← Quay lại trang sách

Chương 4

Sáu tuần sau khi Maeve rời nhà đến Barnard học, chị được gọi về Elkins Park để tham dự lễ cưới. Cha kết hôn với Andrea trong phòng khách dưới sự chứng kiến của gia đình VanHoebeek. Bright thả một nắm cánh hoa hồng lên tấm thảm Savonnerie được sản xuất ở Tây Ban Nha, còn Norma tựa vào mẹ, tay cầm cái gối màu hồng thẫm trên đó đặt hai chiếc nhẫn cưới. Maeve và tôi đứng cùng khoảng hơn ba mươi vị khách khác. Đó là khi chúng tôi biết rằng Andrea còn có mẹ, chị gái, ông anh rể làm nghề bán bảo hiểm và vài người bạn khó ưa, họ nghển cổ ngước lên trần nhà khi bánh cưới được mang ra. (Trần phòng ăn sơn màu xanh thẫm trông sâu hun hút, được bao phủ bằng những chiếc lá vàng chạm khắc tinh xảo, nói chính xác hơn là những chiếc lá thếp vàng. Những chiếc lá thếp vàng được sinh ra nhằm tô điểm cho những hình vuông, hình tròn được tạo thành từ những chiếc lá thếp vàng khác. Trần nhà phù hợp với cung điện Versailles hơn là một căn nhà miền Đông Pennsylvania, và khi còn nhỏ tôi đã thấy nó rất đáng sợ. Cha, Maeve và tôi giữ quan điểm tập trung vào bữa ăn thay vì trần nhà.) Sandy và Jocelyn phục vụ sâm panh tại quầy lễ tân trong bộ đồng phục màu đen với phần cổ và tay áo trắng mà Andrea mua cho dịp này. “Chúng ta như thể quản ngục trong nhà tù nữ vậy,” Jocelyn lầm bầm, xoa xoa cổ tay. Maeve quay vào bếp mỗi khi có chai sâm panh nào được mở ra vì chị đã dũng cảm tuyên bố rằng nổ sâm panh sẽ là việc đầu tiên chị làm khi vào đại học. Sandy và Jocelyn lo sợ rằng sâm panh là cách Maeve nói về khẩu súng được nạp đạn.

Đám cưới được tổ chức vào một ngày mùa thu rực rỡ, ngày mà mặt trời, cỏ cây, hoa lá đều tỏa sáng chói chang. Tất cả cửa sổ ở phía sau nhà đều được treo ba lớp rèm phủ kín đến tận sàn nhà khiến cha tôi gặp khó khăn khi kéo mở chúng, điều mà tôi chưa từng chứng kiến trước đây. Cửa sổ mở ra tạo nên một tá cánh cửa hướng ra sân sau chỗ hồ bơi, nơi này đã được phủ đầy hoa súng. Ai mà ngờ được hoa súng có thể thuê trong ngày chứ? Ai cũng trầm trồ, xuýt xoa về vẻ đẹp của mọi thứ ở đây, từ ngôi nhà, hoa lá và ánh sáng, đến cả người phụ nữ chơi piano ở đài quan sát; nhưng Maeve, Sandy, Jocelyn và tôi biết rằng đó chỉ là một sự phí phạm.

Cha chúng tôi không thể kết hôn với Andrea tại Thánh Đường hay mời cha Brewer đến nhà chứng giám cho cuộc hôn nhân của họ vì cha đã ly hôn, còn Andrea không theo đạo Công giáo. Vì thế mà cuộc hôn nhân của họ không thật chút nào. Hôn lễ được cử hành bởi một thẩm phán chẳng ai biết đến, cha tôi thuê ông ta tới để cử hành hôn lễ như kiểu người ta thuê một anh thợ điện! Buổi lễ kết thúc, Andrea vẫn nâng ly rượu lên, cho ánh nắng xuyên qua ly rượu nhằm thể hiện màu rượu khớp với màu váy của dì ta đến mức nào. Lần đầu tiên tôi nhận ra dì ta trẻ đẹp và hạnh phúc nhường nào. Trong đám cưới thứ hai của mình, cha đã bốn mươi chín tuổi và người vợ mới của ông trong bộ váy cưới satin màu rượu vang chỉ mới ba mươi mốt. Tuy vậy, Maeve và tôi chẳng hiểu ông cưới dì ta vì lý do gì. Nhìn lại thì tôi phải thừa nhận rằng chúng tôi đã thiếu trí tưởng tượng biết bao.

