không. Nhứt là Thái Dương, con phải cố tìm cho ra một cô vợ, giống như ba tìm được mẹ vậy. Ba thật sự là một người đàn ông có phước nhứt trên cõi đời ô trọc nây. Từ hồi ba cưới mẹ đến giờ, các con có biết không? Ba đi đâu cùng có mẹ theo sát bên mình. Bả kềm kẹp ba đến nỗi ba không dám thở mạnh, không dám ho lớn nữa.
Nói đến đó, chàng cười ha hả. Rồi mấy cha con hùa với nhau mà cười rộ lên, át cả tiếng gầm gừ trời đang thịnh nộ báo hiệu sắp đổ cơn mưa lớn. Thể Hà không nhịn được cùng cười theo, nheo mắt với chồng, và nói với mấy đứa nhỏ:
– Đừng có nghe ba các con nói giỡn để chọc ghẹo mẹ! Mẹ “hiền như Ma-Sơ” chớ bộ!
Bên ngoài bầu trời ảm đạm, mưa ào ạt va vào cửa kính xe rào rào, gió cuối mùa thu hắt hiu lạnh lẽo. Những hàng cây bên đường trơ trụi lá, để chuẩn bị đón nhận những trận bão tuyết của mùa đông lạnh lẽo sắp tới ở vùng băng giá nầy. Trên lộ, thỉnh thoảng có vài khách bộ hành co ro trong chiếc áo chống lạnh dầy cui, băng qua đường. Một vài chiếc xe ngược chiều chạy vụt qua rồi mất hút trong làn khói trắng mỏng. Chiếc xe năm chỗ ngồi cũ kỷ, chở gia đình họ Vũ, chở cả niềm hạnh phúc thắm thiết, đang bon bon thu ngắn dần con đường dài về nhà.
o O o
Ngồi quây quần bên chiếc bàn tròn, gia đình Đông Nhựt ăn món cà-ri gà nồng nàn, được bà nội nấu còn bốc khói do Thái Dương đề nghị. Bà nội, ba mẹ, hai chị đều cưng chiều đứa con trai nầy, nên dành ưu tiên nấu món cháu đề nghị trước.
Mỗi lần nhà ăn cà-ri, phải nấu với ba thứ khoai: khoai tây, khoai môn, khoai lang dương ngọc. Cà-ri sền sệt ăn kèm với cơm, bánh mì. Nếu ăn cà-ri với bún phải nấu lỏng và phải có giá và rau sống. Không ăn cà-ri thì thôi, ăn cà-ri thì nhà nầy bắt buộc phải đầy đủ bộ vận như vậy. Vì đó là những thứ mà Quân vương của Thể Hà, hai công chúa và thái tử ưa thích. Còn mẹ chồng và nàng dâu thì cái gì ăn cũng được, không kén chọn. Các cháu thích món gì thì bà nội và mẹ làm món đó cho chúng ăn.
Sáng sớm hôm nay bà nấu cháo lòng theo đề nghị của Thể Quỳnh. Đông Nhựt thường nói: “Không ăn cháo lòng ở đâu ngon bằng má nấu”. Bà nội thương yêu cháu, và thằng con trai, biết họ ưa thích, nên bà luôn chịu cực làm món cháo lòng.
Nấu cháo lòng có khó gì đâu, nhưng cái khó là ở chỗ nước cháo trong vắt, hột gạo tuy mềm và nhừ mà không bã ra thành hồ. Tim, gan, phèo, ruột luộc chín mà không cứng, không dai, và gan không đắng.
