Chương 10
Tôi đã thực hiện thành công ca phẫu thuật đầu tiên. Những người khác cũng đã thành công với ca phẫu thuật của mình nhưng tôi chỉ tốn thời gian bằng nửa họ. Thế mới thấy chơi bóng rổ đã giúp tôi cải thiện kỹ năng và cơ thể thế nào. Tốc độ chính là cần câu cơm của các bệnh viện nên dù độ chính xác được đánh giá rất cao nhưng tốc độ mới là thứ để người khác để ý. Tôi theo học thêm chuyên ngành Phẫu thuật lồng ngực ngay trước khi tốt nghiệp. Cũng chính vì thế mà tôi phải học thêm ba năm nữa sau khi học nội trú. Tôi vừa dành hai giờ phụ mổ một ca phẫu thuật cắt thùy phổi dưới bên phải và anh bạn làm cùng cảm thấy ngưỡng mộ sự khéo léo trong các nút thắt chỉ của tôi. Chúng tôi ngồi trong một căn phòng nhỏ chỉ có giường tầng và một cái bàn, nơi nghỉ của nhân viên y tế dăm mười phút giữa các ca bệnh. Tôi vẫn cảm thấy thoang thoảng mùi máu quanh đây, thế là tôi lại đứng dậy rửa mặt ở bồn rửa nhỏ trong góc trong lúc những người vừa tham gia ca mổ bàn tán xôn xao về tài năng đáng đồng tiền bát gạo của tôi. Tôi chẳng có tâm trạng để nghe mấy lời đó nên sau khi lau mặt, tôi nói với anh ta là tôi không có ý định sử dụng nó.
“Vậy cậu làm gì ở đây?” Anh ta cười, nghĩ ngay được câu đáp trả phù hợp cho câu đùa của tôi.
Tôi lắc đầu. “Vòng xoay cuộc sống thôi. Đây không phải công việc phù hợp với tôi.” Giải thích đến mấy cũng là thừa. Cha mẹ anh ta có lẽ đến từ Bangladesh và mong rằng một ngày con họ sẽ trở thành bác sĩ phẫu thuật ở New York. Gia đình anh ta chắc chắn đang phải chịu gánh nặng tài chính khổng lồ và không cần nghe đến việc phải dùng hết tính thanh khoản của quỹ ủy thác giáo dục.
“Nghe này,” anh ta nói, kéo chiếc áo phẫu thuật ném vào thùng rác. “Bác sĩ phẫu thuật là vua của mọi nghề. Nếu cậu có thể trở thành một quân Già thì không cớ gì cậu lại tự biến mình thành quân Bồi[1] cả, tôi nói đúng chứ?”
Tôi có thể nhìn thấy từng mảng xương sườn của anh ta. “Tôi là quân Bồi,” tôi đáp.
Anh ta đã cười mặc dù tôi đùa dở tệ. “Có hai loại người bước ra khỏi nơi này: bác sĩ phẫu thuật và những người không đủ tư cách làm bác sĩ phẫu thuật. Không ai khác. Anh sẽ trở thành một bác sĩ phẫu thuật thôi.”
Tôi nói với anh ta rằng tôi sẽ nghĩ về điều đó chỉ để anh ta ngậm miệng. Hai mươi phút nghỉ ngơi của tôi còn lại mười bốn phút và tôi cần tranh thủ từng phút một. Tôi kiệt sức đến mức chẳng còn nhớ nổi điều gì. Tôi muốn nói với anh ta rằng tôi không muốn học nội trú hay thực tập gì sất. Học xong, tôi sẽ làm về bất động sản và rời khỏi đây mà không buồn ngoảnh lại.
Trừ khi tôi không thể trở thành người làm bất động sản. Tôi đã thử và thất bại rồi thử lần nữa và lại thất bại. Các tòa nhà được rao bán nhiều năm trời, sau đó được bán với giá chỉ bằng phần nhỏ giá trị của chúng. Tôi đã thấy những tòa nhà bị tịch biên chỉ có giá một ngàn hai trăm đô, ngay cả khi tường đã bị vẽ đầy, ngay cả khi các ô cửa sổ đều thủng lỗ chỗ vì bị chọi gạch, tôi nghĩ mình vẫn có thể cải tạo được. Không phải bất kỳ ai khác mà chính là tôi, người thiếu chút nữa là phải sống trong một tòa nhà như vậy. Tôi không có mong muốn vĩ đại sẽ trở thành vị cứu tinh cho những người đàn ông và phụ nữ đang xếp hàng dọc hành lang phòng cấp cứu, mong ngóng tôi từng phút. Tôi muốn sở hữu các tòa nhà. Nhưng sau đó sẽ là các khoản thuế, rồi đến sửa cửa ra vào, cửa sổ và cuối cùng là phí bảo hiểm. Tôi sẽ phải tìm cách đuổi bọn nghiện và lũ chuột đang chiếm đóng tòa nhà mà chưa thực sự biết làm cách nào.