✽ ✽ ✽

“Chị có nghĩ rằng liệu chúng ta có thể nhìn quá khứ như đúng cách mà nó diễn ra không?” Tôi hỏi chị gái mình khi ngồi trong xe chị, đỗ trước Ngôi nhà của Người Hà Lan trong ánh nắng chói chang ngày hè. Những tán cây đoạn lá bạc che khuất tầm nhìn khiến chúng tôi chẳng nhìn thấy gì ngoại trừ những tán lá. Khi còn nhỏ, tôi nghĩ rằng chúng đã rất lớn rồi nhưng chúng vẫn cứ lớn mãi. Có thể đến một ngày chúng sẽ trở thành bức tường trong mơ của Andrea. Cửa kính ô tô mở toang, mỗi đứa thò tay ra một hướng - Maeve tay trái, còn tôi tay phải - để hút thuốc. Tôi đã học xong năm đầu tiên tại trường y khoa ở Columbia. Đó là mùa hè chúng tôi bỏ thuốc, dù ít dù nhiều, nhưng vào ngày đặc biệt này chúng tôi vẫn làm một điếu.

“Quá khứ như thế nào thì chị nhìn nhận nó chính xác như vậy, không khác,” Maeve chắc nịch, mắt nhìn đăm đăm vào những tán lá.

“Nhưng chúng ta sẽ đặt bản thân của hiện tại vào trong đó. Chúng ta nhìn nhận mọi thứ trong quá khứ theo quan điểm của chúng ta bây giờ, thế nên chúng ta không nhìn nhận quá khứ như chúng ta trong quá khứ. Chúng ta nhìn nó với con mắt hiện tại và điều đó hoàn toàn thay đổi quá khứ.”

Maeve vẩy tàn thuốc, mỉm cười. “Chị thích điều này. Đấy là những điều người ta dạy em ở trường sao?”

“Nhập môn Tâm thần học.”

“Hãy nói với chị là em sẽ đi sâu vào chuyên ngành đó. Nó có vẻ có lợi cho em.”

“Chị có bao giờ nghĩ đến việc đi gặp bác sĩ tâm lý không?” Đó là năm 1971. Tâm lý học đang bùng nổ tại quốc gia này.

“Chị chẳng cần bác sĩ tâm lý nào hết vì chị nhìn rất rõ quá khứ của mình, nhưng nếu em cần một ai đó để thực hành thì cứ thoải mái. Tâm lý chị là tâm lý em.”

“Sao hôm nay chị không đi làm?”

Maeve nhìn tôi, hoàn toàn kinh ngạc. “Hỏi ngu ngốc gì vậy? Chỉ cần em đến đây, chị sẽ không đi làm.”

“Chị xin nghỉ ốm ư?”

“Chị nói với ngài Otterson là em từ trường về. Ông ta chả quan tâm chị có ở công ty hay không. Chị đã hoàn thành mọi việc.” Chị gạt tàn ra ngoài cửa sổ. Maeve làm kế toán cho Công ty Otterson ngay sau khi chị tốt nghiệp đại học. Họ chuyên về đóng gói và vận chuyển rau củ quả đông lạnh. Chị tôi giành giải thưởng toán học ở trường Barnard. Chị có điểm tích lũy trung bình cao hơn anh chàng đã giành giải thưởng toán học ở Columbia năm đó, một sự thật ngọt ngào mà chị biết được từ chị gái của anh chàng, bạn học của Maeve. Với vốn kiến thức và khả năng của mình, chị không chỉ làm bảng lương, tính thuế mà còn cải tiến hệ thống giao hàng, đảm bảo những bao ngô đông lạnh sẽ nhanh chóng được chuyển đến tủ cấp đông của các cửa hàng tạp hóa trên khắp vùng Đông Bắc.

“Chị có thường xuyên đi làm không đó? Chị nên quay lại trường đi.”

“Chúng ta đang nói chuyện về quá khứ, ông bác sĩ ạ, chứ không bàn tới chuyện tương lai. Tập trung vào vấn đề thôi nào.”

Tôi vẩy nhẹ điếu thuốc. Andrea là quá khứ mà tôi muốn nhắc đến, nhưng ngay lúc đó bà Buchsbaum bước ra khỏi nhà để kiểm tra thùng thư và thấy chúng tôi. Bà đi thẳng đến cửa sổ đang mở rồi ghé mặt chào. “Danny, cháu về rồi hả? Bà hớn hở. “Học hành thế nào cháu?”

