← Quay lại trang sách

Chương 11

Sandy gọi điện cho tôi báo rằng Maeve đang ở trong bệnh viện. “Cô ấy định nhập viện và xuất viện mà không cho cậu biết, nhưng điều đó thật nực cười. Bác sĩ nói rằng họ sẽ phải giữ cô ấy lại hai đêm.”

Khi hỏi Sandy chị ấy bị làm sao, tôi có thể nghe thấy kiểu giọng bác sĩ của mình, giọng nói được học để xoa dịu mọi lo lắng: Hãy cho tôi biết chuyện gì đang xảy ra. Nhưng những gì tôi muốn làm là chạy ngay ra khỏi cửa, chạy đến tận ga Penn.

“Trên cánh tay cô ấy có vệt đỏ rất kinh khủng. Khi tôi thấy nó, tôi đã hỏi và cô ấy bảo tôi là hãy lo việc của mình trước đi, nên tôi đã gọi cho Jocelyn và Jocelyn đã giải quyết mọi thứ. Con bé đến ngay và đưa Maeve đến bác sĩ. Con bé nói nếu Maeve không lên xe, nó sẽ gọi cấp cứu. Jocelyn thường là đứa giỏi dọa hơn tôi. Con bé có thể bắt chị gái cậu làm những điều mà tôi chẳng bao giờ làm được. Tôi thậm chí còn chẳng thể bắt Maeve chải tóc cho gọn gàng.”

“Bác sĩ nói sao ạ?”

“Nguyên văn lời ông ấy là phải nhập viện ngay lập tức. Thậm chí ông ấy còn không cho cô ấy về nhà để sửa soạn đồ đạc. Đấy là lý do tại sao cô ấy phải gọi cho tôi, để tôi lấy đồ cho. Cô ấy bắt tôi thề rằng sẽ không nói gì với cậu, nhưng tôi chẳng quan tâm. Cô ấy nghĩ tôi sẽ không nói với cậu rằng cô ấy đang nằm viện sao?”

“Chị ấy có nói đã bị thế bao lâu rồi không?”

Sandy thở dài. “Cô ấy nói cô ấy thường mặc áo dài tay nên cũng chẳng để ý.”

Hôm đó là giữa tuần nên Celeste đang ở nhà bố mẹ tại Rydal. Tôi gọi cho cô ấy từ bốt điện thoại công cộng khi đến ga Penn và nói giờ tàu đến. Celeste đón tôi ở Philadelphia và chở tôi đến bệnh viện, thả tôi ở bùng binh rẽ vào trước cổng. Celeste phát cáu với Maeve vì đã không thúc tôi làm ngành y, như thể tôi sẽ làm bác sĩ nếu Maeve bắt vậy. Em luôn nghĩ chính Maeve khiến tôi chia tay em nhiều năm trước và phá hỏng buổi lễ tốt nghiệp của em. Celeste đã đổ lỗi cho Maeve vì những điều em sợ phải đổ lỗi cho tôi. Về phần mình, Maeve chưa bao giờ tha thứ cho Celeste vì đã nài ép tôi cưới em lúc học năm đầu trường y. Maeve cũng tin rằng Celeste cố tình xuất hiện trong đám tang của thầy Martin vì biết rõ tôi sẽ ở đó. Tôi chẳng đồng ý với chị, nhưng điều đó chẳng quan trọng. Điều quan trọng là Celeste không muốn gặp Maeve, Maeve cũng không muốn nhìn thấy Celeste, còn tôi thì chỉ muốn xuống xe và gặp chị gái mình.

“Gọi em nếu anh cần em đưa về nhà,” Celeste nói và hôn tạm biệt tôi trước khi lái xe rời đi.

