Chương 3
Sau gần hai năm đến và đi không báo trước, Andrea xuất hiện vào một buổi chiều thứ Bảy cùng hai cô con gái nhỏ. Nói về Andrea, dì ta có sở trường biến những điều không thể thành điều rất đỗi bình thường. Tôi không rõ liệu đấy chỉ là lần đầu tiên tôi và Maeve gặp Norma và Bright Smith hay cha tôi cũng vậy. Không, ông ấy phải biết chúng trước rồi. Việc ông không đưa mắt nhìn chúng chứng tỏ rằng họ đã khá quen thân. Hai đứa trông nhỏ hơn tôi rất nhiều. Bright, đứa bé hơn, trông như thể được in trên tấm thiệp Giáng sinh, giống mẹ nó với đôi má đỏ hây hây, cặp mắt xanh biếc và luôn cười tươi với mọi người. Norma có mái tóc màu nâu nhạt và đôi mắt xanh lục. Con bé chẳng có vẻ gì giống với đứa em xinh xắn và rực rỡ - trông nó quá nghiêm túc. Môi nó mím lại thành một đường thẳng. Rõ ràng việc của Norma là trông chừng mọi thứ.
“Các con,” mẹ chúng giới thiệu. “Đây là Danny. Còn đây là chị gái của Danny, chị Maeve.”
Hiển nhiên chúng tôi bị sốc nhưng trong thâm tâm chúng tôi cũng rất vui vì hiểu rằng các cô con gái nhà Smith sẽ đánh dấu chấm hết cho Andrea. Cha chúng tôi sẽ không muốn có thêm hai đứa trẻ trong nhà, đặc biệt là hai đứa con gái. Ai là người trông chừng chúng vào những tối thứ Bảy dì ta ghé qua dùng bữa, dì ta chưa một lần nhắc đến việc phải về nhà? Điều này là không thể chấp nhận được. Khi đứng ở cửa để chào tạm biệt bọn họ sau chuyến thăm viếng ngắn ngủi, chúng tôi nghĩ đấy là lời vĩnh biệt.
“Sayonara[1] cô Smith,” tối đó Maeve nói trong phòng tắm khi chị bóp kem đánh răng lên bàn chải cho hai chị em. Tôi hoàn toàn có thể bóp được tuýp kem đánh răng nhưng đây là nghi thức của riêng chúng tôi. Chúng tôi đánh răng cùng nhau, sau đó cùng nhau cầu nguyện.
“Buenas noches[2] Bright và Norma,” tôi nói. Maeve liếc mắt nhìn tôi, không nghĩ rằng tôi sẽ nói ra câu đó, rồi bật cười to như tiếng sủa của con hải cẩu.
Maeve và tôi luôn cảm tưởng rằng chỉ còn một chút nữa là chúng tôi giải được bí mật của cuộc đời, rằng sớm thôi, chúng tôi sẽ hiểu được một bí ẩn không lời giải chính là cha chúng tôi, nhưng chúng tôi đã hoàn toàn hiểu nhầm về sự xuất hiện của hai đứa con gái con Andrea. Đấy không phải là một màn giới thiệu ngu ngốc, không có tính toán trước. Lá bài cuối cùng mà Andrea lật ra với nội dung trọn gói là bằng chứng rằng dì ta đã hoàn toàn thuộc về nơi này, và chúng tôi bằng cách nào đó đã bỏ lỡ việc này. Chắc mấy chốc lũ trẻ nhà Smith sẽ thường xuyên xuất hiện tại ngôi nhà này, ngồi với chúng tôi trên bàn ăn tối hoặc cởi tất để vầy nước dưới bể bơi - chúng không biết bơi. Thật kỳ lạ khi có những đứa trẻ khác hiện diện ở nơi này. Maeve và tôi đều có bạn ở trường nhưng chúng tôi thường đến nhà họ để dự tiệc, học bài và ngủ lại. Chẳng ai từng đến Ngôi nhà của Người Hà Lan cả. Có thể do chúng tôi không muốn ai biết chuyện về mẹ mình, hoặc sợ rằng ngôi nhà sẽ là chủ đề để đám bạn đàm tiếu, nhưng sự thật, chúng tôi hiểu rằng cha không thích trẻ con, đó là lý do việc đồng ý cho hai đứa trẻ nhà Smith ở lại là vô cùng phi lý.