“Vẫn thế ạ, khó hơn chút thôi.” Tôi từng đến Columbia nghe giảng như sinh viên năm cuối.

“Thế hả... Ta rất vui khi được gặp cháu.” Bà gục gặc đầu với Maeve.

“Cháu chào bà Buchsbaum,” Maeve lịch sự đáp.

Bà Buchsbaum tóm lấy tay tôi. “Cháu phải tìm bạn trai cho chị gái đấy nhé. Chắc ở bệnh viện cũng có anh bác sĩ không có thời gian kiếm vợ chứ. Một anh chàng cao to, tốt bụng ấy.”

“Tiêu chuẩn của cháu cao lắm, không chỉ mỗi cao đâu ạ,” Maeve đáp lời.

“Đừng hiểu lầm ý ta: Ta vẫn thích gặp lại chị cháu trong khu phố, nhưng việc cô bé xuất hiện ở đây khiến ta lo lắng.” Bà Buchsbaum cứ nói với tôi như thể tôi và bà ngồi riêng với nhau trên xe. “Cô bé không nên ngồi một mình ngoài này. Người ta sẽ hiểu nhầm và có ấn tượng không tốt. Tất nhiên cô ấy luôn được chào đón ở nơi này, ta không hề có ý đuổi cô ấy.”

“Cháu hiểu mà,” tôi trấn an. “Điều đấy cũng làm cháu bất an. Cháu sẽ nói chuyện với chị ấy.”

“Và cái cô nhà bên kia đường.” Bà Buchsbaum hất đầu một cách mơ hồ về hàng cây đoạn. “Chẳng giao thiệp với ai cả. Cô ả lái xe ra đường, gặp ai cũng chẳng buồn vẫy tay lấy một cái. Ta nghĩ cô ả là người rất đỗi u sầu.”

“Hoặc không phải thế,” Maeve lầm bầm.

“Thỉnh thoảng ta nhìn thấy mấy đứa con gái. Cháu có thấy chúng không? Chúng biết cách cư xử hơn. Nếu cháu hỏi thì ta cũng nói luôn là ta thấy tội cho chúng.”

Tôi lắc đầu: “Cháu chưa thấy chúng bao giờ ạ.”

Bà Buchsbaum siết chặt tay tôi rồi vẫy chào Maeve. “Cháu luôn được chào đón ở nhà mình,” bà vỗ về. Chúng tôi nói cảm ơn và để bà ra về.

“Câu chuyện của bà Buchsbaum xác nhận quá khứ trong ký ức của chị,” Maeve nói khi chỉ còn lại hai chị em.

*

Sau khi Andrea và hai đứa con chuyển đến sống tại Ngôi nhà của Người Hà Lan, Maeve lại đến trường nên cha và tôi gần gũi nhau hơn. Việc chăm sóc tôi đã từng là trách nhiệm của chị và giờ khi chị không có ở nhà, trách nhiệm ấy chuyển sang cha, ông buộc phải quan tâm chuyện bài vở ở trường cũng như những trận bóng rổ của tôi. Không ai nghĩ Andrea sẽ thay thế Maeve chăm sóc tôi. Câu hỏi thực sự được đặt ra là tôi, mười một tuổi, đã đủ lớn để sống không cần người giám sát hay chưa. Sandy và Jocelyn vẫn làm nhiệm vụ của mình như mọi khi: nấu ăn cho tôi và nhắc nhở tôi đội mũ khi ra ngoài. Cả hai đều sở hữu ra đa nhạy bén với sự cô đơn của tôi. Tôi có thể làm bài tập ở trong phòng, rồi Sandy sẽ gõ cửa và gọi. “Cậu xuống dưới lầu học nhé,” cô nói rồi quay đi mà không cho tôi cơ hội trả lời. Tôi sẽ đi xuống với cuốn Đại số trong tay. Dưới bếp Jocelyn sẽ tắt chiếc đài nhỏ của cô và kéo ghế cho tôi.

“Mọi người suy nghĩ tốt đẹp hơn khi ăn.” Rồi cô cắt cho tôi lát bánh mì phía ngoài cùng và phết bơ. Tôi luôn thích ăn hết phần này của ổ bánh mì.

“Chúng tôi mới nhận được tấm bưu thiếp Maeve gửi,” Sandy nói, chỉ vào tấm thiệp in hình thư viện trường Barnard phủ đầy tuyết trắng được gắn vào tủ lạnh bằng nam châm. Việc tấm thiệp được trưng bày ở đó chứng tỏ Andrea chẳng bao giờ vào bếp. “Cô chủ dặn dò chúng tôi tiếp tục nấu ăn cho cậu.”