Đó là ngày 21 tháng 6, ngày dài nhất trong năm. Tám giờ tối, mặt trời vẫn chiếu xuyên qua các cửa sổ mạn phía tây của bệnh viện. Người phụ nữ làm việc ở quầy hướng dẫn cho tôi biết số phòng của Maeve và bảo tôi hãy cố tìm. Thực tế là tôi vừa trải qua bảy năm ở nhiều bệnh viện khác nhau tại New York nhưng không tài nào tìm được phòng của chị mình trong một bệnh viện ở Pennsylvania. Các phòng sắp xếp không theo một trật tự nào cả - chúng phát triển như căn bệnh ung thư với những khối u di căn lung tung khắp hướng. Tôi đã mất khá nhiều thời gian để tìm đến tầng của khoa Nội và tìm chị gái mình trong vùng biển vô định đó. Cửa phòng chị he hé, tôi gõ cửa hai lần trước khi bước vào. Chị nằm ở một phòng đôi được ngăn cách nhau bởi tấm rèm.

Tấm rèm hiện không kéo, để lộ chiếc giường bên cạnh đã được kê xếp gọn gàng đợi người bệnh tiếp theo. Một người đàn ông tóc hoa râm trong bộ vét ngồi trên chiếc ghế cạnh giường Maeve.

“Ôi Chúa ơi!” Maeve la lên khi thấy tôi. “Cô ấy đã thề trên đầu em gái mình là sẽ không gọi cho em.”

“Cô ấy nói dối chứ sao nữa,” tôi nói.

Người đàn ông mặc vét đứng dậy. Tôi chỉ mất một giây để nhận ra ông.

“Chào Danny.” Ngài Otterson chìa tay ra.

Tôi bắt tay ông và cúi xuống hôn lên trán Maeve. Mặt chị ươn ướt và ửng đỏ. Da chị nóng hầm hập. “Chị khỏe mà,” chị trấn an. “Chị không thể khỏe hơn được ấy.”

“Bác sĩ đang truyền kháng sinh cho cô ấy.” Ngài Otterson chỉ vào chiếc cột bạc đang treo túi chất lỏng như thể chẳng bao giờ vơi, rồi nhìn Maeve. “Cô ấy cần được nghỉ ngơi.”

“Em đang nghỉ ngơi mà. Nghỉ thế này chứ đến thế nào nữa?”

Trông chị rất lúng túng khi ở trên giường bệnh, như thể chị đang thử đóng vai bệnh nhân trong một vở kịch nhưng dưới tấm chăn lại vận quần áo, giày dép của mình.

“Vậy tôi về trước,” ngài Otterson nói.

Tôi đã nghĩ rằng Maeve sẽ cố ngăn ông ấy lại nhưng chị đã không làm vậy. “Tôi sẽ đi làm lại vào thứ Sáu.”

“Thứ Hai. Cô nghĩ công ty không lo nổi một tuần vắng cô sao?”

“Ông thì không,” chị nói và ông đáp lại bằng một nụ cười vô cùng dịu dàng.

Ngài Otterson vỗ nhẹ vào cánh tay lành của chị rồi gật đầu chào tôi và rời đi. Chúng tôi đã gặp nhau nhiều lần trong những năm qua và tôi từng làm việc trong nhà máy của ông vào mùa hè khi tôi từ Choate về nhà, nhưng tôi không hiểu gì về ông ngoại trừ việc ông là người nhút nhát. Tôi không bao giờ hiểu được làm cách nào mà một người đàn ông như vậy lại phát triển được công việc kinh doanh tốt đến thế. Các loại rau củ đông lạnh của Công ty Otterson hiện đang được vận chuyển đến mọi bang miền Đông Missisippi. Maeve nói với tôi điều đó với niềm tự hào không hề nhỏ.

“Nếu em gọi trước cho chị, chị đã bảo em đừng đến,” chị càm ràm.

“Và nếu chị gọi trước cho em, em đã có thể nói cho chị mấy giờ em có mặt ở đây.” Tôi đưa tay với lấy hồ sơ bệnh án treo ở cuối giường. Huyết áp của chị là 90/60. Họ cho chị uống kháng sinh Cefazolin sáu tiếng một lần. “Chị có thể nói em nghe chuyện gì đang xảy ra không?”

“Nếu em không theo ngành y thì chị nghĩ là em sẽ không tiếp nhận nổi chuyện này.”

