← Quay lại trang sách

CHƯƠNG MƯỜI CHÍN

Thời gian cứ chậm chạp trôi. Mùa đông qua, mùa xuân đến tiết trời trở nên dễ chịu hơn. Các cây chung quanh nhà đâm chồi nẩy lộc. Từng đàn chim mùa đông đi trốn tuyết nay lần lượt từng bầy bay trở về. Gió xuân mơn man trên chiếc khăn phu-la the màu lá mạ, trên mấy sợi tóc lòa xòa trước trán Thể Hà. Tóc nàng đã có nhiều sợi bạc, người ta thường gọi đó là tóc hoa râm. Nàng chợt thở dài. Con lớn thì mẹ cha già, lẽ Tạo Hóa mà!

Gia đình Thể Hà đã qua cơn sóng gió. Nhưng lòng nàng vẫn thấy ai hoài, không được thoải mái như trước kia. Giữa hai mẹ con như có cái gì đó ngăn cách! Mặc dù trước mặt mọi người, Thể Quỳnh vẫn líu lo và nàng vẫn cười vẫn nói.

Dạo nầy Thể Hà thường bắt gặp Thể Quỳnh như giấu giếm chuyện gì? Tâm hồn cô gái không tập trung, cô hay lặng lẽ thở dài một mình? Thể Hà lờ đi không hỏi han chi cả, vì nàng vẫn còn hờn, còn cảm thấy không được vui bởi con không cần biết cảm nghĩ của mình. Mặc dù bà Châu, Đông Nhựt, Thể Dao, Thái Dương gần như không còn để ý, hay nghĩ ngợi đến việc kết hôn của Thể Quỳnh với tên Chung nầy nữa. Nhưng nàng thì không, nó còn âm ỉ vấn vương và khiến lòng nàng thắt thẻo buồn đến bải hoải tay chân.

Chuông điện thoại reo vang, Thể Hà đến gần điện thoại nhắc ống nghe. Tiếng cười ẻo lả của con Thái Vân bên kia đầu điện thoại:

– Thể Hà hả? Tao báo tin cho mầy biết, Tom và tao hai tuần nữa đi Bắc California, vợ chồng mầy có tháp tùng đi chơi với bọn tao không?

Thể Hà, cười:

– Tao thấy từ Tom chịu thuốc Nam của ông thầy Tám Chấn, đến giờ cũng hơn sáu tháng rồi, có tháng nào tụi bây không đi California? Mầy đi trị bịnh cho chồng chớ phải đi nghỉ hè đâu mà rủ bọn tao? Thiệt nhiều chuyện!

Thái Vân cười vui:

– Nhưng lần nầy bọn tao đi có thêm tin mới mầy à, là tụi tao sẽ trở lại chùa Kim Sơn để đền ơn đáp lễ và Tom sẽ quy y theo đạo Phật. Mầy cũng đã nghe tao nói là Tom từ nhỏ đến lớn chưa vô một tôn giáo nào hết kể cả đạo Tin Lành của ba má Tom. Nay Tom muốn vào đạo Phật. Đó là một việc mừng lớn cho chúng tao. Cảm ơn Bồ Tát linh ứng cho lời cầu nguyện của vợ chồng tao.

Tin Tom quy y theo đạo Phật, đúng là một tin đáng mừng. Thể Hà, nói:

– Thiệt là một tin lành. Tao xin chúc mừng vợ chồng mầy nghen Thái Vân.

Thái Vân bảo:

– Đi chùa Kim Sơn, luôn tiện tao sẽ thỉnh bức tranh A-Di-Đà Tam Tôn về thờ. Tranh nầy khổ 36×48, tô màu sắc lộng lẫy.

Thể Hà khoe:

– Bức A-Di-Đà Tam Tôn của tao đang thờ cũng màu sắc tươi đẹp như mầy nói. Xuân Hà nhân dịp đi Đài Loan về tặng tao đó đa.