Jocelyn gục gặc đầu. “Chúng tôi đã định không nấu gì cho cậu sau khi cô ấy rời nhà, nhưng vì Maeve đã dặn vậy nên chúng tôi lại phải làm.”

Maeve viết cho tôi những bức thư dài kể về New York, các lớp học và bạn cùng phòng của chị, cô gái tên Leslie làm việc mỗi tối tại quán cà phê để kiếm thêm và ngủ thiếp đi trong bộ đồ bồi bàn khi cố gắng học bài trên giường. Maeve không kể về những khó khăn ở trường lớp hay chị nhớ nhà như thế nào dù chị luôn nói rất nhớ tôi. Giờ chị không có mặt để giúp tôi làm bài tập về nhà nữa, lần đầu tiên tôi tự hỏi ai đã giúp chị làm bài tập khi chị còn nhỏ. Fluffy ư? Tôi nghi ngờ điều đó. Tôi ngồi xuống chiếc bàn trong bếp và mở sách ra.

Sandy liếc qua vai tôi. “Để tôi xem nào. Tôi từng giỏi toán đấy.”

“Cháu nghĩ là cháu làm được,” tôi nói.

“Cậu chỉ mong được thoát khỏi chị gái mình,” Jocelyn nói, vỗ mạnh vào vai tôi để không làm tôi xấu hổ. “Thế rồi khi cô chủ đi, cậu lại nhớ cô ấy.”

Sandy cười rồi đập Jocelyn bằng giẻ lau bát.

Jocelyn chỉ nói đúng một nửa. Tôi chưa bao giờ muốn thoát khỏi Maeve. “Cô có chị em gái không?” Tôi hỏi Jocelyn.

Sandy và Jocelyn phá lên cười rồi đồng thời dừng lại. “Cậu đang đùa hả?” Jocelyn hỏi.

“Cháu đâu có đùa,” tôi nói, tự hỏi điều gì buồn cười đến vậy rồi ngưng bặt. Trong giây phút trước khi họ chỉ cho tôi, tôi chợt nhận ra điều đó: sự giống nhau của hai người phụ nữ quen thuộc với tôi trước khi tôi thực sự biết về họ.

Sandy nghiêng đầu. “Cậu nghiêm túc chứ cậu Darny? Cậu không biết hai bọn tôi là chị em sao?”

Trong khoảnh khắc đó, tôi có thể nói với họ rằng tôi thấy họ quý nhau như thế nào hay họ khác nhau ra sao nhưng điều đó chẳng còn quan trọng nữa. Tôi chưa bao giờ tự hỏi liệu họ có quan hệ huyết thống không hay họ về nhà với ai. Tất cả những gì tôi biết là họ chăm sóc chúng tôi. Tôi nhớ Sandy từng vắng mặt hai tuần khi chồng ốm, sau đó một vài ngày khi người chồng qua đời. “Cháu không biết.”

“Vì trông tôi đẹp hơn rất nhiều chứ gì,” Jocelyn đùa. Cô cố gắng tỏ ra hài hước để khiến tôi khỏi xấu hổ nhưng tôi không biết ai xinh hơn. Tôi chỉ biết họ ít tuổi hơn cha tôi nhưng nhiều tuổi hơn Andrea chứ không biết chính xác. Tôi biết phép lịch sự tối thiểu là không nên hỏi tuổi phụ nữ. Jocelyn cao hơn, gầy hơn với mái tóc nhuộm vàng trong khi Sandy có mái tóc màu nâu dày dặn luôn búi gọn lại bằng hai chiếc kẹp tóc, khuôn mặt có vẻ đẹp hơn. Má cô đỏ hây hây, cặp lông mày sắc, nếu đó được coi là tiêu chuẩn của cái đẹp. Tôi cũng không rõ nữa. Jocelyn đã có gia đình, còn Sandy thì giờ là một bà góa. Cả hai đều có con, tôi biết điều đó vì Maeve cho họ những bộ quần áo mà chúng tôi mặc chật. Tôi cũng biết vì khi con họ bệnh, họ sẽ không đến làm việc. Có bao giờ tôi hỏi họ khi họ trở lại làm việc là ai ốm, bé đã khỏe hơn chưa không? Tôi đã không làm vậy. Tôi rất quý họ, Sandy và Jocelyn. Tôi cảm thấy thật tệ khi nhận ra mình đã cư xử với họ thiếu sót thế nào.