Tôi đi vòng sang bên kia giường và cầm tay đang được truyền dịch của chị lên. Một vết đỏ bầm, dấu hiệu của viêm mô tế bào do một vết cắt nhỏ nơi đầu bàn tay nhiễm dần lên cánh tay và chưa dừng lại ở vùng nách. Ai đó đã đánh dấu bằng bút dạ đen để theo dõi quá trình nhiễm trùng. Cánh tay chị nóng hầm hập và sưng tấy. “Tình trạng này bắt đầu từ khi nào?”

“Chị có chuyện muốn nói với em nếu em bỏ cánh tay chết giẫm của chị xuống. Chị định tới cuối tuần mới nói nhưng giờ em ở đây rồi.”

Tôi hỏi chị lần nữa rằng triệu chứng bắt đầu xuất hiện khi nào. Có lẽ trường y đã dạy tôi vài điều bổ ích. Ít nhất là nó đã dạy tôi cách kiên trì với câu hỏi mà không ai muốn trả lời. “Sao chị lại bị thương ở tay thế kia?”

“Chị không biết nữa.”

Tôi đặt ngón tay lên cổ tay chị.

“Tránh xa mạch của chị ra,” chị quát.

“Có ai giải thích tình trạng này cho chị nghe không? Chị bị nhiễm trùng máu dẫn đến bị nhiễm khuẩn, rồi các cơ quan trong cơ thể ngừng hoạt động.” Maeve làm việc ở các nơi từ thiện cho người nghèo. Công việc của chị là chuẩn bị quần áo và thức ăn cho họ vào cuối tuần. Chị luôn bị những vết cắt, thỉnh thoảng là ghim hoặc đinh cào vào tay. Trên người chị rặt những vết bầm tím bởi phải mang những chiếc thùng nặng nề chất lên những chiếc xe để lên đường vận chuyển.

“Em có thể thôi nghĩ tiêu cực được không? Chị đang nằm trên giường bệnh đây còn gì. Họ đang truyền kháng sinh cho chị. Chị không biết còn cần làm thêm gì nữa.”

“Chị phải đến bác sĩ trước khi tình trạng nhiễm trùng lan từ cánh tay rồi chạy đến tim chứ. Cứ như thể ai đó cầm màu vẽ lên tay chị ấy. Chị không nhận ra sao?”

“Em có muốn nghe tin của chị hay không đây?”

Tôi không thể giận nổi chị. Chị bị sốt. Chị có thể bị đau, dù cho tôi là người cuối cùng trên trái đất này chị muốn thừa nhận điều đó. Tôi tự nhủ mình sẽ phải dừng ngay việc này lại nếu không chị sẽ không bao giờ kể cho tôi bất cứ chuyện gì. Tôi quay lại phía bên kia giường và ngồi vào chiếc ghế vẫn còn hơi ấm của ngài Otterson. Tôi mở lời: “Em xin lỗi. Chị đang ốm mà.”

Chị nhìn tôi một lúc, đánh giá sự chân thành của tôi, “Cảm ơn em.”

Tôi khoanh tay lại, cố để không túm lấy áo chị. “Kể cho em tin chị biết đi.”

“Chị đã gặp Fluffy,” chị kể.

Lúc đó, ở trong bệnh viện, tôi hai mươi chín tuổi, còn Maeve đã ba mươi sáu. Lần cuối chúng tôi thấy Fluffy là từ hồi tôi bốn tuổi. “Ở đâu?”

“Em nghĩ rằng sẽ gặp ở đâu?”

“Chị đùa em à...”

“Sẽ tốt hơn nếu chị có thể kể điều này với em ở trên xe. Chị đã lên kế hoạch cho việc đó.”

Chúng tôi thường có những cuộc nói chuyện quan trọng ở trong xe, nhưng với tình huống hiện tại, chúng tôi sẽ phải làm việc đó trong phòng bệnh - nơi có sàn gạch xanh, trần cách âm kém, và thỉnh thoảng tiếng gọi mã bác sĩ trực lại réo qua loa. “Khi nào?”