Thái Vân cười ha hả, chê Thể Hà rồi lên giọng thầy đời cắt nghĩa:

– Mầy biết cái khỉ khô gì mà cũng chót chét? Bức tranh của mầy là bức tranh Tam Tôn gồm Đức Phật Thích Ca ngồi tòa sen ở chính giữa, Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ngồi trên lưng con sư tử bên phải. Đức Phổ Hiền Bồ Tát ngồi trên lưng con voi bên trái. Riêng bức A-Di-Đà Tam Tôn tao sắp thỉnh gồm có Đức Phật A-Di-Đà đứng chính giữa, Đức Đại Thế Chí Bồ Tát đứng bên mặt, Đức Quan Âm Bồ Tát đứng bên trái. Nghe chưa? Hiểu chưa con dốt, con quê, con đần độn…?

Thể Hà cười, nói lớn:

– A-di-đà Phật! Con nầy tin tưởng có Trời, có Phật. Nó sắp thỉnh kinh, sắp thờ Phật, vậy mà cái miệng còn rải muối độc cho tui đây nè Thượng Đế ơi.

Cả hai cười cúc cúc trong điện thoại. Thể Hà căn dặn:

– À, mầy nhớ thỉnh bức tượng Dược Sư dùm tao nghen Thái Vân.

Thái Vân nói:

– Để tao đi tiệm Hồng Kông mua hai tượng Dược Sư bằng sứ, rồi đem lên chùa nhờ thầy viện chủ làm phép lành cho tượng. Có vậy tượng mới linh. Để tao tặng mầy một tượng.

Bỗng Thái Vân hỏi:

– Thể Hà à, hổm rày lâu quá, sao mầy không gọi cho tao vậy? Mọi người vẫn bình yên khỏe mạnh hết chớ? Bác Châu má chồng mầy, hôm trước than nhức mỏi khớp xương, mầy có dắt bả đi trị bịnh chưa? Vùng chúng mình ở lạnh lẽo quá, không thích hợp cho sức khỏe của tuổi già. Nhưng ai cũng vậy, người bản xứ cũng không ngoại lệ. Vì gia đình của người ta đã ăn sâu gốc rễ ở đây rồi, có muốn cũng không dễ gì một sớm một chiều dời đổi đi chỗ khác được đâu. Tao và Tom đi chuyến nầy có nhiều việc để làm lắm. Ngoài trị bịnh cho Tom, sau đó chúng tao cùng sẽ dọ dẫm xem nhà cửa ở những vùng Bắc California mà chúng tao đã có dịp đi qua chỗ nào còn rẻ, chỗ nào dân tình tốt thì có thể thằng Út tao ra trường, là chúng tao sẽ dời đi. Bây giờ chúng tao coi như hưu trí ở đâu cũng được miễn khí hậu nơi đó ấm áp, tiện lợi cho đời sống của mình thì được rồi. Vả lại trên ấy dù có xa ông thầy thuốc Nam Tám Chấn đã cứu Tom, thì vẫn gần hơn mãi ở chốn xa lắc tí tè nầy. Ở gần ổng, đi lại cũng dễ dàng tiện lợi cho việc chữa bịnh chồng tao hơn…

Thể Hà trả lời:

– Mầy nghĩ như thế rất đúng, tao tán thành ý kiến sáng suốt của mầy. Trong tương lai bọn tao cũng sẽ đi khỏi cái vùng lạnh tê tái tâm hồn nầy. Nhưng phải đợi cho Thái Dương ra trường đã. Và chúng tao cũng sẽ đi theo ở gần con thôi, nên chưa biết trước là sẽ đi đâu?

Thái Vân nghe giọng nói của Thể Hà xụi lơ, không phấn khởi như thường lệ, nàng hỏi:

– Mầy đang bị chuyện gì rối rắm trong lòng phải không Thể Hà? Tao đi guốc trong bụng mầy cho nên mới hỏi. Đừng có giấu và nói xạo với tao đó nghen mậy.

Thể Hà buồn thật, nhưng nghe điệu nói của Thái Vân cũng bật cười thành tiếng, hỏi mắc:

– Phải rồi, tao có cái gì giấu mầy được? Ê, mà mầy ở trong bụng tao ra hồi nào vậy?

Cái miệng hỏa lò của con Thái Vân cười hô hố bên kia đầu dây điện thoại. Bên nầy Thể Hà cùng không nhịn được, cười theo. Nàng bèn kể lể hết mọi chi tiết chuyện của Thể Quỳnh cho Thái Vân nghe. Nàng còn nói có lẽ mình quá nuông chiều con, nên bây giờ con không nghe lời mình nữa, và nàng còn bị chồng mắng cho một trận tả tơi.