Sandy lắc đầu. “Đúng là đàn ông,” cô nói, và chi bằng một từ đơn giản đó, tôi được miễn mọi trách nhiệm với sự vô tâm của mình.

Ở quầy lễ tân ký túc xá nơi Maeve đang sống có một chiếc điện thoại. Tôi đã thuộc lòng số của nó. Nếu tôi gọi cho chị, một cô gái nào đó sẽ bắt máy và chuyển máy lên tầng ba xem chị có đó không, thường là không vì Maeve hay cặm cụi học ở thư viện. Cả quá trình nhận ra rằng chị không có trong phòng, để lại lời nhắn cho chị mất ít nhất bảy phút, lâu hơn khoảng bốn phút so với suy nghĩ của cha tôi về thời gian của một cuộc điện thoại đường dài. Thế nên mặc dù tôi muốn gọi cho chị đến tuyệt vọng để hỏi xem chị có biết về vấn đề này không - và nếu biết thì cớ làm sao chị lại sơ ý quên không nói với tôi - tôi đã không làm vậy. Tôi đi thẳng vào phòng khách, đứng trước bức tranh vẽ chị, thầm rủa bản thân dưới cái nhìn đầy yêu thương lúc mười tuổi của chị. Tôi quyết định đợi đến thứ Bảy để hỏi cha. Mỗi ngày trôi qua, điểm tương đồng giữa Sandy và Jocelyn ngày một rõ nét: Tôi thấy điều đó vào mỗi buổi sáng khi họ đứng cạnh nhau trong bếp lúc tôi ra khỏi nhà để lên xe buýt của trường, tôi thấy điều đó qua cách họ cùng vẫy tay đều đặn như các vận động viên bơi lội, và tất nhiên sự tương đồng trong giọng nói của họ. Tôi không nhận ra ai đang gọi tôi khi tôi ở trên lầu. Sao tôi có thể bỏ qua những điều đó được chứ?

“Thế thì sao?” Cha tôi hỏi ngược lại khi cuối cùng tôi cũng hỏi được ông lúc chúng tôi đang thu tiền thuê nhà vào thứ Bảy.

“Nhưng cha biết mà.”

“Tất nhiên là ta biết. Ta thuê họ, nói đúng hơn là mẹ con đã thuê họ. Thuê người làm là việc của mẹ con. Đầu tiền là Sandy và sau vài tuần, Sandy nói rằng cô ấy có một người em gái đang cần việc làm, vì thế chúng ta đã thuê cả hai. Ta thấy con luôn đối xử rất tốt với họ thế nên chẳng có vấn đề gì cả.”

Vấn đề tôi muốn nhắc đến ở đây là tôi đã nhắm mắt làm ngơ trước mọi sự. Tôi không biết chuyện gì đang xảy ra ngay tại chính ngôi nhà của mình. Mẹ tôi thuê họ vì bà biết họ là chị em, điều đấy chứng tỏ bà là người tốt. Tôi thậm chí còn không nhận ra họ là chị em, điều đấy chứng tỏ tôi là một con ếch ngồi đáy giếng. Nhưng đó là do tôi đặt mình hiện tại vào bản thân trong quá khứ. Thời điểm đó, tôi không hiểu tại sao mình lại khó chịu về chuyện này đến vậy. Trong nhiều tuần, tôi cố lảng tránh Sandy và Jocelyn bất cứ khi nào có thể nhưng không thành. Cuối cùng, tôi buộc mình tin rằng tôi đã luôn biết họ là chị em nhưng vô tình quên mất.

Sandy và Jocelyn được quyền chủ động lo mọi việc trong nhà. Có thể thỉnh thoảng chúng tôi sẽ gợi ý cho họ rằng sẽ tuyệt biết bao nếu lại được thưởng thức món bò hầm với bánh bao, hoặc giờ mà được ăn bánh táo đỏ thì tuyệt biết mấy, nhưng rất hiếm khi điều đó xảy ra. Họ biết chúng tôi thích gì và sẽ làm mà không đợi chúng tôi phải yêu cầu. Chúng tôi không bao giờ hết bánh táo hay bánh quy giòn, tem thư luôn có sẵn trong ngăn trái của bàn đọc sách và khăn sạch trong phòng tắm. Sandy không chỉ ủi quần áo mà còn ủi cả ga giường và vỏ gối. Cả dãy chai insulin màu bạc sáng loáng luôn có sẵn trong tủ lạnh mỗi khi Maeve từ trường về. Họ luôn khử trùng ống tiêm trước khi có loại dùng một lần. Chúng tôi không cần nhắc nhớ việc giặt giũ hay lau sàn vì họ luôn làm trước khi chúng tôi có cơ hội nhận ra.

