CHƯƠNG HAI MƯƠI
Lần nầy đi California có Đông Nhựt, nên khi trở về Thể Hà mua lủ khủ nhiều thứ mà vùng gia đình nàng ở rất hiếm. Cuối tuần đó ba đứa nhỏ về đủ mặt. Thể Hà và bà Châu nấu những món ngon, có những món qua Mỹ đến giờ chưa được ăn, hoặc mấy đứa nhỏ lúc từ nhỏ đến giờ cũng chưa ăn tới.
Lúc còn đi học, Thể Hà thường gặp trong văn chương người ta hay nhắc đến cây sầu đâu, lá sầu đâu… để diễn tả, để lồng câu nói, buổi chia ly, buổi đưa tiễn, một tâm sự buồn, một hoàn cảnh buồn nào đó… Và khi lớn lên, trong dịp về miền Châu Đốc năm nào, tình cờ có lần nàng được ăn lá sầu đâu.
Thật sự, nàng không biết còn loại lá sầu đâu hay cây sầu đâu nào khác nữa không? Thể Hà tự hỏi như vậy không phải không có nguyên do. Số là chuyện xảy ra như thế nầy: Bà hàng xóm của Thể Hà tổ chức một buổi văn nghệ họp bạn tại nhà. Vợ chồng Thể Hà cũng được mời. Từ khi rời xa quê hương đến định cư ở vùng lạnh lẽo nầy, Đông Nhựt và Thể Hà ít hay đi tiệc tùng. Vì phải làm quần quật để nuôi con học hành. Riết rồi gần như họ không biết gì về những sinh hoạt hàng ngày, của cộng đồng người Việt ở địa phương mình đang sống.
Nhà ông bà hàng xóm rộng, bạn bè được mời đến tham dự đông đảo. Những người đã quen biết nhau thì tay bắt mặt mừng. Những người chưa quen cũng chào hỏi xã giao, nói cười lịch sự, vui vẻ.
Đông Nhựt uống bia, nói chuyện với mấy khách đàn ông. Vợ chàng thì ngồi gần những khách phụ nữ. Buổi tiệc hôm nay đa số là vợ chồng đi có cặp có đôi, cho nên các bà nhiều, còn các cô thì rất hiếm. Vì ở tuổi vợ chồng nàng ít ai còn độc thân. Chỉ trừ những ông bà ly dị, hay gãy gánh giữa đường vì chồng hoặc vợ qua đời.
Trong buổi tiệc mặc dù tổ chức ở nhà, nhưng là nhà của ông bà làm dược sĩ từ còn ở quê hương và qua đến xứ người vẫn tiếp tục nghề cũ nên khách của họ là những khách lựa chọn. Toàn là những người có tai mắt trong vùng, như là tiến sĩ, kỹ sư, bác sĩ, dược sĩ, những thương gia khá giả, những người có địa vị, có tiếng tăm một thuở ngày xưa khi còn ở quê nhà. Có lẽ trong buổi dạ tiệc nay chỉ có vợ chồng Đông Nhựt là thợ thôi. Đó, cũng có lẽ vì nễ tình là người láng giềng nên gia chủ mới mời. Họ đã mời vợ chồng nàng mấy lần rồi, nhưng Đông Nhựt luôn từ chối, bận việc nầy, việc kia. Ở cùng xóm, đi lanh quanh cũng gặp mặt nhau hoài, từ chối mãi cũng kỳ, nên lần nầy vợ chồng nàng phải đi.