Nói xong, Thể Hà không nghe Thái Vân hò hét chanh chua, cay cú như mọi lần, nàng nghĩ chắc là con dịch tể nầy làm rớt điện thoại. Nhưng cả phút cũng không nghe trả lời, Thể Hà hỏi lớn:

– Thái Vân, mầy còn đó không? Mầy có bị gì không? Sao câm họng không nói gì hết vậy? Thái Vân! Thái Vân…

Thể Hà vẫn còn lẩm bẩm trong miệng, định gác máy thì bên kia đâu dây ả Thái Vân phổi bò kia đang cười sặc sụa, cười té ho lòi suyễn, cười đến thở hào hễn như nó vừa chạy bộ hàng trăm cây số. Nổi nóng, Thể Hà nạt tưới hột sen:

– Đồ điên! Lãng nhách, bộ chuyện đó vui lắm sao mà mầy cười? “Vừa nói vừa cười là người vô duyên”, “Người Việt Nam cái gì cùng cười, phải cũng cười, không phải cũng cười…”.

Thái Vân vừa la lại Thể Hà, vừa hụt hơi trong tiếng cười:

– Thôi đủ rồi nghen mậy! Bộ giận chạy nọc hay sao mà mầy mắng tao xối xả vậy? Mầy nghe đây, mầy là con lựu đạn sét! Mầy là con thoái hóa, mầy là con té giếng, mầy là con xà bát, mầy là con hết thuốc chữa… Tao không thể nào ngờ được, ở Mỹ bao nhiêu năm rồi sao mầy không tiến bộ chút nào hết? Bộ óc thông minh, hoạt bát, biết người biết ta, phóng khoáng… của mầy bị chó tha ăn mất rồi hả? Thầy chạy, nhà thờ chê thiệt mà! Thể Hà ơi, mầy hãy tỉnh lại đi! Thời buổi nầy là thời buổi nào rồi? Mầy tưởng bây giờ giống như thời cha mẹ chúng ta sao? Như là việc hôn nhân, cha mẹ đặt đâu con phải ngồi đó à? Mầy nhớ lại đi, ở cái lớp chúng mình thanh niên nam nữ nhiều đứa đã không cần có mai mối rồi. Nam nữ quen nhau thì về thưa lại với cha mẹ hai bên thôi. Tao thấy tội nghiệp cho mấy đứa con mầy quá đi!

Thái Vân vẫn còn cười ngất ngất như con mẹ điên:

– Vợ chồng mầy kềm kẹp bọn con đến nỗi chúng muốn nghẹt thở. Làm việc gì cũng phải lấm la, lấm lét chờ xem sắc mặt của bọn mầy… Mầy đừng tưởng bở nghen mậy! Chúng nó thương tụi bây nên mọi chuyện đều răng rắc nghe theo như tín đồ nghe giáo điều vậy… Mầy nên nhớ, con cái ở xứ nầy, mười tám tuổi là có quyền ra khỏi nhà mà cha mẹ không làm gì được hết, vì chúng đã ngoài tuổi vị thành niên rồi mầy à. Thanh niên ở đây khi thương nhau thì chúng mướn nhà sống chung với nhau như chồng vợ. Có đứa còn bỏ học hành đi theo luôn, hoặc tự đưa nhau ra chánh quyền làm hôn thú, cha mẹ không hay biết gì ráo nữa kìa… Thiệt tình, tụi bây nhứt là mầy đó Thể Hà, có phước mà không biết hưởng, con cái ngoan ngoãn như vậy là bọn bây nên vui mừng và cảm ơn Trời Phật mới đúng. Ai lại khùng điên như mầy, biến vui thành buồn để tự làm khổ sở, khóc hu hu một mình. Người bản xứ mà hay biết chuyện nầy, họ sẽ cười bể bụng và nghĩ mầy vừa ở hành tinh nào mới xuống. Đông Nhựt mắng mầy đáng lắm, hắn phải mắng mầy thêm là cổ lỗ sỉ, không thức thời… thì đúng hơn.