Bất chấp mọi lời hứa với bản thân, tôi vẫn tham gia chương trình thực tập tại Ablert Einstein ở Bronx. Không chỉ không mất phí thực tập (“Được rồi,” Maeve nói. “Chị không biết điều đó.”), họ còn trả lương cho tôi. Vào lúc này, quỹ ủy thác chỉ có nghĩa vụ chi trả tiền thuê nhà cho tôi và trợ cấp cho tôi một số tiền nhỏ mà tôi quyết định gửi vào ngân hàng. Tôi không còn cuỗm tiền của Andrea theo bất kỳ cách nào, không còn như trước nữa. Tôi không còn tìm cách báo thù cho chị gái nữa. Trên thực tế, tôi đã hoàn thành khóa đào tạo chuyên ngành y khoa. Tôi sống chan hòa với đồng nghiệp, gây ấn tượng bằng năng lực của mình, giúp đỡ bệnh nhân và mỗi ngày đều củng cố thêm bài học mà tôi đã học được qua môn Hóa: bạn không nhất thiết phải thích nghề gì thì mới giỏi nghề đó. Tôi ở lại Ablert Einstein để học nội trú, và mặc dù thỉnh thoảng vẫn đến trường luật ở Columbia để học mót luật bất động sản, những chuyến đi đó ngày càng thưa dần. Tôi theo dõi thị trường bất động sản như cách những người đàn ông theo dõi các trận bóng chày: Ghi nhớ các số liệu thống kê và chẳng bao giờ thực sự chơi bóng.
Tiến sĩ Able vẫn để mắt đến tôi, hoặc có thể, như ông nói, chúng tôi trở thành bạn của nhau. Cứ ba hoặc bốn tháng ông lại mời tôi đi uống cà phê và để mắt đến tôi cho đến buổi hẹn kế tiếp. Trong những cuộc hẹn đó, ông sẽ kể về học trò của mình, còn tôi sẽ càm ràm về khối lượng công việc. Thầy trò tôi nói chuyện với nhau về bộ máy chính trị, hoặc liệu chúng tôi làm việc cho các công ty có tốt hơn làm khoa học không. Tôi không kể với ông chuyện bất động sản, cũng không hỏi xem dạy hóa có phải việc mà ông muốn làm không. Tôi đã không làm thế. Cô phục vụ mang cà phê ra cho chúng tôi.
“Hè này gia đình ta sẽ đến London,” ông kể. “Chúng ta đã thuê một căn hộ ở Knightbridge trọn hai tuần. Nell, con gái ta, đang làm việc ở đó. Trò nhớ Nell chứ?”
“Em vẫn nhớ Nell ạ.”
Tiến sĩ Able hiếm khi kể về gia đình mình, có thể vì hoàn cảnh của tôi hoặc vì mối quan hệ của chúng tôi chưa đến mức đấy, nhưng vào mùa xuân này, ông đã quá hạnh phúc nên sẵn sàng chia sẻ cả chuyện cá nhân. “Con bé đang làm nghề phục chế tác phẩm nghệ thuật. Nó sang Anh để tham gia một chương chình nghiên cứu sau tiến sĩ và xong thế nào lại kiếm được việc luôn. Ta không nghĩ con bé sẽ có ý định về nước sống nữa.”
Chẳng có ích gì khi nhắc đến việc tôi và Nell Able đã trao nhau nụ hôn thấm đẫm sâm panh vào đêm Giao thừa trong căn hộ nhà thầy nhiều năm trước. Cô nàng chui vào phòng ngủ của bố mẹ trong khi tôi đang bới đống áo khoác đen trên giường, tìm áo của Celeste. Căn phòng tối om tận cuối hành lang, cách xa tiếng nhạc và điệu cười khàn khàn. Nell Able. Chúng tôi lăn mình xuống đống áo khoác trong vài phút trước khi trấn tĩnh lại và đứng dậy.
“Ta và mẹ con bé chưa gặp lại nó lần nào kể từ khi nó đi,” cha Nell tiếp tục trải lòng. “Chúng ta luôn bắt con bé phải về thăm nhưng rồi cuối cùng Alice cũng nhận được phần thưởng từ chiến dịch xây dựng Tòa nhà khoa Khoa học về Chăm sóc Sức khỏe Cộng đồng. Bà ấy đã cố gắng năm năm trời để có được số tiền đó. Alice nói với họ rằng bà sẽ xin thôi việc nếu họ không cho bà ấy thời gian nghỉ ngơi.”
Alice Able, người vô cùng tử tế khi cho tôi ăn uống tại nhà mình trong suốt những năm qua, làm việc trong phòng Xây dựng và Phát triển của trường Y Columbia. Tôi tự hỏi liệu mình có biết gì về bà ngoại trừ công việc của bà hay không. Tôi cũng nghĩ liệu bác sĩ Able, trong suốt những năm qua, đã kể với tôi chuyện này chưa: công việc của vợ ông là gây quỹ cho chiến dịch xây dựng Tòa nhà khoa Khoa học Chăm sóc Sức khỏe Cộng đồng. Tôi không nhớ nỗi liệu Alice đã kể với tôi chuyện này chưa. Tôi thường giáp mặt bà đâu đó trong khuôn viên trường. Bà thường hỏi tôi về việc học hành. Tôi có hỏi lại bà cho phải phép không hay chỉ trả lời và mong bà hỏi tiếp?
“Con bé và cộng sự đang thực hiện chụp X-quang các bức tranh để tìm xem có bức tranh nào khác bên dưới không. Tìm những nét vẽ bên dưới tấm toan đã bị vẽ đè lên mà không cần phỏng đoán.”
“Ở đâu ạ?” Tôi hỏi. Tôi có thể cảm nhận được điều gì đang đến với mình trước khi thực sự hiểu nó - tương lai của tôi, ngay lúc này.
“Tate,” Tiến sĩ Able nói. “Nhóm của Nell ở Tate.”
Tôi nhấp một ngụm cà phê rồi đếm đến mười để bình tĩnh lại. “Họ sẽ xây Tòa nhà khoa Khoa học Chăm sóc Sức khỏe Cộng đồng ở đâu cơ ạ?”