Cực và mất nhiều thời giờ nhứt là làm món dồi. Bà Châu lựa mua thịt 2 phần nạc, 1 phần mỡ về nhà xắt ra và dùng tay bằm lấy. Bà không thích thịt xay sẵn mua ở chợ vì nó quá nhuyễn và đôi lúc hôi mùi heo nữa. Thịt heo bằm xong, bà trộn chung với gia vị như: tiêu cà, sả, ớt tươi, củ hành bầm nhuyễn, tiêu sọ nguyên hột… Ruột con trừu(?) ngoài chợ Mỹ dùng làm xúc xích, bà mua về để dồn thịt làm dồi. Ở tiệm dồn bằng máy, ỏ nhà bà dồn bằng tay nên rất khó và mất nhiều thì giờ. Dồi làm xong, thì đem nướng bằng lửa than, chớ không chiên. Bà bảo chiên thì nhanh và tiện nhứt nhưng dồi sẽ không được thơm ngon.
Bà nội thương yêu cô cháu gái Thể Quỳnh nầy lắm. Làm cho cô cháu lớn Thể Dao thường hay nhõng nhẽo, ganh tị mà nói với bà rằng:
– Cháu biết nội thương công chúa Thể Quỳnh nhứt nhà, bởi mặt mũi dáng dấp nàng giống bà như cắt để qua…
Thể Quỳnh nghe vậy chẩu mỏ với bà chị, và cậu em quý tử của gia đình:
– Quý vị đừng có ganh tị, tội nghiệp kẻ hèn nầy lắm đi. Bởi vì tại hạ đây rất xứng đáng để bà yêu chiều. Hãy nghe đấy nhé! Như tại hạ đây, vừa đẹp vừa đức hạnh giống bà, tánh tình hiền lành như bà, kiến thức rộng rãi như bà, thông minh tinh tế như bà, bao dung như bà thì thử hỏi có đứa cháu như vậy làm sao bà nội không yêu không quý phải không bà? Có đúng không các hạ thần?
Cậu em trai nhao nhao xỉa xói:
– Ồ, nịnh bợ quá đi! Nịnh bợ không chịu nỗi. Chị mà giống nội hả? Còn khuya à.
Bà chị lớn nguýt cô em cặp mắt có đuôi:
– Chời ơi! Nói mà không biết mắc cỡ. Mi mà được giống bà như mi nói thì bọn ta sẽ cùi sứt móng đó. Giỏi có tài lẽo lự, còn kênh xì bo nữa, thấy phát ghét!
Bà nội thì tươi vui cười ngất rồi mắng yêu các cháu:
– Mấy đứa cứ hay phân bì nội hoài, đứa nào bà cũng thương như nhau… Đứa lớn, đứa giữa, đứa nhỏ, đứa nào nội cũng cưng nhứt, thương nhứt.
Nói đến đó ba bà cháu cười xòa. Thể Dao và Thái Dương phân bì với bà cũng có nguyên nhân. Cứ mỗi lần nấu cháo lòng, bà biết Thể Quỳnh thích những món lòng nào thì bà để vào sẵn đầy tô cho cháu. Con bé thích chí chạy đến lãnh phần của mình. Tô cháo khói bốc lên nghi ngút tỏa mùi chanh mới vắt, mùi dồi nướng, mùi ngò, mùi hành xắt nhuyễn… Con nhỏ mê man tàng tịch hương vị món quốc túy quốc hồn của món cháo lòng. Nó lấy muỗng húp cháo rồn rột, miệng nhai chóc chách tim, gan, phèo, phổi, thận, ruột già, ruột non, giá sống, bún, rau thơm… cất kỹ vào chỗ không trời không đất, không mưa, không gió, không mây. Môi, má nó ửng hồng. Vào mùa đông mà rịn mồ hôi trán, con nhỏ vừa nhai, vừa nuốt, vừa hít hà, vì tiêu cay của dồi, vì cay của ớt bằm. Ai không đói, không muốn ăn, khi thấy con nhỏ đang ăn thì không làm sao nhịn được.