Nghe Thái Vân mắng có chỗ cũng đúng chớ không ngoa. Tháng trước nhận được thiệp mời đám cưới, bà Châu và vợ chồng Thể Hà thắc mắc không biết của ai? Vì trên thiệp không có ghi tên cha mẹ hai bên, chỉ có tên cặp vợ chồng sắp cưới thôi. Xem đi xem lại mới thấy cô dâu họ Trần. Hỏi thăm ra, sau đó mới biết của vợ chồng người quen mời đám cưới con gái. Bởi cặp tân hôn nầy muốn tự lập, tự lo nên chỉ để tên hai người thôi.

Bà Châu bảo hai con: “Tụi bây đừng đi, vì mình quen với ba má nó. Ba má nó không có đứng tên trong thiệp mời, thì ai biết mấy đứa đó đâu mà đi”.

Thể Hà bứt rứt trong lòng, tự hỏi: “Bộ mình cổ lỗ sỉ như Thái Vân nói lắm sao? Bộ mình khó khăn lắm sao? Bộ mình kềm kẹp con cái lắm sao? Và người ngoài cuộc nhìn mình dễ sợ như vậy sao? Chắc không chớ?”.

“Đèn nhà ai nấy sáng”. Vợ chồng Thể Hà nghiêm khắc với con đó là một sự việc hết sức bình thường từ lòng thương yêu của kẻ làm cha làm mẹ mà ra. Vợ chồng nàng chân ướt chân ráo đến xứ nầy. Cái xứ tự do, văn minh, dân trí cao, giàu sang tột đỉnh, cái xứ mà giỏi về mọi mặt từ khoa học, kỷ thuật, kinh tế, thương mại, chánh trị, y học… Nhưng trong cái hay cái giỏi bao giờ cũng có len lỏi cái không tốt của nó.

Con cái nàng ngày mới đến đây, chúng còn quá nhỏ, tâm trí còn ngây thơ, dễ hay bắt chước… Việc tốt khó mà bắt chước, khó mà học hỏi. Còn cái xấu thì đầy đường, không cần học nó cũng ùa đến. Vợ chồng Thể Hà không thể nào để con cái thả trôi thả nổi, cho chúng tự do làm gì thì làm theo ý muốn được… Vợ chồng nàng phải dòm ngó, phải theo dõi, phải dùng đủ chua cay, mặn ngọt để chỉ dạy kỹ lưỡng các con điều hay lẽ phải trong đạo làm người… Vợ chồng nàng tự bắt buộc mình phải khó khăn, ân cần như thế! Nếu không, hoặc nếu lơ là, rủi mai sau các con lầm đường lạc lối, thì chẳng những cả đời chúng khổ sở mà vợ chồng nàng sẽ bị dày vò hối hận cho đến chết cũng chưa phai!

Trong kiến thức và sự hiểu biết bé nhỏ của mình, Thể Hà luôn tâm niệm rằng: Trẻ thơ như dòng nước, để cho nó chảy trong dòng có bờ hai bên. Cho dù dòng nước chảy đó có khúc khuỷu, có quanh co, hay gồ ghề… thì nước vẫn ở trong hai bờ, chớ không chảy tràn lan ra ngoài… Trong việc dạy dỗ con cái, theo nề nếp của gia đình và những gì vợ chồng nàng có thể làm được cho con thì họ phải làm ngay, làm không nãn chí cho dù gặp khó khắn, làm hết sức mình trừ trường hợp bất khả kháng không làm được mới buông tay. Đó là cái bờ hai bên cho nước chảy xuôi dòng.

Thể Hà mỉm cười một mình: “Cái con Thái Vân nầy lòng dạ nó trống trơn như cái ống bọng, như cái lu không đáy. Nếu có đứng trước cái hố sâu hay vực thẳm sắp té xuống, nó cũng cười ha hả hoặc khóc hu hu, kêu gào, than trời trách đất chớ không bao giờ nó tìm cách là làm thế nào để qua cái hố, hoặc trở ngược lại, hoặc đừng để mình rơi xuống…”.

Muôn sự tại nhân, thành sự do Thiên. Cuối năm đó vợ chồng Thái Vân dọn về ngoại ô thành phố Sacramento, thủ phủ của tiểu bang California. Dù là ở miền Bắc của California nhưng thời tiết ở đấy vẫn ấm áp, dễ chịu. Bên ngoài có hoa, có lá, có cỏ cây xanh biếc, có tiếng chim hót líu lo quanh năm.