Ông vẫy tay như thể nó nằm ở nơi nào đó ở mạn trên, phía bắc. “Ta cũng không rõ nữa. Cứ nghĩ rằng đó là đơn đặt hàng đầu tiên của doanh nghiệp nhưng cho đến khi họ nhận được đơn đặt hàng khổng lồ đó, họ lại chẳng cam kết gì cả. Ta nghĩ nó nằm đâu đó gần kho đạn được. Trò có biết gì về khu đó không? Nơi đó đúng là thảm họa.”
Tôi gật đầu, và khi nhân viên phục vụ mang hóa đơn đến, tôi nhận lấy. Tiến sĩ Able đã luôn tranh phần trả tiền kể từ ngày tôi biết ông và đây là lần đầu tiên tôi thắng trong cuộc chiến đó.
Khi bước ra ngoài, việc đầu tiên tôi làm là ghé qua hiệu sách Columbia để mua vài bản đồ khuôn viên Trung tâm Y tế của trường và khu Washington Heights trước khi quay lại Bronx. Những học sinh lướt qua tôi toàn là những cậu bé tầm mười bốn tuổi, đầu tóc bù xù và đi chân trần như thể đang ở trên bãi biển. Tôi ngồi trên bậc thềm của Thư viện Butler phía trước South Field và mở những thứ mình mua được. Theo Tiến sĩ Able, việc chuyển địa điểm sang kho đạn dược là điều không thể tránh khỏi, kể cả khi trường y chưa đưa ra thông báo nào. Kho đạn dược là nơi trú ẩn của một ngàn tám trăm người vô gia cư. Điều này chắc chắn sẽ khiến giá của những bãi đỗ xe xung quanh đó giảm xuống và tôi đủ khả năng tìm được những chỗ như vậy. Đến cuối tuần, tôi đã có hai hợp đồng với giai đoạn thẩm định là sáu tháng. Sau nhiều năm tăm tối, tôi đã nhìn thấy ánh sáng đời mình. Người bán là một người đàn ông từ lâu đã tin rằng mình chẳng còn cơ hội nào nữa. Anh đã sa thải người môi giới của mình rồi ăn mặc lịch thiệp - áo sơ mi và cà vạt - đến cuộc họp, với hy vọng sẽ tự lo liệu mọi việc. Anh đã chán đến nỗi sẽ chấp nhận mọi thỏa thuận mà tôi đưa ra. Tôi nói với anh rằng tôi là bác sĩ và rồi các bác sĩ chẳng có nơi nào an toàn để đậu xe. Tôi khiến anh bật cười khi đùa rằng đấy là lý do tại sao chẳng bác sĩ nào có ô tô. Anh thích tôi đến mức cảm thấy tiếc cho tôi khi tôi mua hai bãi đậu xe mà anh đã cố bán trong suốt ba năm trời. Anh nghĩ tôi đang tự mua dây buộc mình khi đòi hỏi hợp đồng ghi cụ thể điều khoản: người bán và người mua không có quyền thay đổi quyết định của mình. Chúng tôi đã ràng buộc với nhau thông qua hợp đồng này. Người bán cam kết sẽ bán lại hai bãi đậu xe với số tiền như thỏa thuận, người mua cam kết sẽ trả tiền đúng kỳ hạn trong vòng sáu tháng để nhận được hai bãi đậu xe theo đúng hợp đồng. Khi nhìn lại, những điều đó hoàn toàn hiển nhiên, nhưng có thể lúc đó tôi đã liều thử vận may của mình. Tôi mua lại hai bãi đỗ xe cạnh nơi trú ẩn khổng lồ dành cho hàng loạt người vô gia cư. Tôi đặt cược bằng những đồng tiền giả định sẽ kiếm được trong tương lai rằng tôi đang sở hữu một mảnh đất mà sắp có một tòa nhà mọc lên ở đó. Tôi tin rằng tòa nhà sẽ mọc lên trước khi tôi phải trả một khoản vay mà tôi không có khả năng chi trả.
Năm tháng sau, tôi bán hai bãi đậu xe cho Đại học Y. Với khoản tiền đáng kể thu được, tôi đã trả được hết nợ cho người bán, nhận một khoản vay từ Quỹ Phát triển Nhà ở và còn đặt cọc cho tòa nhà đầu tiên của tôi ở số 116 khu Phía Tây. Mười tám căn hộ của tòa nhà được thuê gần hết. Mặt tiền ở tầng trệt do một cửa tiệm giặt là và một quán đồ Trung Quốc gọi mang về thuê - cả hai đều kinh doanh rất khá. Theo tính toán, tòa nhà được định giá thấp hơn mười hai phần trăm so với mặt bằng chung. Tôi theo đuổi cơ hội vượt quá nguồn lực tài chính của mình. Tôi không phải là bác sĩ. Cuối cùng tôi cũng được là chính mình. Tôi định bỏ chương trình nội trú ngay khi tôi ký hợp đồng ký quỹ nhưng Maeve không đồng ý. “Em vẫn có thể lấy bằng tiến sĩ hóa học,” chị nói qua điện thoại. “Em thích môn Hóa mà.”
Tôi không hề thích môn Hóa, tôi chỉ muốn giỏi môn đó thôi. Chúng tôi đã nói chuyện này trước đây.
“Vậy thì hãy nghĩ về trường kinh tế. Điều đó sẽ có ích cho em ngay lúc này, hoặc trường luật. Không ai có thể cản nổi em nếu em có bằng luật.”
Câu trả lời là không. Tôi đã có sự nghiệp của riêng mình, hoặc ít nhất tôi đang khởi nghiệp. Đấy có thể nói là cuộc cách mạng đối với tôi.
“Bỏ học giờ cũng chẳng ích lợi gì. Thôi thì học nốt đi vậy,” Maeve kết luận.