Quan khách đến dự ăn mặc đẹp, lịch sự. Quý ông thì mặc đồ lớn, còn các bà thì mặc sang, mặc theo thời trang trông rất đẹp mắt. Họ nói năng lựa lời, vui vẻ, lịch sự. Có người thì ăn nói điệu đà, hoa mỹ… Nhưng tất cả đều tạo cho chính mình có phong thái cao sang, thanh lịch, trang nhã…
Sau khi chủ nhà nói về ý nghĩa buổi họp mặt thì đến tiết mục ăn uống, rồi kế tiếp là tiết mục văn nghệ bỏ túi, sau cùng sẽ là tiết mục khiêu vũ. Mọi người ăn uống nói cười vui vẻ. Họ kể cho nhau nghe những gì nghe được hoặc về thăm tận mắt thấy ở quê nhà mà toàn là những chuyện đau buồn nhiều hơn vui. Những chuyện học hành và thành tựu của gia đình, của con cái ở đây… Rồi không biết bắt nguồn từ đâu, bỗng dưng trong bàn ai nấy khựng lại khi nghe hai bà ngồi ngang đang sừng mặt, cãi nhau. Bà ngồi cạnh Thể Hà nói:
– Đọt bằng lăng dùng gói bánh xèo ăn ngon như đọt điều, đọt xoài, lá cách, lá lụa…
Bà ngồi đối diện, trợn to mắt, trề môi cãi lại:
– Cây bằng lăng cao nghều nghệu, lớn cả vòng tay ôm. Ở trong rừng già mới có. Cây bằng lăng chỉ dùng làm gỗ chớ ai mà vào rừng hái đọt bằng lăng để về cuốn bánh xèo, bánh khọt ăn bao giờ?
Bà nói đọt bàng lăng gói bánh xèo ăn, giận dữ! Ngòi khai chiến bắt đầu ngún! Lúc bấy giờ, cả hai bà như quên đi hết cái vẻ thanh lịch của mình lúc mới vào tiệc. Bỗng một bà hơi trọng tuổi hơn, ngồi đối diện với Thể Hà nãy giờ đã nghe rõ tự sự. Bà ta cười thành tiếng, nhũn nhặn:
– Cả hai chị đều nói đúng. Có lẽ tên lại trùng tên giữa hai cây bằng lăng của hai miền? Cây bằng lăng ở miền Trung thì lớn và to đến mấy vòng tay ôm. Thường thấy ở các rừng già, chỉ để làm gỗ, đúng như chị vừa nói đây. Còn cây bằng lăng ở vùng đồng bằng miền Nam thì lại khác. Nó chỉ cao lớn lắm là bằng như cây mận, hoặc cây trứng cá thôi. Lá bằng lăng dài, và bề ngang rộng hơn lá xoài non một chút, và đọt băng lăng có màu tim tím tái như đọt xoài. Ở miền đồng bằng người ta thường hái đọt bằng lăng dùng như các loại lá lụa, cải xà lách, lá cách, cải xanh, đọt điều… để cuốn bánh khọt, cuốn bánh xèo ăn rất ngon.
Thể Hà nhờ mẹ chồng giúp, hôm nay nàng trổ tài làm món gỏi sầu đâu cho cả nhà ăn. Sầu đâu có cành lá xanh, mảnh mai như cành lá của cây bồ ngót, lá non để nấu canh rau tập tàng. Nhưng lá sầu đâu to hơn và có vị đắng như khổ qua. Cái đắng của lá sầu đâu làm người thích ăn nó như bị ghiền vậy. Cũng như rau nhút ăn sống chấm mắm kho, hay chấm nước cá kho, hoặc nấu canh chua. Rau nhút sống hay nấu chín đều nặng mùi. Nhưng người thích nó thì khỏi nói, mắc bao nhiêu cũng mua, ăn cơm với các món kho, chưng mặn cần chấm rau, dưa mà thiếu rau nhút thì ăn không ngon. Vị đắng của lá sầu đâu cũng ở trong trường hợp nầy.
Thể Hà làm xong hai thứ gỏi sầu đâu. Đó là một thứ gỏi trộn với thịt ba chỉ, tôm cho sắp nhỏ con nàng. Còn thứ gỏi trộn thịt ba chỉ và cá nướng cho bà Châu, Đông Nhựt và nàng.
Thể Hà hôm đi California mua được lá sầu đâu ở Chợ Cầu. Chợ nầy không biết có từ bao giờ, cứ mỗi sáng chủ nhật thì đa số là các sắc dân ở tứ xứ đến họp chợ. Nhứt là người Á Đông, người Mễ, một số ít người Âu và dân bản xứ. Họ nhóm chợ dưới dạ của những cây cầu to bắc chằng chịt ngang qua các xa lộ. Họ bán rau cải, trái cây, tôm, cá, gà, vịt, chim chóc còn sống. Rau cải còn cả gốc rễ, mới hái ở vườn hôm trước hãy còn tươi non và rất là rẻ, lại không có thuế.