Hôm vợ chồng Thái Vân di chuyển từ tiểu bang Michigan về nhà mới mua ở tiểu bang California, Thể Hà và Đông Nhựt lấy hai tuần nghỉ hè cùng đi theo họ để phụ dọn, và thăm cho biết ngôi nhà mới của Thái Vân luôn.

Đường từ phi trường Sacramento đến nhà Thái Vân lái xe khoảng bốn mươi lăm phút. Hai bên đường người dân bản xứ trồng lúa, bắp trái, loại nho làm rượu, trái plum (người Việt Nam sống ở đây thường gọi là trái mận Mỹ). Trái plum hơi tròn, to bằng trái chanh, hoặc lớn hơn một chút. Loại mận nầy có nhiều màu: màu tím đen, màu xanh, màu vàng. Có loại ngoài vỏ có bông như trứng chim cúc. Họ trồng nhiều loại trái prune (cũng được gọi là trái mận). Trái prune nhỏ bằng ngón chân cái có hình dài và hai đầu nhọn như trái cà na. Vùng nầy trồng prune phơi khô, nổi tiếng ngon bán ra nước ngoài và trên khắp nước Mỹ.

Trên đường đi, Thể Hà thấy xa xa có những ngọn núi cao màu xám đen nối tiếp chập chùng. Thái Vân nói: “Những núi đó thấy vậy mà lái xe đi đến xế chiều cũng chưa tới chân núi…”. Nhìn đồng ruộng mênh mông lúa chín vàng, cây trái sum sê tươi tốt, Thể Hà cảm thấy tâm hồn thoải mái nhẹ hít làn gió trong lành, nhưng nàng cố kiếm tìm đó đây vẫn không thấy một bóng người. Thái Vân biết ý nói:

– Ở xứ nầy họ gieo mạ, trồng lúa, cắt lúa, đập lúa, xay lúa thành gạo, cho lúa vô bao… đều bằng máy cả. Đến rải thuốc diệt rầy, diệt sâu bọ thì bằng máy bay. Hái trái cây cũng bằng máy. Chỉ cần một vài người điều khiển máy móc thôi. Nên khó thấy được bóng người lác đác dưới ruộng hay trên bờ mẫu, không có hình ảnh mục tử ngồi lưng trâu, không có gàu quạt nước lên ruộng… như ở quê hương mình.

Thể Hà, gật đầu chép miệng:

– Tao nghĩ tội nghiệp cho nông phu nước mình, từ gieo cấy mạ cho đến ngày có hột lúa để xay thành gạo thật vất vả vô cùng. Nước ta nghèo bởi chiến tranh không ngừng, nên dân mình cực khổ quá! Trong một nước chiến tranh, chỉ có người dân luôn chịu thiệt thòi và khốn khổ. Mầy đi trước nên không biết, khi Việt cộng tràn vào cưỡng chiếm miền Nam thì tất cả những người không theo bọn chúng bị đày đọa đoạn trường, nhà tan cửa nát. Nhứt là quân nhân, công chức… Nói tóm lại là những ai có liên hệ đến chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.

Thái Vân chép miệng, thở dài:

– Tao cũng đoán biết như vậy. Nếu không thì làm sao dân ùn ùn bỏ nước ra đi? Nhứt là dân miền Nam, yên phận, tồn cổ, trọng tình, trọng nghĩa.

Bỗng Thái Vân trở giọng:

– Thôi đừng nhắc chuyện Việt cộng nữa. Thế giới ai mà không biết chúng tàn độc? Nhưng nghe riết chán ngấy đi mầy ơi! Ghét ai thì đừng nhắc đến người đó. Coi như chuyện đó, người đó, món đồ đó đã quăng vào thùng rác rồi. Mầy làm ơn thực tế một chút đi! Tao thì khác hơn mầy, bởi lúc tao khổ có ai đoái hoài đến đâu? Nên tao thương tao vô cùng! Tao không nghĩ đến kẻ đối nghịch cho thêm mệt cái lưng, đau cái chân, nhức cái bụng, mỏi cái xương sườn… Thôi bỏ đi Tám! Mầy hãy thả tâm hồn chan hòa vào cảnh vật chung quanh, rồi nghĩ xem năm nào đó, ngày nào đó, vợ chồng mầy sẽ đưa gia đình về đây sống mới thực tiễn nhứt.