Maeve đồng ý làm sổ sách và lo mã số thuế cho tôi trong chưa đầy sáu tháng cuối tôi ở lại trường Ablert Einstein. Tôi không hối hận. Sáu tháng cuối cùng đó là thời gian duy nhất trong khóa đào tạo y khoa mà tôi cảm thấy vui sướng vì biết rằng mình sắp thoát khỏi nó. Tôi mua hai căn nhà xây bằng đá nâu trong tình trạng bị tịch biên, một với giá một ngàn chín trăm đô và căn còn lại với giá hai ngàn ba trăm đô. Chúng là thảm họạ nhưng chúng là của tôi.
Ba tuần sau, tôi trở lại Nhà thờ Công giáo ở Jenkintown để dự tang lễ thầy Martin, huấn luyện viên bóng rổ thời trung học của tôi. Ung thư phổi không tế bào nhỏ ở tuổi năm mươi dù chưa một ngày hút thuốc. Thầy Martin đã đối xứ tốt với tôi trong những ngày tồi tệ sau khi cha tôi qua đời. Tôi nhớ đến vợ ông, bà đã ngồi trên khán đài trong tất cả các trận đấu của chúng tôi, người mẹ thứ hai của tất cả bọn tôi. Sau lễ tang, có một buổi chia buồn nhỏ ở dưới tầng hầm nhà thờ và khi tôi nhìn thấy một cô gái mặc váy đen với mái tóc vàng được búi gọn gàng, tôi bước đến và chạm nhẹ vào vai em. Ngay khi Celeste quay lại, tôi nhớ mọi điều khiến tôi thích ở em. Không phản kháng, không khoảng cách. Tôi cúi xuống hôn lên má em và em siết lấy tay tôi, cách mà em luôn làm khi chúng tôi hẹn nhau dưới tầng hầm sau đám tang. Celeste từng là bạn của con gái thầy Martin, một chi tiết mà tôi đã quên hoặc chưa bao giờ biết đến.
Tôi đã hiểu được rất nhiều điều về Celeste trong những năm em ra đi: em không cần phải nỗ lực làm phân tâm để lôi kéo sự chú ý của tôi. Tôi thậm chí còn không biết mình phải biết ơn vì điều đó cho đến khi hẹn hò những người phụ nữ khác, những người muốn đọc cho tôi nghe những bài báo vào buổi sáng khi tôi đang học, hoặc đọc cho tôi nghe tử vi của họ, hoặc tử vi của tôi, hay bày tỏ cảm xúc với tôi trong lúc khóc lóc vì tôi chẳng bao giờ bày tỏ cảm xúc của mình với họ. Celeste thì ngược lại, em sẽ ở đó đắm chìm trong cuốn tiểu thuyết Anh vĩ đại của mình. Em không cố tình làm vỡ đĩa để thu hút sự chú ý của tôi, em kiễng chân đi để thể hiện em chu đáo thế nào trong việc giữ im lặng. Em sẽ gọt một trái đào, bày nó ra đĩa hoặc làm cho tôi một miếng sandwich, để sẵn trên bàn như Sandy và Jocelyn thường làm. Celeste rất giỏi lo mọi việc cho tôi mà tôi không hề hay biết. Mãi khi em rời đi, tôi mới biết em ở lại những đêm Chủ nhật vì đó là ngày em giặt ga trải giường, quần áo, dọn dẹp để căn phòng trở nên gọn gàng, sạch sẽ.
Tình cảm của em và tôi quay về như lúc chia tay, thậm chí còn tốt hơn, vài tháng trước khi chia tay. Giờ em đang sống với cha mẹ tại Rydal. Em dạy môn tập đọc ở trường tiểu học công lập. Em nói rất nhớ thành phố. Một thời gian ngắn sau, em sẽ lại đón chuyến tàu vào tối thứ Sáu và về nhà vào Chủ nhật, theo cách mà tôi muốn em làm. Em soạn giáo án trong lúc tôi đi làm ở viện. Kể cả khi cha mẹ em có hoài nghi về vấn đề đạo đức của việc sống chung này, họ cũng không nói nửa lời. Celeste đã hoàn thành mọi thứ mà họ muốn và họ sẽ để em làm mọi thứ mà em muốn.
Trong nhiều năm quen nhau, từ ngày đầu tiên khi tôi ngồi trên tàu với cuốn sách hóa, tôi chưa bao giờ nói với Celeste bất cứ điều gì về dự định của mình. Em biết tôi mồ côi chứ không biết rõ mọi việc. Em không biết gì về Andrea, quỹ ủy thác, hay chuyện chúng tôi đã từng sống trong Ngôi nhà của Người Hà Lan. Em không biết rằng tôi đã mua hai bãi đậu xe và bán chúng để mua một tòa nhà, hay chuyện tôi sẽ không bao giờ hành nghề y. Tôi không định giấu em, chỉ là tôi không có thói quen chia sẻ về cuộc sống của mình. Chương trình nội trú đã gần hết, các bạn cùng lớp tôi đã hoàn tất việc phỏng vấn, nhận công việc và đặt cọc một chiếc xe. Celeste, luôn tự hào là mình không đặt quá nhiều câu hỏi, cũng phải băn khoăn tôi sẽ làm gì và liệu em có phải là người đồng hành cùng tôi không. Tôi thấy em đang kìm mình lại, không dám bày tỏ quan điểm sau những gì chúng tôi đã trải qua. Tôi biết em rất sợ những thứ không chắc chắn nhưng tôi vẫn làm tình với em, ăn những bữa tối em chuẩn bị và tránh nói chuyện với em càng lâu càng tốt vì điều đó dễ dàng hơn đối với tôi.