Một đêm nọ, đám con gái đến cùng với mẹ, hôm đó dì ta mặc chiếc váy lụa màu xanh tuyệt đẹp. Tay Bright cứ liên tục lướt qua chiếc váy làm nó kêu sột soạt như tiếng gió thọc vào đám lá, còn Norma chơi trò bước từng bước trong những ô vuông nhỏ trên nền nhà lát đá cẩm thạch trong phòng chờ. Andrea thông báo với bốn đứa chúng tôi là tối đó dì ta sẽ đi chơi cùng cha tôi. Dì ta định để lũ con gái cho Maeve và tôi trông mà không một lời báo trước.
“Chúng cháu nên làm gì với các em ạ?” Maeve hỏi, vì thực sự chúng tôi không biết phải làm gì. Việc trông nom chúng không phải là trách nhiệm của chúng tôi. Chị em tôi chưa từng ở một mình với chúng.
Andrea gạt đi. Những ngày đó dì ta rất vui vẻ, như thể mọi thứ đã được sắp đặt. Có thể đúng là như vậy. “Cháu không phải làm gì cả,” dì ta nói với Maeve, sau đó nở nụ cười thật tươi với hai đứa con, “Các con tự biết cách chăm sóc bản thân, phải không nào các cô gái? Cháu có sách không? Norma, mượn chị Maeve một cuốn mà đọc.”
Maeve có một chồng tiểu thuyết của Henry James trên táp đầu giường. Liệu chúng có muốn đọc cuốn Vòng xoay đinh vít[3]? Cha bước xuống cầu thang trong bộ vét bảnh nhất, mắt nhìn thẳng. Ông vừa đi vừa bám vào tay vịn cầu thang, điều đó có nghĩa là đầu gối đang hành hạ ông hoặc tâm trạng của ông không tốt. Không biết Andrea có biết điều đó không? “Đến giờ đi rồi,” cha nói với Andrea, nhưng không nói thêm lời nào với bốn đứa chúng tôi, kể cả cảm ơn hay chúc ngủ ngon. Ông đi thẳng ra cửa. Tôi nghĩ ông thấy xấu hổ.
“Trông anh tuyệt quá,” Andrea đánh mắt về phía ông buông lời khen ngợi rồi bám theo cha ra ngoài. Ông không đợi dì ta. Hai đứa nhỏ trông lo lắng đến phát ốm và đến lúc không còn nhìn thấy mẹ mình, chúng bật khóc.
“Lạy Chúa,” Maeve nói, rồi đi tìm giấy ăn. Công bằng mà nói chúng không gào khóc. Chúng đang cố để không bật khóc thành tiếng nhưng mọi thứ có vẻ vượt quá khả năng của chúng. Hai đứa nhóc ngồi cùng nhau trên một chiếc ghế tựa kiểu Pháp. Bright gục đầu vào ngực chị gái, còn Norma gục mặt xuống tay như thể hai đứa vừa nhận được tin tức về ngày tận thế vậy. Tôi hỏi chúng có muốn đọc sách, xem ti vi hay ăn kem không. Chúng còn chẳng buồn ngẩng lên nhìn tôi. Khi Maeve quay lại đưa cho mỗi đứa một tờ khăn giấy, chị hỏi chúng có muốn xem nhà không như thể chẳng thấy chúng đang khóc.
Ngay cả khi đang trong tình cảnh khổ sở, rõ ràng Norma và Bright nghe thấy lời đề nghị của Maeve. Chúng vẫn muốn khóc như thể khóc là cách duy nhất mà bọn chúng nghĩ ra vào tối đó, nhưng chúng đã bớt khụt khịt để lắng nghe.