Thể Hà gật gù mỉm cười. Trong khi Tom lái xe chạy bon bon trên xa lộ, qua những con đường chằng chịt với nhau như màng nhện. Đường trên đầu, đường dưới hầm, đường ngang, đường chéo, đường dọc, đường song song… Đủ các loại xe chạy nườm nượp, ào ạt, ngược xuôi, hối hả. Thể Hà nghĩ, đường sá chằng chịt, xe cộ đông đảo thế nầy nếu có ở đây cả năm, chưa chắc nàng chạy không bị lạc? Tom lái xe rẽ vào lộ tẽ, thẳng đường theo bảng chỉ dẫn hai bên đường để về nhà.

Xe qua cây cầu đá dài bắc ngang sông. Cứ mỗi lần có dịp nhìn thấy sông, thấy biển nước trong xanh trải xa ngút ngàn, sóng nhấp nhô, Thể Hà nao nao, bồi hồi, xúc động nhớ về quê hương. Nhưng trên con sông ở đây nàng thấy thiếu bóng dáng người chèo ghe tam bản, người bơi xuồng ba lá hay người chài cá, kẻ giăng câu… Thiếu những giề lục bình, rau mác xuôi dòng theo nước chảy! Thiếu những cây bần mọc dưới nước ở mé sông. Thiếu những cây dừa ven bờ nghiêng nghiêng lồng bóng nước. Thiếu hình ảnh những con chim bói cá, con quạ, con diều với đôi cánh chớp chớp trên không gian đang rình mò chờ săn mồi, xớt cá. Thiếu tiếng chim trả trẹt, thiếu tiếng chim bìm bịp báo hiệu nước sắp lớn… Thiếu những chiếc cầu nhủi, thiếu âm thanh của tiếng gàu tát nước đổ vào ruộng cạn. Thiếu tiếng gà gáy. Thiếu tiếng võng đưa kẽo kẹt. Thiếu không gian ấm cúng, êm đềm, quen thuộc. Xứ nầy không phải là xứ của mình nên với nàng, ở đây thiếu, thiếu rất nhiều, thiếu nhiều lắm.

Nhưng Thể Hà bỗng dưng ngồi xổm lưng dậy, cặp chân mày châu lại, lòng chao động. Con đường mình đang đi sao mà giống ơi là giống đoạn đường xa cảng miền Tây về bắc Mỹ Thuận quá chừng chừng vậy cà?

Rồi nàng khép mắt thầm ước mơ ngày sau, các con mình ra trường làm quanh vùng nầy. Vợ chồng nàng sẽ về đây để được gần con, cũng gần Thái Vân. Bởi thời tiết ở đây mát mẻ quá! Mùa hè không nắng cháy, mùa đông không lạnh buốt như cắt da, cắt thịt, không có tuyết rơi. Thời tiết ở California rất thích hợp với người Á Đông, nhứt là với kẻ có tuổi tác cao như má chồng nàng.

Thể Hà sống ở Mỹ có hai gia đình như ruột thịt là Thái Vân và Xuân Hà. Nhưng hai năm trước gia đình cô dượng Xuân Hà dọn về Houston, thuộc tiểu bang Texas. Bởi cô dượng tìm được việc làm tốt. Vả lại nhà cửa nơi đó tương đối còn rẻ hơn ở các tiểu bang khác. Mặc dù hè nóng lắm, nhưng mùa thu, mùa đông, mùa xuân thì tuyệt. Mấy tháng trước Xuân Hà mua giấy máy bay cho bà Châu xuống đó chơi hai tuần. Lúc về bà khen khí hậu ở Texas ấm áp giống như ở Việt Nam. Nhưng nghe những người ở đó lâu năm nói mùa hè ở Texas thì nóng cháy da, cỏ cây gì cũng rụi hết. Không bao giờ thấy bóng người thấp thoáng đi bộ ngoài đường, hoặc ở các công viên. Cho nên Thể Hà không ham về tiểu bang đó định cư.