“Chủ nhật.” Chị khẽ nâng đầu giường lên một chút và quay đầu về phía tôi. “Chị vừa ra khỏi nhà thờ và nghĩ rằng trên đường về, mình sẽ tạt qua Ngôi nhà của Người Hà Lan giây lát.”

“Chị sống cách nhà thờ hai dãy nhà ấy.”

“Đừng ngắt lời chị. Chưa đến năm phút sau, một chiếc ô tô lao đến phía sau chị, một phụ nữ bước ra rồi băng qua đường. Đó là Fluffy.”

“Bằng cách thánh thần nào mà chị biết đó là Fluffy?”

“Chỉ là chị biết thôi. Giờ cô ấy đã ngoài năm mươi, mái tóc bồng bềnh đã được cắt ngắn. Thế mà nó vẫn còn đỏ lắm nhé. Chắc là cô ấy nhuộm. Mái tóc vẫn xù lên như trước. Chị nhớ rất rõ điều đó.”

Tôi cũng vậy. “Chị ra khỏi xe...”

“Chị quan sát trước. Cô ấy đứng ở cuối lối đi và chị thấy rõ là cô ấy đang suy nghĩ, kiểu như không biết có nên tiến đến và gõ cửa không. Cô ấy lớn lên ở đó, em biết đấy, cũng như chúng ta.”

“Không giống chúng ta.”

Maeve gục đầu xuống gối. “Chị băng qua đường. Chị chưa đặt chân sang phía đó kể từ ngày chúng ta rời đi và điều đó khiến chị cảm thấy nôn nao, nếu em muốn biết. Chị cứ nghĩ rằng Andrea sẽ chạy ra với chiếc chảo trên tay.”

“Rồi chị nói gì?”

“Chỉ gọi tên cô ấy. Chị gọi Fiona và cô ấy quay lại. Ôi Danny, giá mà em có thể thấy mặt cô ấy.”

“Cô ấy nhận ra chị sao?”

Maeve gật đầu, ánh mắt có vẻ xúc động. “Cô ấy nói rằng trông chị giống mẹ khi còn trẻ. Cô ấy nói cô ấy sẽ nhận ra chị ở bất cứ đâu.”

Một y tá đội mũ trắng bước vào và khi thấy chúng tôi ở đó, cô ấy khựng lại. Tôi đang ngả đầu lên vai Maeve.

“Giờ không tiện sao?” Cô y tá hỏi.

“Không tiện chút nào,” Maeve đáp. Cô y tá nói gì đó nhưng chúng tôi chẳng bận tâm. Cô đóng cửa lại và Maeve lại tiếp tục câu chuyện: “Fluffy nói rằng cô mới ghé qua và tự hỏi không biết chúng ta còn sống ở đó không.”

“Chị đã nói: Không, tôi chỉ theo dõi nơi này.”

“Chị nói rằng chúng ta đã rời đi vào năm 1963, sau khi cha qua đời. Chị không nên nói vậy với cô ấy, nhưng lúc đó chị chẳng nghĩ gì cả. Ngay khi chị vừa thốt ra câu đó, Fluffy tội nghiệp đỏ bừng mặt, mắt ầng ậng nước. Chị nghĩ cô ấy hy vọng sẽ tìm được cha ở đó. Chị nghĩ cô ấy đến để gặp cha.”

“Rồi sao?”

“Chà, cô ấy khóc và chị thì không muốn đứng ở lề đường nên chị đã bảo cô ấy đến và ngồi trong xe chị để dễ nói chuyện.”

Tôi lắc đầu. “Chị và Fluffy đỗ xe trước Ngôi nhà của Người Hà Lan.”