Tất cả đã thay đổi kể từ khi Andrea đặt chân vào ngôi nhà này. Dì ta lên thực đơn hằng tuần, bắt Jocelyn phải tuân theo và nhận xét mãi món xúp nhạt như thế nào; dì ta cho lũ trẻ ăn quá nhiều khoai tây nghiền. Sao chúng lại thích ăn nhiều khoai nghiền như vậy chứ? Sao Jocelyn lại phục vụ món cá tuyết trong khi Andrea đã dặn cô làm món cá bơn? Hay tại cô nghĩ mình sẽ không sao cả khi thử món khác? Andrea từng phải động tay đến mọi việc sao? Mỗi ngày dì ta lại bôi thêm việc ra cho Sandy như lau chùi ngăn đựng thức ăn trong tủ hay giặt rèm cửa. Tôi chẳng còn nghe thấy Sandy và Jocelyn nói chuyện với nhau ở tiền sảnh nữa. Sẽ chẳng còn được nghe tiếng huýt sáo thu hút sự chú ý của Jocelyn mỗi khi cô bước chân đến ngôi nhà. Họ không còn được phép hỏi với lên cầu thang mà phải đi lên cầu thang tìm chúng tôi như những người văn minh. Đó là những gì Andrea yêu cầu. Sandy và Jocelyn đã làm mọi thứ bớt lộ liễu, văn minh hơn, bằng cách làm những thứ đó ngoài tầm mắt của chúng tôi. Hoặc chỉ là do tôi thấy vậy. Tôi rúc trong phòng ngủ nhiều hơn từ khi Maeve rời khỏi nhà.

Ngôi nhà của Người Hà Lan có sáu phòng ngủ trên tầng hai: của cha, tôi, Maeve, một căn phòng đầy nắng với hai chiếc giường đơn cho Bright và Norma, một phòng ngủ cho những người khách chẳng bao giờ xuất hiện và phòng cuối cùng được thiết kế trở thành phòng làm việc trong nhà. Ngoài khu vực phòng ngủ còn có khu sảnh ngồi đầu cầu thang chẳng ai sử dụng cho đến khi Norma và Bright xuất hiện. Chúng có vẻ thích ngồi phía đầu cầu thang.

Một bữa tối nọ, Andrea thông báo kế hoạch tái cấu trúc của dì ta. “Em sẽ cho Norma chuyển sang phòng có bệ ngồi bên cửa sổ,” dì ta lên tiếng.

Tôi và cha chỉ có thể ngồi nhìn dì ta phát biểu dự định của mình, còn Sandy đang châm nước cho chúng tôi thì lùi lại một bước.

Chẳng điều gì lọt vào mắt Andrea. “Giờ Norma là con gái lớn trong gia đình. Phòng đó là phòng dành cho con gái lớn.”

Miệng Norma hé ra kinh ngạc. Có vẻ con bé chẳng hề biết trước điều này. Nếu con bé muốn chuyển sang phòng của Maeve thì là do nó muốn ở cùng chị ấy.

“Maeve vẫn về nhà mà,” cha nói. “Con bé mới chuyển đến New York thôi.”

“Khi con bé về thăm nhà, nó sẽ ở một căn phòng tuyệt đẹp trên tầng ba. Sandy sẽ sắp xếp, phải không Sandy?”

Nhưng Sandy không buồn đáp lại. Cô ôm chặt bình nước trước ngực như thể sợ mình không kìm được mà ném nó trong cơn tức giận.

“Anh nghĩ không nhất thiết phải làm việc đó ngay lúc này,” cha gạt đi. “Căn nhà này không thiếu gì phòng ngủ. Norma có thể sử dụng phòng ngủ dành cho khách nếu muốn.”

“Phòng khách là dành cho khách. Norma sẽ ngủ trong phòng ngủ có bệ ngồi cạnh cửa sổ. Đó là phòng ngủ đẹp nhất, có tầm nhìn rất đẹp. Sẽ thật ngu ngốc khi giữ rịt nó cho một người chẳng xuất hiện trong ngôi nhà này. Nói thật là em định biến nó thành phòng ngủ của chúng ta đấy nhưng tủ bên phòng đấy bé quá. Norma lại có những chiếc váy vừa vặn với nó. Tủ quần áo vừa vặn với con, phải không con yêu?”