Thái Vân và Xuân Hà cũng có vài lần được ăn cháo lòng của bà Châu nấu. Thái Vân bắt chưóc cất giọng Huế lên suy tôn món nầy:
– Ôn cha mệ mẹt ơi! Cháo lòng ni mà ngon chi lạ, ngon tới tàn công gió lộng rứa hè? Hễ mà tui ăn một đọi cháo, tui nghe ruột gan tui sướng khoái, như uống trăm thang thuốc bổ. Tụi Âu Mỹ rứa mà dại dột chê lòng heo.
Xuân Hà thì điềm đạm bảo chồng:
– Bác gái em làm món Nam Kỳ nào cũng đủ bộ vận, không thiếu một thứ nhỏ nhặt nào. Hồi ở Việt Nam, em từng ăn cháo lòng ở chợ Vườn Chuối, chợ Bến Thành, xa cảng Miền Tây. Nhưng chưa ai làm món dồi heo ngon bằng bác gái cùa em.
Nghiêm nhìn Tom ăn món thịt bò vò viên lắc đầu:
– Anh ta ăn món đơn sơ quá. Tiếc rằng anh ta không ăn được món cháo lòng.
Tom đang dùng nĩa ghim bò vò viên ăn, ngẫng đầu lên cười cười, góp chuyện:
– Đây là món ăn Tàu. Ở Sài Gòn có bán món nầy thường là dưới gốc cột đèn hay trong hẻm tối.
Thái Vân đang thổi cháo cho nguội, dùng lại cười hô hố, lại trổi giọng Huế trọ trẹ nữa:
– Ăn cháo lòng của bác gái tui nấu phải húp trùm trụp, phải xuýt xoa rùm beng, để ca tụng món ngon của đất Nam Kỳ quốc. Có rứa mới khỏi phụ công, phụ lòng bác gái tui. Hôm nay tui nhứt định ăn hai đọi. Kỳ sau tui để bụng trống ăn tới ba đọi hay nửa nồi mới đã. Cháo lòng ni ngon dễ sợ chưa tề.
Thể Hà cười quở:
– Con Thái Vân hễ gặp món ngon là vừa ăn vừa rên rỉ. Không biết lúc chuyển bụng sanh mầy có la làng oai oải làm cho thiên hạ tưởng đâu nhà bị cháy không?
Thái Vân cười hí hí:
– Nếu nhà tao bị cháy thì tao chết giấc rồi. Ở đó mà rên la cái mốc xì gì nữa!
Bà Châu xen vào rầy rà:
– Các con đừng nói chơi chuyện cháy nhà xui xẻo lắm, không nên đâu.
Ngày kia, bà nội đổ bánh xèo mà Thể Dao đã ao ước, và luôn tiện cho cả nhà ăn, trước khi đưa các cháu trở về ký túc xá nhà trường.
Bà nội sẽ đổ món bánh xèo đặc biệt. Có tôm lột vỏ đập dập, thịt ba chỉ thái mỏng, đậu xanh cà không vỏ nấu chín, giá sống và củ sắn làm nhưn. Thể Dao giống bà nội ưa chất béo. Ăn thịt thì phải có 70% nạc, 30% mỡ. Và cô gái cũng thích các loại bánh, chè có chan nước cốt dừa như bà… Bởi vậy, bốn người phụ nữ trong nhà, con bé đó tuy ưa ăn chất béo, mà vóc mình vẫn mảnh mai.
Cả hai ngày nay tuyết rơi dai dẳng. Có khi sáng, có khi trưa, có khi lác đác suốt ngày đêm không ngừng nghĩ. Nếu không mở cửa nhà ra ngoài, nếu không thấy tuyết rơi, nếu tiếng lò sưởi không chạy sầm sập cả ngày lẫn đêm, ngồi trong nhà, nhìn qua cửa sổ thấy đọt nắng chói chang, trời trong xanh thì ta sẽ tưởng là trời đang vào hạ. Chớ thật ra thời tiết chánh mùa đông lạnh xé da cắt thịt chớ không lạnh vừa đâu!