“Tiền sảnh không phải là toàn bộ căn nhà đâu,” Maeve nói. “Đấy chỉ là một phần rất nhỏ thôi. Lưu ý rằng các em có thể nhìn thấy toàn bộ ngôi nhà. Từ sân trước,” chị chỉ vào cánh cửa nơi chúng bước vào rồi vòng ra hướng đối diện, chỉ vào cửa sổ trong đài quan sát, “đến sân sau.”
Bright ngẩng đầu nhìn theo hai hướng, và khi Norma rỏ những giọt nước mắt cuối cùng, con bé cũng ngập ngừng nhìn theo.
“Các em đã thấy phòng ăn và phòng khách.” Maeve quay sang hỏi tôi. “Đúng không nhỉ? Chị nghĩ hai đứa chưa từng vào bếp.”
“Chúng phải vào bếp làm gì chứ?” Tôi cố để không tỏ ra rầu rĩ - bọn nhóc mới là những kẻ rầu rĩ - nhưng tôi đang nghĩ đến cả trăm thứ mình có thể làm tối đó thay vì mua vui cho lũ trẻ con Andrea.
Maeve đi tìm đèn pin và mở cửa tầng hầm. “Không bám vào tay vịn nhé,” chị lo lắng nói. “Dằm đâm vào tay đấy. Chỉ cần để ý bước chân là được.”
“Em không muốn xuống tầng hầm đâu,” Bright hoảng hốt nhìn vào bóng tối dày đặc dưới hầm.
“Thế thì thôi,” Maeve nói. “Bọn này sẽ không đi lâu đâu.”
“Bế em,” Bright nài nỉ.
Maeve không đáp lại.
Norma khựng lại: “Dưới đó có nhện không?”
“Chắc chắn.” Maeve vẫn đi tiếp. Chị đang kiếm sợi dây công tắc bóng đèn treo giữa trần nhà. Hai đứa con gái phải cân nhắc giữa hai lựa chọn: lên hoặc xuống, và chẳng chóng thì chầy chúng sẽ nối gót chị tôi và tôi sẽ là người bọc lót cuối đoàn thám hiểm. Cả hai đứa đều mặc váy, quần tất trắng và đi giày da bóng. Tầng hầm của ngôi nhà được xây dựng cách đây cả thế kỷ và không liên quan đến cấu trúc ngôi nhà phía trên. Ở một số góc, tường đã mủn. Tôi từng tìm thấy một đầu mũi tên ở dưới này. Tôi định sẽ đào bới xung quanh để tìm thêm nhưng thực tình tôi cũng chẳng thích tầng hầm cho lắm.
“Sao chị lại xuống đây?” Norma hỏi, vừa sợ hãi vừa ngạc nhiên.
“Chị sẽ chỉ cho em thấy.” Maeve chĩa đèn pin về phía góc đằng xa của căn phòng cho đến khi chùm tia sáng phản chiếu ngược lại từ cánh cửa kim loại nhỏ gắn trên tường. “Đó là hộp cầu chì. Giả sử một bóng đèn cháy trong hành lang phòng vệ sinh nữ mà ta biết rõ nguyên nhân không phải do bóng đèn thì em sẽ phải xuống đây và kiểm tra hộp cầu chì. Khi cầu chì đứt hết, em cần gắn một đồng xu đằng sau để những hộp cầu chì cũ hoạt động trở lại. Trong trường hợp khí sưởi đột nhiên nguội lạnh, em sẽ phải xuống đây để kiểm tra lò lửa. Nếu không có nước nóng, em cần kiểm tra nồi hơi. Có thể là do đèn điều khiển đã bị tắt và trong trường hợp đó em cần mồi lửa. Cũng có thể do rò rỉ khí đốt... và bùm,” chị thủng thẳng giải thích.
Thành thật mà nói tôi chưa bao giờ nghĩ đến những chuyện đó.