Cuối cùng, tôi nói với em mọi chuyện. Tôi không ném hòn đá xuống mặt hồ phẳng lặng. Lời giải thích này dẫn đến lời giải thích khác khiến chẳng mấy chốc chúng tôi đã quay ngược thời gian: mẹ tôi, cha tôi, chị tôi, ngôi nhà và Andrea cùng lũ trẻ, cuối cùng là quỹ ủy thác. Em tiếp nhận mọi thứ, và qua những câu chuyện quá khứ được hé lộ, em không biểu hiện điều gì ngoài sự đồng cảm với tôi. Celeste không thắc mắc sao trước giờ tôi không kể cho em biết mọi chuyện. Em coi chuyện tôi kể cho em chính là bằng chứng về tình yêu của tôi. Tôi đặt tay lên đùi em rồi để em kẹp tay tôi giữa hai chân, giữ chặt lấy tôi. Phần duy nhất khiến em không thể hiểu nổi lại là chi tiết kém thú vị nhất trong toàn bộ câu chuyện: Tôi sẽ không trở thành bác sĩ.
“Sao anh lại học tất cả các khóa đào tạo đó nếu anh không dùng đến nó chứ?” Chúng tôi đang ngồi trên một băng ghế nhìn ra sông Hudson. Cả hai đều mặc áo phông vào một ngày cuối tháng Tư. “Phí cả kiến thức, cả tiền của.”
“Vấn đề là vậy đó,” tôi nói.
“Anh không muốn học trường y. Không sao. Anh có lý riêng của anh. Nhưng giờ anh đã là bác sĩ rồi. Sao anh không thử chứ?”
Tôi lắc đầu. Có một chiếc tàu kéo ở không quá xa chúng tôi đang đẩy một chiếc sà lan khổng lồ và tâm trí của tôi đang vẩn vơ nghĩ đến nguyên lý hoạt động của chúng. “Anh sẽ không làm bác sĩ.”
“Anh thậm chí còn chưa được coi là bác sĩ. Anh không thể bỏ khi mà thậm chí còn chưa bắt đầu.”
Tôi vẫn đăm đăm nhìn dòng sông. “Nội trú là vậy. Có nghĩa là đang làm nghề y.”
“Vậy anh sẽ làm gì?”
Tất cả mọi tế bào trong tôi đều muốn hỏi lại em câu đó nhưng tôi không làm vậy. “Bất động sản và mở rộng nó. Anh đang sở hữu ba tòa nhà.”
“Anh là một bác sĩ và anh muốn trở thành người buôn bán bất động sản sao?”
Celeste không có quyền tham gia quyết định tương lai của tôi. “Hơn thế một chút.” Tôi có thể nghe thấy giọng mình có chút trịnh thượng. Em đang từ chối hiểu phần đơn giản nhất trong những gì tôi đang nói.
“Thật lãng phí,” em nói, mắt long lên vì tức giận. “Thực sự em không hiểu sao anh có thể sống với ý nghĩ đó. Anh đã bao giờ nghĩ đến việc mình đã cướp mất vị trí của ai đó trong khóa học chưa? Một người thật sự muốn trở thành bác sĩ ấy!”
“Tin anh đi, dù người đó là ai đi chăng nữa, anh ta cũng không muốn trở thành bác sĩ đâu. Anh đã cứu rỗi anh ta.”
Rốt cuộc, vấn đề không phải do tôi mà là nằm ở em. Em luôn ước ao có chồng là bác sĩ.
*Maeve và tôi từng chơi tennis thời trung học nhưng chị bỏ món này sau một cú sét đánh. Tôi có một cây vợt bằng nhôm, chị nói rằng chị không muốn thấy tôi bị điện giật trong lúc giao bóng nên chúng tôi lên xe và đến Ngôi nhà của Người Hà Lan, chỉ để kiểm tra mọi thứ trước khi trời tối. Mùa hè năm nay kết thúc sớm, đúng lúc tôi quay lại học năm thứ hai ở Choate. Cả hai chị em đều đau khổ về điều đó nhưng theo cách của riêng mình.
“Chị nhớ lần đầu mình nhìn thấy căn nhà này,” Maeve đột ngột nói. Bầu trời u ám lửng lơ phía trên như trực chờ để chia cắt chúng tôi.
“Không thể nào. Lúc đấy chị hãy còn bé tí.”
Chị hạ cửa sổ chiếc Volkswagen. “Lúc đó chị gần sáu tuổi. Sáu tuổi là có thể nhớ được mọi chuyện rồi. Chị kể cho em một câu chuyện khi em tầm tuổi đó, em cũng sẽ nhớ được điều gì đã xảy ra.”
Tất nhiên là chị đúng. Tôi nhớ rất rõ mọi chuyện kể từ khi Fluffy đánh tôi bằng chiếc thìa gỗ. “Thế lúc đó có chuyện gì vậy?”
“Cha mượn xe của ai đó rồi chở chúng ta đi từ Philadelphia. Chắc hôm đó là thứ Bảy, hoặc ông ấy đã nghỉ làm.” Maeve im lặng, nhìn qua những tán cây đoạn lá bạc, cố quay lại những ngày xa xưa. Vào mùa hè, không ai có thể nhìn thấy xuyên qua lớp lá um tùm. “Đi qua lối vào, căn nhà hiện lên theo cách không ai tưởng tượng được. Đó là từ dành cho nó. Chắc đấy là bản năng thứ hai của em vì em sinh ra ở đây. Chắc hẳn em đã lớn lên với suy nghĩ rằng mọi người đếu sống trong một ngôi nhà như thế này.”
Tôi lắc đầu. “Em nghĩ rằng tất cả những người học ở Choate đều sống trong một ngôi nhà như thế này.”