Thể Hà mua được hai chùm lá sầu đâu tươi. Lúc mua nàng hỏi người bán ở đây trồng được loại nầy sao? Bà bán hàng nói là bà có cô cháu ở Florida trồng sầu đâu nhiều lắm. Cô ấy mới gởi bằng máy bay hôm qua cho bà, để kịp buổi chợ sáng chủ nhật hôm nay, nên rau tươi như mới hái ở sau rẫy đem vô.
Trộn gỏi lá sầu đâu cũng như trộn các loại gỏi khác. Bà Châu luộc thịt ba chỉ, luộc tôm. Bà xắt thật mỏng củ cải đỏ (chỉ ít thôi cho tô gỏi có màu) trái su, củ cải trắng, dưa leo (gọt vỏ có sọc). Bà ngâm mỗi thứ mỗi tô riêng với giấm đường. Đặc biệt củ cải trắng trước khi ngâm với giấm đường bà trộn khô với muối cho củ cải nhả chất nồng cay ra, rồi sau dó bà xả bằng nước lạnh nhiều lần mới ngâm vào tô giấm đường. Bà ngâm bốn thứ nầy chừng hai ba giờ cho đường và giấm thấm. Lấy su, củ cải trắng, củ cải đỏ, dưa leo đổ chung vào rổ, vắt cho thiệt ráo nước. Nhẹ tay bóp cho rời ra rồi trộn đều để đó. Thịt ba chỉ thái mỏng, tôm luộc lột vỏ, nếu tôm lớn chẻ đôi theo sống lưng. Tước lấy lá sầu đâu non, bỏ cọng, đem rửa sạch. Bà Châu còn kỹ lưỡng trụng vào nước sôi xong, đổ ra rổ cho ráo nước. Bà xắt nhuyễn lá sầu đâu cũng như xắt rau sống. Để các loại trái su, dưa leo, củ cải đỏ, củ cải trắng trong rổ vào cái thau cho tôm và thịt ba chỉ, trộn cho đều. Nêm nếm theo khẩu vị mặn lạt tùy vào người trộn gỏi. Người trộn gỏi hợp với khẩu vị nhiều người là khéo. Còn cá nướng thì con cá chín vàng xé ra theo chiều dài, bỏ xương. Thay vì trộn tôm thì trộn với cá vậy thôi. Rắc rau thơm và sầu đâu vào trộn đều. Chừa lại một ít rải trên mặt với đậu phộng giả nhỏ. Vậy là nhà Thể Hà hôm nay có món gỏi cá, và gỏi tôm trộn lá sầu đâu thật tuyệt.
Khi bữa cơm gần tàn, trong dĩa gỏi tôm trộn lá sầu đâu dành cho mấy đứa nhỏ của Thể Hà, các loại cải chúng ăn sạch. Chỉ còn lá sầu đâu chúng đùa tém lại để dúm bên thành dĩa. Bà Châu ngạc nhiên hỏi:
– Sao các cháu không ăn lá sầu đâu? Nó rất hiếm ở xứ nầy, ăn ngon và nên thuốc lắm.
Các cháu nhìn bà nội cười chúm chím. Thái Dương nói:
– Thưa nội, gỏi bà và mẹ trộn ngon lắm, mới lần đầu tiên ăn lá sầu đâu chưa quen nên khó ăn quá bà à.
Thể Dao gắp lá sầu đâu bên thành dĩa để qua dĩa gỏi của mẹ, Thể Quỳnh cũng làm theo chị gắp lá sầu đâu, nhưng lại cho vào miệng nhai ăn ngon lành. Thể Dao biết con nầy muốn ngạo mình và Thái Dương không biết ăn lá sầu đâu. Cô nàng không nói gì, ra hiệu nheo mắt với Thái Dương, rồi nhìn Thể Quỳnh trề trề môi, cố tình trêu ghẹo em gái mình:
– Thể Quỳnh giống bà nội cả đến các món bà thích thì nó cũng thích. Dĩa gỏi bên cháu, gặp lá sầu đâu là cháu và Thái Dương gắp để qua một bên. Chỉ có Thể Quỳnh ăn thôi, lá sầu đâu nhẩn nhẩn, đắng đắng khó ăn quá đi bà ơi.