Maeve dũng cảm đi trước trong khi Norma, Bright và tôi cố gắng giữ khoảng cách trong vùng sáng của chiếc đèn pin. Chị mở cánh cửa gỗ, tiếng cót két khiến hai đứa con gái sợ hãi ép sát vào tôi trong giây lát, rồi Maeve kéo một sợi dây khác, bật một bóng đèn khác. “Đây là hầm lương thực, nơi chứa thực phẩm dự trữ phòng trường hợp chúng ta ở đây và thấy đói. Sandy và Jocelyn làm rất nhiều dưa leo muối, mứt và cà chua hầm. Khá nhiều món đóng lọ ở dưới này.” Chúng tôi ngước nhìn các kệ được chất đầy những lọ, lọ nào cũng ghi rõ ngày tháng và được sắp xếp theo màu sắc, màu vàng của miếng đào nổi lên trên mặt nước si rô, màu đỏ của mứt quả mâm xôi. Những thùng khoai lang, khoai tây, hành tây chất đống trên sàn nhà lạnh lẽo. Tôi chưa từng nghĩ nhà mình giàu cho đến lúc nhìn thấy chồng đồ ăn dự trữ được giới thiệu cho lũ trẻ nhà Smith.
Cuối cùng, chúng tôi chuẩn bị lên tầng trệt thì Bright đứng lại, chỉ vào những hộp xếp chồng lên nhau ở dưới cầu thang và hỏi: “Trong đó là thứ gì vậy?”
Maeve chĩa đèn pin về phía tòa tháp hộp mốc meo. “Đồ trang trí Giáng sinh, đồ trang trí gia đình, những thứ kiểu vậy.”
Bright trông vui vẻ khi nghe đến Giáng sinh và hỏi nó có thể mở những chiếc hộp đó không. Con bé nghĩ rằng ở đâu có đồ trang trí, ở đó sẽ có quà, thậm chí là quà cho con bé, nhưng Maeve không cho mở. “Em có thể đến vào dịp Giáng sinh rồi mở chúng nhé!”
Đêm đó, khi bọn tôi đánh răng, tôi không nói một lời nào với Maeve, và khi chị bảo cùng cầu nguyện thì tôi mặc kệ.
“Nào,” chị nài nỉ. “Đừng giận chứ.”
Nhưng tôi tức phát điên. Tôi lên giường với tâm trạng cáu kỉnh. Chuyến tham quan ngôi nhà đã chiếm trọn buổi tối. Chị đã cho chúng xem tất cả những gì có thể: phòng trữ thức ăn nơi đựng bát đĩa và những cuộn khăn trải bàn lớn, tủ quần áo trong phòng ngủ ở tầng ba với cánh cửa nhỏ phía sau dẫn đến tầng gác mái. Chị để chúng xoay vòng trong phòng khiêu vũ, vờ như nhảy một điệu valse. Việc nhảy trong căn phòng đó chưa từng xảy ra với chúng tôi. “Ai lại để phòng khiêu vũ ở tầng ba cơ chứ?” Norma thắc mắc. Maeve giải thích rằng vào những năm ngôi nhà được xây, một phòng khiêu vũ ở tầng ba được coi là thời thượng. “Nó là mốt thời đó,” chị giải thích. “Cũng chẳng kéo dài được bao lâu nhưng một khi đã làm phòng khiêu vũ trên tầng ba thì khó mà thay đối được.” Maeve chỉ cho chúng tất cả phòng ngủ trong nhà. Norma và Bright đều đồng ý rằng phòng của Maeve là tuyệt nhất, và chúng ngồi lên bệ cửa sổ trong khi Maeve kéo rèm cho chúng. Hai đứa la toáng lên và cười to rồi hét: “Không, đừng mà!” khi chị kéo rèm ra. Kết thúc chuyến tham quan, chị dẫn từng đứa vào trong bếp để chúng lần lượt lên dây cót cho đồng hồ của ông, mặc dù chị biết đấy là việc đầu tiên mà tôi sẽ làm mỗi sáng Chủ nhật.
Maeve ghé sát cạnh tôi đang ở trên giường. “Hãy nghĩ xem ngôi nhà này choáng ngợp như thế nào đối với chúng, choáng ngợp như thế nào với chúng ta, nên nếu chúng ta chỉ cho chúng tất cả mọi thứ thay vì chỉ có những thứ tốt đẹp thì... chị không biết nữa... thân thiện hơn chăng?”