Norma lặng lẽ gật đầu, vừa kinh hãi vì mẹ mình vừa bị mê hoặc bởi ý nghĩ được ngồi trên chiếc bệ bên cửa sổ với tấm rèm giúp cách biệt người ngồi với thế giới bên ngoài.

“Con cũng muốn ở phòng của chị Maeve,” Bright nài nỉ. Nó chưa quen với việc sống trong không gian rộng và bám dính lấy chị gái như tôi trước đây vậy.

“Mỗi người sẽ có một phòng riêng, Norma sẽ cho con đến chơi ở phòng chị ấy,” mẹ con bé kiên định nói. “Mọi người sẽ sớm quen thôi. Như dượng con vừa nói, nơi này đủ lớn để có đủ phòng ngủ cho tất cả mọi người.”

Với câu nói đó, vấn đề đã được khép lại. Tôi chẳng tham gia câu nào. Tôi nhìn cha, bây giờ ông đã là cha của Bright và Norma, hy vọng ông sẽ phản đối thêm lần nữa nhưng ông chẳng nói thêm lời nào cả. Andrea là một phụ nữ rất xinh đẹp. Ông có thể nhượng bộ dì ta bây giờ hoặc đợi một thời gian mới nhượng bộ dì ta, nhưng dù thế nào đi nữa, dì ta cũng sẽ đạt được mục đích của mình.

Tất cả những điều này xảy ra vào khoảng thời gian tôi yêu một trong những cô con gái nhà VanHoebeek, nói đúng hơn là yêu bức họa của nàng, người mà tôi gọi là Julia. Julia có bờ vai mảnh khảnh, mái tóc màu vàng túm gọn phía sau bằng dải ruy băng xanh lục. Bức chân dung của nàng được treo trong một căn phòng trên tầng ba của ngôi nhà, phía trên chiếc giường chưa ai dùng đến. Ngoại trừ Sandy là người lau dọn mọi thứ ở căn phòng này vào thứ Năm, không ai trong nhà ngoài tôi đặt chân lên đó. Tôi có niềm tin rằng Julia và tôi là những kẻ yêu nhau bị ngăn cách bởi thời gian. Tôi cứ để sự bất công bóp nghẹt trái tim mình cho đến một lần tôi phạm sai lầm khi gọi điện đến Barnard để hỏi chị tôi về bức tranh nàng thơ treo trên tầng ba, một trong những cô con gái của gia đình VanHoebeek với đôi mắt màu xanh xám.

“Con gái sao?” Maeve hỏi lại. Thật may mắn vì chị nghe cuộc gọi này. “Họ không có con gái. Chị nghĩ đấy là bức hình bà VanHoebeek thời còn trẻ. Thử đi xuống cầu thang và so sánh hai bức xem. Chị nghĩ hai người là một.”

Chị hoàn toàn có thể trêu chọc tôi đến độ tức chảy máu mắt nhưng chị đã không làm vậy. Chị luôn nói chuyện với tôi như người đồng trang lứa, đưa ra những câu trả lời trung thực cho bất kỳ câu hỏi nào của tôi. Qua giọng điệu, tôi biết chị không nói đùa, thậm chí chị còn đặc biệt để ý vấn đề của tôi. Tôi chạy ù lên tầng ba, đứng trên chiếc giường không ai dùng đến, nhấc khung ảnh mạ vàng chạm khắc tinh xảo chứa ảnh người con gái tôi yêu xuống khỏi tường (khung ảnh đẹp hơn những gì nàng muốn nhưng nàng xứng đáng với những thứ đẹp hơn thế). Julia của tôi không thể nào là bà VanHoebeek. Nhưng khi tôi mang nó xuống đặt cạnh lò sưởi, chỗ bức tranh dưới tầng, rõ ràng là Maeve đã đúng. Đó là những bức tranh vẽ một người phụ nữ ở hai thời điểm khác nhau của cuộc đời: bà VanHoebeek trong bộ váy đen kín đáo với hàng cúc kéo dài đến cổ và một Julia trẻ trung tươi mới như một làn gió mát lành. Kể cả khi họ không phải là một người, sự giống nhau rõ rệt trong đường nét cũng chỉ ra rằng một ngày nào đó cô gái sẽ biến thành mẹ mình. Jocelyn bước vào phòng, thấy tôi đang đứng tần ngần trước hai bức tranh, cô lắc đầu nhận xét: “Thời gian trôi nhanh như một cơn gió.”