Maeve bật cười. Mặc dù chị ép tôi học trường nội trú, chị vẫn vui vẻ bất kể khi nào tôi phỉ báng chuyện đó. “Cha mua ngôi nhà và mẹ không biết cái quái gì về điều này.”
“Cái gì cơ?”
“Nghiêm túc đấy. Cha đã mua nó để tặng mẹ như một món quà bất ngờ.”
“Cha lấy đâu ra tiền?” Ngay cả tôi khi mới học cấp ba thì câu hỏi đầu tiên nảy ra trong đầu tôi vẫn là vậy.
Maeve lắc đầu. “Tất cả những gì chị và mẹ biết là cả nhà đang sống ở trong một căn cứ quân đội cho đến một ngày cha nói rằng cả nhà sẽ đi dạo trên xe của bạn ông. Đem theo bữa trưa! Mọi người đi thôi! Mọi thứ vốn dĩ đã khá điên rồ. Trước đây cả nhà chưa từng mượn xe của ai.”
Cả nhà bao gồm ba người. Lúc đó chưa có tôi.
Maeve duỗi dọc cánh tay rám nắng của chị trên ghế, vòng qua đầu tôi. Chị đã cho tôi một công việc tại Công ty Otterson trong thời gian nghỉ hè, đó là đếm các túi ngô và đóng chúng vào hộp. Cuối tuần, chúng tôi chơi tennis ở trường. Chúng tôi đem theo đôi vợt và lon bóng tennis trong xe. Thỉnh thoảng, chị đến vào buổi trưa để rủ tôi làm một ván vào giữa giờ làm việc nhưng chẳng ai nói, như thể chị làm chủ công ty vậy. “Cha rất vui trên đường tới đó. Ông cứ tấp vào lề để cho chị xem hết bò rồi đến cừu. Chị hỏi ông rằng chúng sẽ ngủ ở đâu vào ban đêm. Ông trả lời rằng chúng ngủ ở trong chuồng, những cái chuồng to lớn phía bên kia ngọn đồi và mỗi con bò đều có chuồng riêng. Mẹ nhìn cha và họ phá lên cười. Không khí rất vui vẻ.”
Tôi nghĩ về dặm đường như dài bất tận cha con tôi đã đồng hành trong nhiều năm. Ông không phải là kiểu người dừng xe lại để nhìn một con bò. “Khó hình dung thật đấy.”
“Như chị nói, chuyện đã lâu lắm rồi.”
“Rồi, sau đó mọi người đến đây.”
Chị gật đầu, lục tìm gì đó trong ví. “Cha đỗ sát cạnh tòa nhà rồi để cả ba người xuống xe há hốc mồm chiêm ngưỡng ngôi nhà. Mẹ hỏi cha có phải bảo tàng không, ông lắc đầu rồi mẹ hỏi ông đấy có phải thư viện không và chị bảo: ‘Đấy là một ngôi nhà.’”
“Trông có giống một ngôi nhà không?”
“Cũng khá giống. Sân vườn hơi gồ ghề, cỏ mọc um tùm, chị nhớ là vậy. Cha hỏi mẹ nghĩ thế nào về ngôi nhà và mẹ nói: ‘Rất đặc biệt, khá được.’ Ông nhìn mẹ, nở nụ cười rạng rỡ và nói: ‘Nhà của em đó. Anh mua tặng em.’”
“Thật ư?”
Không khí trong xe nặng nề và nóng nực, ngay cả khi cửa sổ được mở, chân chúng tôi cứ như bị dính chặt vào ghế.
“Không. Báo. Trước.”
Đấy được gọi là gì? Lãng mạn ư? Tôi là một cậu bé tuổi teen nên việc bất ngờ mua tặng vợ một căn biệt thự là ý tưởng lãng mạn nhất mà tôi có thể nghĩ ra, nhưng tôi cũng biết về chị mình và thừa hiểu rằng chị sẽ không kể cho tôi một câu chuyện tình lãng mạn. “Thế rồi sao?”
Maeve quẹt diêm châm điếu thuốc. Bật lửa không dùng được ở trong xe Volkswagen. “Mẹ không hiểu, nghĩ mà xem, hiểu sao được? Chiến tranh vừa mới kết thúc, gia đình ta còn đang sống trong căn cứ hải quân, căn nhà siêu nhỏ với hai phòng bé xíu. Việc ấy như thể cha đưa bà đến Taj Mahal và nói: Giờ chúng ta sẽ sống ở đây, chỉ có ba chúng ta. Khi ai đó nhìn vào mắt em và nói với em như vậy thì em cũng sẽ không hiểu nổi.”
“Chị vào trong chứ?”
“Chắc chắn là cả nhà đi vào trong rồi. Ông để sẵn chìa khóa trong túi. Ông thực sự sở hữu căn nhà. Cha nắm tay mẹ rồi cả nhà bước lên cầu thang ở phía trước. Em có thể tưởng tượng, đây là lối vào nhà,” chị xòe bàn tay ra để miêu tả cảnh lúc đó, “đường phố, cây cối, lối vào. Những thứ đó giúp che khuất tầm nhìn, nhưng sau khi em lên đến nhà và do mặt trước của nó được làm bằng kính nên mọi thứ như được phơi bày trước mặt em. Chị và mẹ chưa từng nhìn thấy ngôi nhà như vậy, cũng chưa bao giờ thấy bên trong của một ngôi nhà như vậy. Thật tội nghiệp mẹ!” Maeve lắc đầu. “Bà vô cùng sợ hãi như thể cha sắp đẩy bà vào một căn phòng toàn thú dữ. Mẹ liên tục nói: ‘Cyril, đây là nhà của người khác. Chúng ta không thể ở đây được.’”