“Vô cùng thân thiện,” tôi nói, giọng chẳng có tí thiện chí nào.
Maeve đặt tay lên trán tôi như cách chị làm mỗi khi tôi ốm. “Chúng chỉ là những đứa trẻ, Danny à. Chị thấy tội cho tất cả những ai tầm tuổi đó.”
Chị để chúng ngủ trên giường chị, và khi cha cùng Andrea về nhà, mỗi người bế một đứa xuống cầu thang, ra xe của dì ta. Maeve chạy xuống cầu thang sau họ. Họ quên giày của hai đứa nhỏ. Maeve nói với tôi rằng Andrea đã khá say.
Trong danh sách dài những việc mà chị tôi không được ghi nhận cần thêm điều này: chị đối xử với lũ trẻ con Andrea rất tốt. Nếu cha hoặc Andrea ở trong phòng, Maeve sẽ lịch sự phớt lờ bọn trẻ; nhưng khi họ rời khỏi và để chị ở nhà một mình với Norma và Bright, chị sẽ đối xử tốt với chúng - dạy chúng móc len, cho chúng tết tóc chị hoặc dạy chúng cách nặn hột bột năng. Bù lại, lũ trẻ đi theo chị khắp căn nhà như cặp chó Cocker Spaniel tôn thờ chủ.
Nơi chúng tôi ăn tối hoặc ăn khuya được quy định khá phức tạp bởi gia quy do Sandy và Jocelyn đặt ra. Nếu cha về kịp giờ ăn thì ba người chúng tôi sẽ ăn trong phòng ăn, Sandy phục vụ đồ ăn cho chúng tôi trên bộ bàn ghế sực nức mùi tinh dầu chanh. Nếu cha về muộn hoặc có kế hoạch khác, tôi và Maeve sẽ ăn trong bếp. Vào những tối đó, Sandy đặt một đĩa thức ăn vào tủ lạnh dưới một tờ giấy sáp để cha có thể dùng bữa khi ông về nhà. Tôi cho là như vậy. Có thể ông sẽ mang khẩu phần của mình vào phòng ăn và ăn một mình. Tất nhiên, khi Andrea và lũ trẻ nhà dì ta ở đó, chúng tôi sẽ ăn trong phòng ăn. Nếu có mặt Andrea, Sandy không chỉ phục vụ bữa tối cho mọi người mà còn kiêm cả việc dọn dẹp. Nếu không, mọi người sẽ phải tự dọn đĩa của mình và mang vào bồn rửa. Chẳng ai giải thích lý do cho những việc này nhưng tất cả chúng tôi đều hiểu, cũng như chúng tôi hiểu rằng vào tối Chủ nhật, cha, Maeve và tôi sẽ ngồi trong bếp lúc sáu giờ để ăn bữa tối nguội lạnh mà Sandy chuẩn bị trước cho chúng tôi. Andrea và lũ trẻ nhà dì ta không bao giờ ăn tối cùng chúng tôi vào Chủ nhật. Một mình trong nhà, cả ba chúng tôi sẽ quây quần bên chiếc bàn nhỏ và có cảm giác gần gũi, ấm cúng như một gia đình chỉ vì bắt buộc phải ở cùng nhau trong một không gian nhỏ hẹp. Ngôi nhà của Người Hà Lan thì lớn nhưng phòng bếp lại nhỏ một cách kỳ lạ. Sandy nói với tôi rằng bởi vì những người duy nhất nhìn thấy phòng khách là những người hầu và không ai trong lĩnh vực kinh doanh xây dựng lại tốn diện tích để xây một chỗ đủ cho đám người hầu có thể duỗi chân cả (đó là những lời Sandy nói với tôi, duỗi chân). Có một chiếc bàn nhỏ bằng gỗ ép màu xanh lam trong góc nơi Jocelyn ngồi bóc vỏ đậu Hà Lan hoặc cán vỏ bánh, chính là chiếc bàn mà Sandy và Jocelyn dùng bữa trưa, bữa tối. Maeve luôn cẩn thận