Sandy và Jocelyn chuyển đồ của Maeve lên tầng ba. Ít nhất thì căn phòng cũng hướng ra vườn sau như căn phòng cũ của chị. Ít ra thì khung cảnh quan sát được từ căn phòng sẽ giống nhau ít nhiều, thậm chí còn đẹp hơn: ở trên đó, những tán cây như bớt cành thêm lá. Mặt khác, cửa sổ phòng này là cửa mái và tất nhiên không có bệ ngồi cạnh đó. Phòng mới của chị cũng nhỏ hơn và nằm dưới mái nhà nên trần sẽ tạo thành một góc nghiêng. Với chiều cao của Maeve thì chắc chị sẽ bị cộc đầu liên tục.

Công việc chán òm là biến phòng ngủ của Maeve thành phòng ngủ của Norma mất nhiều thời gian hơn dự tính, vì khi dọn hết đồ đạc của Maeve, Andrea muốn sơn sửa lại căn phòng: sơn xong, dì ta lại đổi ý và mang về một đống giấy dán tường. Dì ta mua ga trải giường mới, thảm mới. Trong vài tuần lễ liên tiếp, tất cả những gì chúng tôi được nghe là việc trang trí lại căn phòng, nhưng phải đến khi Maeve về nhà vào Lễ Tạ ơn, tôi mới nhận ra rằng không ai đủ can đảm để thông báo cho chị về việc phòng chị đã bị rời đi. Chắc chắn đó là phần việc của cha và không ai trong số chúng tôi biết rằng ông không hề làm việc đó. Maeve ở tiền sảnh, ôm ghì rồi lắc lắc người tôi, hôn Sandy và Jocelyn, hôn lũ trẻ con Andrea, rồi đột nhiên chúng tôi nhận ra chị chuẩn bị lên phòng và sẽ thấy ga trải giường mới với cả tá búp bê trên chiếc giường từng là của chị. Trong tình huống đó thì Andrea, người luôn chỉ huy mọi thứ, đã có một bài diễn thuyết ngắn gọn.

“Maeve, có một vài thay đổi kể từ khi con rời đi. Giờ phòng con ở trên tầng ba. Nó rất tuyệt.”

“Phòng áp mái ạ?” Maeve hỏi lại.

“Phòng tầng ba,” Andrea nhắc lại.

Cha xách va li lên cho chị. Ông không nói thêm gì về chuyện này nhưng ông sẵn sàng lên đó với chị. Vì cái đầu gối luôn hành hạ mỗi khi lên xuống cầu thang, ông không bao giờ lên tầng ba. Maeve vẫn mặc chiếc áo khoác đỏ và chưa kịp tháo găng tay. Chị cười và nói: “Giống như truyện Nàng công chúa nhỏ[1] ấy nhỉ! Cô bé mất hết tiền nên họ đưa cô lên gác mái và bắt cô lau chùi lò sưởi.” Rồi chị quay sang Norma: “Đừng nghĩ đến chuyện đó nhé, thưa cô. Tôi sẽ không lau chùi lò sưởi cho cô đâu.”

“Đó vẫn sẽ là phần việc của tôi,” Sandy nói. Đã nhiều tháng nay tôi không nghe thấy Sandy nói đùa, như thể việc Maeve phải chuyển lên tầng ba không có gì vui vẻ mà đùa cợt.

“Vậy thì đi thôi ạ,” Maeve nói với cha. “Đó là một hành trình dài đấy. Chúng ta sẽ phải xuất phát luôn nếu muốn kịp bữa tối. Có mùi gì đó thơm thơm.” Chị nhìn Bright. “Là em đúng không?”

Bright bật cười nhưng Norma chạy ra khỏi phòng, nước mắt giàn giụa, con bé đột nhiên hiểu được việc chiếm lấy phòng của Maeve là đối xử tệ với chị. Maeve nhìn theo con bé và tôi thấy vẻ mặt khó xử của chị khi không biết nên an ủi ai: Norma? Sandy? Hay là tôi? Cha đã cầm túi đồ của chị, sẵn sàng đi lên tầng. Sau một thoáng do dự, chị quyết định đi lên với ông. Hai người ở trên đó rất lâu và không có ai lên tầng ba để giục họ bữa tối đã sẵn sàng, chúng tôi đều ngồi đợi.

Chú thích:

[1] Tên trong nguyên tác là The Little Princess.