Thì ra đấy là chuyện xảy ra đối với gia đình Conroy: một thế hệ bị đẩy vào trong nhà, còn thế hệ tiếp theo bị tống từ nhà ra đường. “Còn chị thì sao?”
Chị nghĩ lại. “Hồi đó chị là một đứa trẻ thôi mà, nên chị thích lắm. Chị đã bực với mẹ vì mẹ đã sợ phát khiếp lên, nhưng chị cũng hiểu đây là nhà của gia đình mình và mọi người sẽ sống ở đây. Những đứa trẻ năm tuổi chẳng hiểu gì về bất động sản cả, đối với chúng tất cả như trong câu chuyện cổ tích vậy, và trong truyện cổ tích thì công chúa sẽ sống trong lâu đài. Chị cảm thấy tệ thay cho cha, thật là vậy. Mọi sự cố gắng của ông đều đổ sông đổ biển. So với mẹ, chị cảm thấy tội nghiệp cho cha hơn.” Chị rít một hơi thuốc ngập buồng phổi rồi nhả nó lên bầu trời u ám, xám xịt. “Có chuyện này sẽ khiến em ngạc nhiên đấy. Em có nhớ tiền sảnh sẽ nóng như thế nào vào buổi chiều không? Ngay cả khi ngoài trời không nóng lắm.”
“Em nhớ chứ.”
“Từ trước đã vậy rồi. Ban đầu, cha mẹ và chị đi quanh ngôi nhà, không xa lắm vì mẹ không muốn tiến sâu vào bên trong. Chị nhớ con tàu trên chiếc đồng hồ của cha chỉ đứng yên trên sóng vì chẳng ai lên dây cót. Chị nhớ ngôi nhà được lát đá cẩm thạch và chiếc đèn chùm. Cha đang cố gắng trở thành hướng dẫn viên cho chuyến đi này: ‘Hãy nhìn tấm gương xem! Nhìn cầu thang kìa!’ như thể mẹ không nhìn thấy cầu thang vậy. Cha đã mua ngôi nhà đẹp nhất ở Pennsylvania và vợ ông đang nhìn ông như thể ông cầm súng bắn bà. Cả nhà đi qua từng phòng một. Em có tưởng tượng được không? Mẹ liên tục nói: ‘Những người này là ai? Sao họ để lại mọi thứ như vậy?’ Cha mẹ và chị xuống hành lang và thấy cả lũ chim bằng sứ đang nằm trên kệ. Ôi! Chị mê chúng kinh khủng. Chị chỉ muốn bỏ một con vào túi. Cha kể, ngôi nhà do gia đình VanHoebeek xây vào đầu những năm 1920 và bọn họ đã qua đời. Sau đó, cả nhà đi vào phòng vẽ và thấy họ ở đó, ông bà VanHoebeek khổng lồ đang nhìn chằm chằm ba người như thể cả nhà là ăn trộm.”
“Họ mất cả rồi,” tôi nói thay mặt cha tôi. “Anh mua nhà này qua ngân hàng và chúng ta có thể giữ toàn bộ đồ đạc của họ.” Liệu mọi thứ còn ở đó hết chứ? Còn quần áo trong tủ không? Tôi thậm chí còn không biết về mẹ nhưng tôi thấy thương thay cho bà khi nghĩ theo cách đó.
“Phải một lúc sau cha mới lên được tầng. Bọn chị ghé qua tất cả các phòng ngủ. Mọi thứ đều ở đó: giường của họ, gối của họ và khăn tắm của họ trong phòng tắm. Chị nhớ chiếc lược bằng bạc trên bàn trang điểm trong phòng ngủ chính vẫn còn dính cả tóc. Khi đến phòng ngủ của chị, cha nói: ‘Maeve, cha nghĩ là con sẽ thích ở đây.’ Đứa trẻ nào mà không thích căn phòng đó chứ? Em nhớ cái đêm mà chúng ta chỉ cho Norma và Bright xem không?”
“Tất nhiên là em nhớ.”
“Chà, chị nói cho em nghe, hồi đó chị chính xác là vậy đấy. Chị đi thẳng đến chỗ bệ ngồi bên cửa sổ và cha kéo kín rèm lại cho chị. Tuyệt vời! Chị như kẻ mất trí, mẹ cũng vậy vì bà nghĩ mọi chuyện sẽ được quyết định và chị sẽ tan nát khi không có phòng công chúa của riêng mình. Mẹ nói: ‘Maeve, ra khỏi đó thôi con. Căn phòng không phải của con đâu.’ Nhưng nó là của chị. Chị biết nó sẽ là của chị.”
“Lúc đó chị đã biết sao?” Tôi chưa bao giờ cảm thấy như vậy với những gì mình sắp được nhận. Tôi chỉ hiểu khi đứng trước những gì sắp mất.
Chị nở nụ cười mệt mỏi, đưa tay vuốt ve đầu tôi. Tóc tôi ngắn ngang gáy. Đấy là nội quy ở trường Choate, thậm chí vào giữa những năm 60. “Chị chỉ hiểu một phần thôi, nói thật là chị không thực sự hiểu toàn bộ sự việc cho đến khi Norma, Bright đến và một lần nữa tái hiện lại tuổi thơ của chị. Chị nghĩ đấy là lý do tại sao chị cảm thấy thương chúng, vì theo một cách nào đó, chị cảm thấy thương chính mình.”
“Đêm đó là vậy. Chị đã cảm thấy thương chính mình.”