lau bàn khi chúng tôi làm xong và để mọi thứ về chỗ cũ vì chị nghĩ rằng phòng bếp thuộc quyền của Sandy và Jocelyn. Khoảng trống ít ỏi ở nơi này chủ yếu được lấp đầy bởi dãy bếp ga với chín họng đốt, một ngăn làm ấm và hai lò nướng đủ lớn để đút một con gà tây. Phần còn lại của ngôi nhà vào mùa đông lạnh như băng ở hai đầu cực dù Sandy có đốt lò lớn đến đâu, nhưng chiếc bếp vẫn giữ cho phòng bếp nhỏ luôn ấm áp. Tất nhiên, mùa hè là một câu chuyện khác, nhưng ngay cả trong mùa hè, tôi vẫn thích bếp hơn. Cửa bếp thông ra hồ bơi luôn mở và chiếc quạt ở góc bếp luôn hút mùi của bất cứ thứ gì đang nướng trong lò và thổi ra ngoài. Tôi có thể nằm ngửa trong hồ bơi, dưới ánh nắng ban trưa chói chang và hít hà mùi bánh anh đào mà Jocelyn đang nướng trong lò.
Vào tối Chủ nhật, sau khi lũ trẻ con Andrea được thả cho chúng tôi trông nom, tôi đã quan sát Maeve một cách cẩn thận và nghĩ rằng thứ gì đó trong chị đã lụi tàn. Tôi dễ dàng đọc được chỉ số đường huyết của chị như đối với thời tiết vậy. Tôi biết khi nào chị không buồn nghe tôi nói nữa và định đổi chủ đề. Tôi luôn là người đầu tiên để ý thấy chị vã mồ hôi hay tái xanh. Sandy và Jocelyn cũng thấy điều đó. Họ biết khi nào chị cần nước trái cây, khi nào thì cần tiêm. Điều đó khiến cha luôn thấy ngạc nhiên. Cha chỉ hay nhìn vào khoảng không vô định trên đầu Maeve chứ ít khi để ý đến chị. Nhưng lần này không liên quan gì đến chỉ số đường huyết cả. Trong lúc tôi để mắt đến chị, Maeve đã làm một điều đáng kinh ngạc nhất mà tôi từng biết: một cách thản nhiên, trong lúc múc sa lát khoai tây, chị nói với cha rằng chúng tôi không có trách nhiệm phải trông nom lũ trẻ con Andrea.
Ông ngồi yên lặng một lúc, nhai miếng thịt gà trong miệng. “Con có dự định làm việc khác vào đêm qua sao?”
“Làm bài tập về nhà ạ,” Maeve nói.
“Vào thứ Bảy ư?”
Maeve đủ xinh đẹp và quảng giao để không bao giờ phải ở nhà vào tối thứ Bảy nhưng chị lại thường ở nhà, và lần đầu tiên tôi nhận ra là do tôi. Chị sẽ không bao giờ để tôi một mình ở nhà. “Tuần này có nhiều bài tập ạ.”
“Thì,” cha tiếp lời, “có vẻ như con vẫn lo được mọi việc đấy chứ. Con vẫn có thể làm được bài tập khi lũ trẻ ở đây.”
“Con chẳng làm được bài nào vào thứ Bảy cả. Con còn phải trông chừng lũ nhóc.”
“Nhưng giờ con đã làm xong bài tập, phải không nào? Con sẽ không tự làm bẽ mặt mình ở trường vào ngày mai đâu.”
“Đấy không phải vấn đề.”
Cha tôi để chéo dao dĩa trên đĩa rồi nhìn chị. “Vậy sao con không nói cho ta xem vấn đề ở đây là gì nào?”
Maeve đã chuẩn bị cho câu hỏi này. Chị nghĩ trước các tình huống. Có lẽ chị đã suy nghĩ về điều đó từ khi tôi phản đối chuyến tham quan. “Chúng là con của Andrea và cô ấy nên trông chừng chúng chứ không phải con.”