Gia đình Xuân Hà đã dọn đi, gần nàng chỉ còn lại gia đình của Thái Vân, mặc dù Thái Vân ở xa mấy giờ lái xe. Một hoặc hai tháng vợ chồng cô ta qua Chicago đi chợ Việt Nam đều ghé thăm, có khi còn ở lại ngủ đêm. Bây giờ bọn họ dời về California. Nếu đi đường xe hơi thì phải hăm mươi mấy giờ lái, hai ba ngày đường mới gặp được nhau. Chỉ có nước là đi máy bay mới nhanh, nhưng cũng phải mất hơn bốn giờ, chưa kể thời gian phải chờ đợi tại phi trường, hoặc chuyến bay bị dời có khi hai ba giờ là thường.

Nhà của Tom ba phòng ngủ, gọn ghẽ, ngăn nắp, có sân trước, vườn sau. Thái Vân cho biết:

– Thể Hà à, chủ trước của nhà tao là người Phi Luật Tân. Họ ăn trái cây và rau cải cũng giống như người Việt mình vậy. Cho nên sau vườn có trồng nhiều cây ăn trái. Có hai cây hồng dòn, cây táo tàu, cây ổi, chanh, cam, quít, trái xá lị… Nhà nầy xây hơn tám năm rồi, nên tao khỏi phải trồng mà đến mùa có trái cây vườn nhà để ăn.

Thái Vân thuận tay chỉ:

– Mầy coi mấy cây hoa hồng đằng kia đang đơm nụ, hoa của nó hương thơm ngọt ngào quá mầy ơi. Sau mấy cây hồng là liếp rau thơm non nhẫn nữa. Nhà có bột, để mai tỉnh mỉnh, tao sẽ đổ bánh xèo đãi tụi bây.

Thể Hà trầm trồ:

– Thái Vân à, mầy thiệt là tinh mắt, chọn ngôi nhà lý tưởng cho vợ chồng mầy ở dưỡng già. Người ta thường nói là “Hai quả tim vàng trong túp lều tranh”. Còn tụi bây đây thì “hai quả tim già trong ngôi nhà ngói” Vậy càng ấm cúng và tình điệu quá, phải không mậy?

Thái Vân háy:

– Mầy lúc nào cũng móc xỏ tao. Nhưng mầy nói cũng không ngoa đâu. Tụi tao tuy ở tuổi trung niên, và là vợ chồng bao nhiêu năm rồi, nhưng tụi tao vẫn còn là tim vàng hoài hoài. Ê! Xin mầy đừng thấy tụi tao hạnh phúc lai láng tràn trề, rồi sanh ganh ghét nghe chưa?

Thể Hà trề môi, liếc xéo bạn:

– Mầy thật điên quá đi!

Nàng nghĩ ràng: “Người bản xứ, thương vợ, bạ chỗ nào cũng hun hít, gặp việc chi đắc ý là đặt môi hắn lên môi vợ, coi thiên hạ như pha. Tom và Thái Vân cũng không ngoại lệ. Vợ chồng của Thể Hà là người Việt đâu thể biểu lộ tình cảm nồng nàn của mình một cách lộ liễu, bừa bãi như vậy. Nhưng tình yêu của chàng đối với vợ chưa chắc thua kém tình yêu của Tom đối với Thái Vân? Chưa chắc Thái Vân trong hạnh phúc lứa đôi hơn Thể Hà. Đã vậy, con cái nàng luôn sống quấn quít với gia đình. Còn mấy đứa con của Thái Vân gặp cha mẹ thì ôm hôn tới tấp, nhưng ở với cha mẹ chừng tuần lễ là cắp đít ra đi biền biệt, năm khi mười họa mới gởi bưu ảnh, hoặc gọi điện thoại về thăm hỏi qua loa”.

Đông Nhựt bắt qua chuyện khác:

– Dân ở đây hiền và lịch sự. Lúc nãy thấy tôi cùng Tom dọn đồ ngoài nhà xe, ông hàng xóm chạy qua chào và hỏi nếu cần cưa, búa, kềm, thang… ổng cho mượn, vì ổng biết Tom mới dọn về chưa có sẵn dụng cụ…

Chàng quay sang vợ:

– Trên đường từ phi trường về đây, em có thấy cảnh vật giống ở đâu không?