Maeve để chuyện đó qua đi vì đó là chuyện của chị chứ không phải của tôi. “Sau thất bại ở phòng ngủ, bọn chị đi lên tầng ba. Cha muốn cho cả nhà xem mọi thứ. Ông biết chuyến tham quan đang càng lúc càng trở nên tệ nhưng ông không thể dừng lại được. Tầng ba thực sự quá sức đối với ông. Lúc đó, cha đeo một cái nẹp ở đầu gối nhưng nó không giúp ích cho lắm nên ông phải lê bước lên tầng. Cầu thang là địa ngục đối với ông. Ông chỉ có thể leo lên một tầng. Ông đã không lên tầng ba khi tậu nơi này và khi nhà ta lên đó thì hóa ra một phần trần của phòng khiêu vũ đã rơi xuống. Trông căn phòng như thể vừa bị đánh bom vậy, những khối thạch cao lớn vỡ vụn, vung vãi khắp sàn. Bọn gấu mèo đã ăn đường dẫn chúng vào nhà, con đường được tạo nên bởi bọ chét. Chúng xé toạc đệm trong phòng ngủ nhỏ để làm tổ, xé gối và ga trải giường khiến lông lá bay khắp nơi. Còn mùi thì thật kinh khủng, mùi hoang dã, như thể một con thú hoang, phân của nó cùng anh em đã chết của nó kết hợp lại.” Chị làm vẻ mặt kinh hoàng khi nhớ lại lúc đó. “Nếu cha muốn tạo ấn tượng ban đầu hoàn hảo, ông không nên đưa chị và mẹ lên tầng ba.”
Tôi vẫn coi ngôi nhà là nhân vật chính của câu chuyện, là vùng đất thân thương đã mất của chúng tôi. Hộp thư ngoài cửa giờ đã bị che khuất bởi hàng cây hoàng dương nhỏ nhắn được chăm sóc cẩn thận. Tôi muốn ra khỏi xe, băng qua đường và lướt tay qua nó như cách tôi thường làm mỗi khi Sandy bảo tôi ra lấy thư, như thể nó vẫn là nhà của tôi. “Làm ơn hãy nói với em rằng cha mẹ và chị đã rời đi ngay lúc đó.”
“Ôi, không, em ơi, mọi chuyện chỉ mới bắt đầu thôi.” Chị quay lưng vào nhà, mặt đối mặt với tôi. Chị mặc chiếc áo phông mà tôi mang từ Choate về nhà và chiếc quần đùi cũ. Chị khoanh chân trên ghế, đôi chân dài rám nắng. “Cái chân như giết chết cha nhưng ông vẫn bước ra xe hơi, lấy bữa trưa đã chuẩn bị sẵn rồi lấy đĩa từ bếp, lấy nước từ vòi và chuẩn bị phòng ăn trong khi mẹ thì ngồi run rẩy trên chiếc ghế Pháp xấu tệ ở tiền sảnh. Cha đặt sandwich lên đĩa, gọi mẹ và chị vào. Tới phòng ăn! Ý chị là chỉ cần nhìn biểu hiện của mẹ, ông sẽ để cả nhà ăn trong bếp hoặc trong xe hay một nơi nào đó không có trần nhà xanh và vàng. Đây không phải là thời điểm tốt nhất để dùng phòng ăn. Cha dẫn mẹ đến bàn như thể bà bị mù. Bà cứ cầm miếng bánh lên rồi đặt xuống trong khi cha không ngừng nói về diện tích cũng như thời điểm dựng lên căn nhà và cách mà nhà VanHoebeek kiếm tiền bằng thuốc lá trong cuộc chiến vừa qua.” Chị rít hơi cuối cùng và cắm mẩu đầu lọc vào gạt tàn trong xe. “Cảm ơn nhé, ông bà VanHoebeek.”
Một tiếng sấm vang lên, cơn mưa ập tới, mưa nặng hạt lau sạch lớp kính chắn gió. Chẳng ai buồn kéo cửa sổ lên. “Nhưng nhà mình đã không ngủ lại đó.” Tôi nói như thể mình biết đó là sự thật vì tôi không thể chịu nổi nếu sự thật không phải vậy.
Chị lắc đầu. Mưa rơi lộp bộp xuống mui xe khiến chị phải nói to hơn một chút. Lưng chúng tôi ướt sũng. “Không. Cha đưa hai mẹ con đi vòng quanh bên ngoài một chút nhưng sân vườn là một mớ hỗn độn. Hồ bơi thì đầy lá. Chị muốn cởi giày và tất để khùa chân xuống nước nhưng mẹ không cho. Chị nghĩ mẹ nắm tay chị vì sợ chị bỏ chạy nhưng bà giữ chặt lấy chị còn vì, em biết đấy, bà cần ai đó để bấu víu. Rồi cha vỗ tay và nói nên về nhà thôi. Ông đã mượn xe của nhân viên ngân hàng trong ngày, và giờ phải trả nó. Em tưởng tượng được không? Ông mua căn nhà này nhưng không có nổi một chiếc xe hơi? Mọi người quay vào trong nhà để ông thu dọn đống bánh sandwich, gói chúng lại rồi bỏ vào túi. Không ai thực sự ăn gì nên chỗ bánh đó sẽ được để dành cho bữa tối. Ông sẽ không để lãng phí thức ăn. Mẹ bắt đầu thu dọn đĩa, và... chị nhớ nhất điều này, cha chạm vào cổ tay mẹ, nói: ‘Cứ để đấy. Cô ấy sẽ dọn chúng.’”
“Không.”
“Và mẹ nói: ‘Cô nào cơ?’ Mọi việc trở nên quá sức chịu đựng khi mẹ nhận ra mình có người hầu.”
“Fluffy.”
“Đúng vậy,” Maeve nói. “Cha chúng ta là người đàn ông không thực sự hiểu vợ mình.”
Chú thích:
[1] Quân Già (quân K), quân Bồi (quân J) trong bộ bài tây.