Cha hất đầu về phía tôi. “Con chăm sóc em đấy thôi.”
Chị chăm sóc tôi cả sáng, trưa, chiều và tối. Đó có phải những gì mà chị muốn nói không? Chị không cần thêm hai đứa nhóc nữa để mà chăm sóc?
“Danny là em trai con, còn những đứa trẻ đó không liên quan gì đến chúng con.” Tất cả những thứ cha từng dạy Maeve lại biến thành những thứ chống lại ông: Maeve, ngồi thẳng người lên. Maeve, nhìn vào mắt ta khi con muốn hỏi bất cứ điều gì. Maeve, bỏ tay ra khỏi tóc đi. Maeve, nói xem nào, đừng mong bất kỳ ai lắng nghe con khi con chẳng mở nổi miệng.
“Nếu lũ trẻ trở thành thành viên gia đình mình, con sẽ không thấy khó chịu nữa chứ?” Ông châm điếu thuốc tại bàn ăn khi thức ăn vẫn còn trên đĩa, một hành động gây hấn khiếm nhã nhất mà tôi từng chứng kiến.
Maeve chỉ nhìn ông chằm chằm. Sự vững vàng trong ánh mắt chị khiến tôi bất ngờ. “Chúng không phải thành viên gia đình chúng ta.”
Cha gật đầu. “Khi con sống dưới mái nhà của ta và ăn thức ăn của ta, ta cho rằng con có thể ngoan ngoãn trông nom khách của ta khi ta nhờ.”
Tiếng giọt nước chảy ra từ bồn rửa. Tách, tách, tách. Nó tạo ra sự ồn ào không thể tin được, vang vọng đập vào các bức tường, y như cách những người thuê nhà đã miêu tả khi họ phàn nàn về vòi nước trong căn hộ của minh. Tôi quan sát cha sửa chữa vòi nước nhiều lần nên có thể tự mình làm việc đó. Tôi tự hỏi, nếu tôi đứng dậy khỏi bàn và tìm cờ lê, liệu có ai trong số họ nhận ra là tôi đã biến mất không.
“Cha không hề nhờ con,” Maeve nói.
Cha kéo ghế ra sau định đứng lên nhưng chị đã làm trước. Chị đứng dậy, vẫn nắm chặt khăn ăn trong tay, tôi rời khỏi phòng mà không một lời xin phép.
Cha ngồi yên lặng lúc lâu theo thói quen rồi dúi điếu thuốc vào đĩa bánh mì. Ông và tôi đều đã xong bữa, mặc dù tôi cũng không biết mình đã đứng lên bằng cách nào. Xong xuôi, ông đến thư viện đọc báo, còn tôi thì dọn bàn, lau sạch sẽ và xếp bát đĩa vào bồn rửa để Jocelyn rửa vào buổi sáng. Công việc đó thường là của Maeve nhưng hôm nay nó thuộc về tôi. Cha bỏ lại món tráng miệng. Đó là vài miếng bánh mứt chanh vàng đặt trong một cái đĩa sâu lòng trong tủ lạnh. Tôi lấy cho mình một miếng, một quả cam cho Maeve, đặt vào một chiếc đĩa rồi mang lên lầu.
Chị đang ngồi trên bệ cửa sổ phòng mình, đôi chân dài duỗi thẳng. Chị ôm một cuốn sách nhưng không đọc mà nhìn xa xăm ra vườn. Căn phòng có ghé hướng tây nhưng không chính hướng nên tia sáng cuối ngày chiếu xuống khiến trông chị hệt như một bức họa.
Tôi đưa cho chị quả cam, chị cầm lấy và bóc vỏ. Chị thu gối để tôi có thể ngồi đối diện chị. “Điều này không tốt cho chúng mình chút nào đâu, Danny ạ,” chị nói. “Em thừa hiểu điều đó mà.”
Chú thích:
[1] Vĩnh biệt.
[2] Chúc ngủ ngon.
[3] Tên trong nguyên tác là The Turn of the Screw.