Bầu trời xám đục, mây hạ thấp, cây cành bám đầy những mảng tuyết mỏng chồng chất lên nhau thành chùm, như những chùm hoa. Những nhành hoa tuyết thanh khiết, trắng ngần. Tuyết vẫn còn rơi lả tả, lao chao theo từng cơn gió lạnh hắt qua. Tuyết ngập trắng sân nhà. Tuyết trải đầy lối đi. Các xe xúc tuyết rầm rập, ào ạt chạy ủi, đẩy, gom tuyết lại thành từng đống, từng đống hai bên lề đường như những ngọn đồi cao, đồi thấp. Vùng Chicago nầy thì như thế đó, buốt giá, lạnh lùng suốt từ đầu mùa thu đến giữa mùa xuân.
Xuân Hà trong chuyến qua Pháp thuyết trình về xã hội Việt Nam dưới chế độ Cộng sản, khi về mang theo những khăn choàng len do hãng Yves Saint Laurent chế tạo để tặng cho cả nhà. Riêng Đông Nhựt được chiếc áo Con Gà Thể Thao (Coq Sportif) chế tạo, còn Thể Hà được chai nước hoa hiệu Channel số 5. Cô ta bảo:
– Kiều bào ở Pháp có tinh thần chống Cộng cao. Nhưng bên đó báo chí thì ít quá.
o O o
Trên chiếc bàn tròn rộng, ở giữa bàn ăn có đặt cái cù lao. Trong chiếc cù lao có ống thiếc cao, chứa than hồng reo lách tách. Nước lèo trong cù lao, vòng quanh ống than hồng sôi lụp bụp. Và sắp quanh ống than trong lòng cù lao đầy ắp những đồ bổi như là nấm tươi chẻ đôi chẻ ba, cá vò viên, bò vò viên, mực tươi, da heo khô, lòng heo, tôm… Đặt trên bàn, gần cái cù lao, có nước chấm, dĩa bàn lớn sắp bún, dĩa rau tần ô, dĩa rau đắng… Bà Châu, vợ chồng Thể Hà và các con, ngồi vây quanh… Kẻ húp, người chan món cù lao, nói cười rộn rã. Thể Dao lên tiếng:
– Con ưa cá viên. Kỳ nầy bà nội và má mua cá viên hiệu gì mà ngon quá?
Thái Dương, miệng nhồm nhoàm thức ăn, cũng lên tiếng:
– Con thích mực và rau đắng. Rau đắng mùa đông rất hiếm, nhứt là ở vùng giá băng nầy càng khó tìm các loại rau cải, vậy mà nội và má cùng mua được, hay thiệt.
Bà Châu và vợ chồng Thể Hà biết Thể Quỳnh của mình, từ thuở bé là đứa háu ăn nhứt nhà. Cô lấy, nào bún, nào rau, nào tôm thịt để đầy cả tô, chẳng thèm để ý đến ai, chẳng nói, chẳng rằng, miệng nhai rào rạo, húp nước lèo rồn rột ngon lành. Khi Thể Quỳnh ăn, dù cô ăn cơm nguội với muối cục đi nữa, thấy cái miệng cô nhai cũng phát thèm. Phu quân của Thể Hà, vừa hớp ngụm bia còn trắng bọt trên vành ly, vừa gắp tần ô nhúng vào nước lèo đang sôi sùng sục, vừa nói:
– Mùa đông ở vùng lạnh lẽo, mà ăn cù lao nóng, thật là đúng điệu, thật tuyệt cú mèo! Ấm từ trong ruột ấm ra tới ngoài. Các con có thấy vậy không? Em nghĩ sao, Thể Hà?
Vì bận rộn quần quật với công ăn việc làm, vợ chồng nàng ít có thời giờ dành cho nhau như thuở xưa.