Thể Quỳnh nguýt chị:
– Quê quá, không biết thưởng thức thì thôi, còn bắt ngoéo người khác nữa. Chớ khổ qua cũng đắng, sao chị ưa quá vậy? Ăn chưa quen thì phải tập, coi chừng nữa có chồng bên chồng ngày nào cùng dùng lá sầu đâu làm thức ăn thì chị chỉ ngồi mà ngó thiên hạ ăn ngon đó.
Thể Dao nói xạo, để trả đũa em:
– Đừng có nói chảnh. “Còn đó chó chưa ăn “ đâu. Tao nghe mấy đứa bạn học, nhà ở Trung Quốc nói là bên Tàu có nhiều lá sầu đâu lắm. Mai mốt mi về bên đó tha hồ mà ăn mỗi ngày, ăn không đã thì xay lấy nước mà uống nữa đó cô Ba!
Nói đến đó Thể Dao cười cúc cúc, Thể Quỳnh không nhịn được cũng cười theo và vói tay qua đánh chị.
Chiều, thường sau buổi cơm gia đình, má chồng của Thể Hà vào phòng đọc kinh Phật, hoặc những cuốn sách truyện mà nàng xem xong cho bà biết truyện đó coi được hoặc hay. Chồng nàng ra phòng gia đình xem tin tức trong truyền hình. Thể Hà thì đem đồ ăn còn lại cho vô hộp có nắp đậy rồi cất vào tủ lạnh, món nào còn ít thì bỏ đi, hoặc những món không để cách đêm được. Nàng dọn dẹp, lau chùi lại sau khi hai ái nữ rửa chén bát còn vung vãi nước, xà bông. Có khi không biết hai nàng tiểu thơ nầy quên, hay cố tình quên mấy cái nồi, chảo dùng để chiên xào còn trơ trơ trên bếp chưa rửa.
Nàng biết việc Thể Quỳnh chọn Chung để sau ngày ra trường kết hôn là một việc hợp lý. Chung là người tốt, có đầy đủ phẩm hạnh để lo cho tương lai con nàng sau nầy. Mẹ chồng nàng xuề xòa, cái gì cũng được. Đó là bản tánh hiền hậu, thật thà của bà. Chồng nàng thì gần như không để ý, chàng hay bảo:
– Em cứ để cho mọi việc xuôi theo tự nhiên. Đừng lo lắng nhiều quá mà đau lòng xót dạ. Em nghĩ xem, em nói với con về việc chọn người phối ngẫu trong tương lai, nó có nghe em không? Em lại không nỡ ngăn cản, không nỡ ép uổng thì thôi thây kệ đi. Chúng nó còn trẻ mà, chuyện đổi thay của chúng không ai biết trước được. Hãy chờ thời gian.
Thể Hà buồn giọng:
– Không nghĩ ngợi, không lo sao được? Nó là con mình mà, không lo cho nó thì lo cho ai? Em thấy thằng Chung-Chen đó cũng được, nhưng trong lòng em thấy như có cái gì ngăn cách và không được vui trọn vẹn.
Đông Nhựt chọc cười, để vợ quên chuyện không đáng buồn mà nàng cứ ôm ấp trong lòng hoài. Chàng ranh mãnh nhìn vợ:
– Em nhớ lại coi, cô Thể Hà ngày xưa lúc đầu cũng ghét cay ghét đắng chàng Đông Nhựt. Vậy mà sau đó thương quá là thương! Chàng muốn rứt ra cũng không làm sao rứt được nữa kia.
Thể Hà bật cười thành tiếng, lấy tờ báo đập lên vai chồng:
– Thôi đừng có xạo nghen! Báo của anh đó, lên phòng xem đi cho đầu óc tỉnh táo, để không nói tầm bậy tầm bạ nữa.