Thể Hà không suy nghĩ:

– Từ ngoại ô Sài Gòn về bắc Mỹ Thuận có đúng không?

Đông Nhựt cười:

– Hay thật, đúng lắm. Mà nầy, em có thích sau khi hưu trí về ở đây không?

Thể Hà chưa kịp trả lời chồng thì Thái Vân mắt sáng ngời, xen vào:

– Thiệt là hai người tâm đầu ý hợp. Anh Đông Nhựt vẫn hiểu được vợ rành rọt như vậy. Thể Hà à, mầy nên đốc xúi ông xã mầy dọn về đây đi. Vùng nầy đâu có tệ. Khí hậu ấm áp, mưa thuận gió hòa. Về đây ở cho chúng mình hôm sớm có nhau. Mầy biết không, lúc mầy chưa qua Mỹ, tháng nào tao cũng khóc, khi tao gặp cảnh vật hay trường hợp nào đó giống bên quê nhà. Rồi tao quay quắt nhớ mầy, nhớ ba… Mặc dù tao hạnh phúc bên chồng con, vật chất thừa thãi nhưng không biết sao lúc nào tao cùng thấy cô đơn, trống trải. Đến khi mầy qua, tao không còn cảm thấy như thế nữa. Bây giờ cũng vì sức khỏe của chồng tao mới xúi ổng dời đi, chớ thật sự tao không đành lòng xa gia đình mầy.

Thể Hà gợn buồn thương Thái Vân. Nàng trả lời chồng mình và Thái Vân:

– Về đây ở là lý tưởng quá rồi, tao còn đòi hỏi gì nữa? Người ta nói California là vùng Đất Hứa, là niềm mơ ước hầu hết của người Á Đông. Khí hậu nơi đây quá tốt, giống như ở vùng Đông Nam Á. Nhưng tao không biết trước được, vì còn phải tùy thuộc vào mấy đứa con tao nữa. Chúng ở đâu thì bọn tao sẽ ở gần đó. Tao rời quê hương cũng chỉ vì mấy đứa nhỏ thôi, người tính không bằng trời tính mầy à. Thôi thì để Ơn Trên định đoạt đi! Tao tin tưởng như vậy.

Đông Nhựt nhìn vợ, cười cười:

– Chị Thái Vân ơi, vậy là từ nay trở đi, đêm nào Thể Hà cũng cầu nguyện xin cho mấy đứa nhỏ được về lập nghiệp ở vùng nầy. Bà xã tôi có chân mạng ở nơi bụng của ông Huỳnh Đế, nên xin gì được nấy.

Thái Vân tươi cười:

-Vậy sao? Được lắm, mầy thành tâm cầu nguyện đi Thể Hà, ông Trời sẽ không bao giờ phụ kẻ có lòng đâu. Tao cũng như mầy, tin tưởng tuyệt đối và chắc chắn ước mong của mầy sẽ được như ý! Vả lại việc cầu xin của mầy không có gì quá đáng cả.

Thể Hà liếc xéo chồng, trề môi Thái Vân, cười nói:

– Xì, mầy đừng nghe ông xã tao ghẹo tao. Còn mầy nữa, làm như là thần thông quảng đại lắm vậy! Bộ mầy ở trên Thiên Đình mới xuống hả?

Thái Vân cười ngất. Tom ở nhà trên đi xuống, hỏi:

– Mấy người nói gì mà vui vẻ quá vậy?

Thái Vân nheo mắt với chồng cười lớn:

– Họ khen nhà mình đẹp, họ vui vẻ chúc mừng anh khỏi bịnh. Và trong tương lai, có thể họ sẽ về đây ở gần mình.

Tom ánh mắt chan chứa cảm tình nhìn vợ chồng Đông Nhựt, hai bàn tay anh ta gọn gàng chắp lại trước ngực thành khẩn như người sắp lạy. Giọng nói tiếng Việt của anh rất khó nghe, và với anh rất khó khăn phát âm, nhưng anh cũng cố gắng:

– Xin cảm ơn, xin cảm ơn anh chị rất nhiều, rất nhiều… Gia đình anh chị về đây Thái Vân sẽ mừng vui lắm…