Đã lâu lắm rồi! Phải, đã lâu lắm rồi, nàng chưa nghe chồng âu yếm gọi tên tộc của mình như thế, như thuở bắt đầu yêu nhau… Rồi có chuyện hờn, giận… Có lúc tưởng chừng cả hai sắp bỏ nhau rồi. Ôi, cái thuở xa xưa đó, tưởng nó đã tan biến theo thời gian, theo sự vất vả bận rộn hàng ngày của cuộc sống vì bổn phận, và trách nhiệm của kẻ làm cha, làm mẹ… sẽ không còn tồn tại trong lòng vợ chồng nàng nữa. Nhưng không đâu, nó tiềm tàng tận đáy tâm hồn của vợ lẫn chồng để khi có cơ hội thích hợp, gặp một điểm nhỏ nào đó, một khe hở nào đó, một âm thanh nào đó, thì tất cả niềm thân thương, nỗi nhớ rủ rê một thời dĩ vâng thơ mộng, cuồn cuộn trở về mà nàng cứ ngỡ như mới xảy ra vài hôm trước đây thôi.
Lòng Thể Hà chan chứa niềm yêu thương: Thương chồng thức thời, hết lòng hết dạ lo cho gia đình. Chàng không vì cuộc sống sung túc đầy đủ ở quá khứ mà thù ghét đời sống vất vả, nhọc nhằn ở hiện tại, rồi buồn khổ, khó chịu, hận đời, bi quan, chán nản… như một số người quen biết ở vào hoàn cảnh của họ. Vợ chồng nàng sung sướng thầm hãnh diện với chính mình về lũ con: các con biết thương cha mẹ, biết bổn phận, hiểu hoàn cảnh gia đình, không đua đòi, không chơi bời lêu lỏng, chăm chỉ học hành…
Bên ngoài trời sụp tối. Ánh sáng vàng vọt của bóng đèn điện hai bên đường đã thắp sáng. Thành phố đã lên đèn. Tuyết vẫn rơi trắng xóa. Những mảng tuyết mỏng, nhẹ nhàng lao chao, rạt rào, bay bay, xiên xiên theo gió đưa ngoài cửa sổ.
Thể Hà rùng mình vì cái lạnh tái tê, hắt hiu ở vùng Bắc của nước Mỹ. Mặc dù trải qua bao nhiêu năm sống ở đây, đã chịu đựng những mùa đông, nàng gần như đã quen cái lạnh lẽo. Nhưng mỗi năm, đến cuối mùa hạ, chớm thu, là nàng luôn nơm nớp lo và nghĩ ngợi nhiều về mùa đông sắp tới.
Nhìn tuyết rơi ngoài trời, nàng chạnh lòng nhung nhớ rạt rào, nghĩ ngợi mông lung: Chúng ta tốt phước quá! Ơn Trên đã cho chúng ta làm người, cho chúng ta mọi thứ trên thế gian nầy. Tại sao chúng ta không tranh thủ gieo trồng bằng giống, mầm chân thật, bác ái, yêu thương, bằng tha thứ, bằng cảm thông? Tại sao chúng ta không chăm sóc, vun bồi, để được hạnh phúc trong hạnh phúc của những người chung quanh? Có như vậy ta mới thấy tất cả là nguồn thương yêu, và có vậy cuộc sống mới nhiều ý nghĩa chớ. Đang có trong tay cái gia bảo tinh thần thì tại sao chúng ta không giữ gìn? Để ngày nào đó, nó chắp cánh bay xa thì ta trọn đời hối tiếc… Như đã một lần, gia đình nàng ngậm ngùi, bỏ lại sau lưng tất cả, để rời xa nơi chôn nhau cắt rún, cái nơi mà Tổ Tiên nàng đã tranh đấu, bồi đắp không ngừng để lại cho con cháu đời sau…. Ôi, nơi đó mà hơn nửa cuộc đời gia đình nàng sống trong đùm bọc, yêu thương, và hạnh phúc! Đó không phải là một mất mát vĩ đại cho cả kiếp làm người lắm sao?