“Để mà nói thì, Danny, đó là điều tuyệt nhất. Khi cô ấy lên xe, bọn chị đã ngồi gần nhau như chị với em bây giờ và chị cảm thấy như muốn vỡ òa vì hạnh phúc. Cô ấy mặc chiếc áo cardigan xanh cũ, chị cảm thấy nó thật thân thuộc. Chị đã có thể nghiêng người và ôm lấy cô ấy. Chị đã nghĩ mình luôn ghét Fluffy, vì cô ấy đã đánh em và ngủ với cha, nhưng hóa ra chị chẳng ghét cô ấy chút nào. Có vẻ như chị chẳng thể ghét bất cứ ai hay bất cứ điều gì xuất hiện trong cuộc sống của mình trước khi Andrea xuất hiện, và đó là những ngày có Fluffy. Ngay cả bây giờ, khuôn mặt cô ấy vẫn rất xinh đẹp. Chị không biết giờ em còn nhớ mặt cô ấy không nhưng khuôn mặt cô ấy rất mềm mại, đậm chất Ireland. Những vết tàn nhang đã biến mất nhưng đôi mắt xanh, to tròn đó thì không hề thay đổi.”

Tôi nói rằng mình nhớ đôi mắt của cô trông ra sao.

“Lúc đầu, chị đã nói rất nhiều. Chị kể với cô ấy chuyện cha kết hôn, cha chết rồi Andrea ném em ra đường. Em biết cô ấy nói gì không?”

“Nói sao?”

“Cô ấy nói: ‘Đúng là cái loại đĩ bợm.’”

“Fluffy!”

Maeve cười cho đến khi má xám lại và bắt đầu ho. “Chị thấy cô ấy nói đúng đấy chứ,” chị nói trong lúc tôi lấy khăn giấy đưa cho chị. “Cô ấy muốn biết mọi chuyện về em. Cô ấy rất ấn tượng khi nghe giờ em là bác sĩ. Cô ấy liên tục nói rằng em bất trị đến mức nào, cô ấy không thể tưởng tượng được rằng em có thể ngồi yên đủ lâu để nghiền ngẫm một cuốn sách chứ đừng nói là học y.”

“Cô ấy chỉ nói thế để bao biện cho mình thôi. Em không nghịch đến thế.”

“Có đấy.”

“Cô ấy sống ở đâu suốt thời gian qua?”

“Cô ấy từng sống ở Manhattan. Cô ấy nói rằng mình không biết phải làm gì vào hôm cha đuổi cô ấy đi. Fluffy nói cô ấy chỉ bối rối đứng đó, cuối lối đi. Cuối cùng, Sandy bước ra ngoài và nói với Fluffy rằng cô sẽ gọi chồng đến đón cô ấy. Sandy và chồng đã mở cửa đón cô ấy.”

“Sandy già tốt bụng.”

“Fluffy nói rằng họ đã suy nghĩ vài ngày và cuối cùng quyết định đi đến nhà thờ để nói chuyện với linh mục. Cha Crutcher giúp Fluffy tìm được công việc bảo mẫu cho một số nhà giàu có ở Manhattan.”

“Nhà thờ giúp một người phụ nữ bị sa thải vì đánh một đứa bé tìm được việc trông trẻ. Quả là tuyệt vời.”

“Thật sự đấy, em đừng xen ngang nữa đi. Em làm đứt mạch chuyện đấy! Tiếp, cô ấy kiếm được một công việc khá tốt là làm bảo mẫu và khi đứa trẻ còn nhỏ, cô đã kết hôn với quản gia nhà đó. Fluffy kể họ đã giữ bí mật cho đến lúc mang thai để không bị mất việc. Cô sinh con gái đầu lòng và hiện cô bé đang ở Rutgers. Fluffy đang trên đường tới gặp cô bé thì quyết định đến rồi lưỡng lự trước ngôi nhà cũ.”

“Chẳng ai thèm xem bản đồ sao? Ngôi nhà của Người Hà Lan không nằm trên đường đi từ thành phố đến Rutgers.”

“Hiện Fluffy sống tại Bronx,” Maeve nói, phớt lờ tôi. “Cô ấy và chồng. Họ có cả thảy ba người con, một gái, hai trai.”

Tôi phải kìm lại để không chỉ ra rằng Ngôi nhà của Người Hà Lan cũng chẳng nằm trên đường từ Bronx đến Rutgers.

“Fluffy nói thỉnh thoảng cô ghé qua ngôi nhà, không cách nào dừng việc đó lại. Đó là công việc của cô trước khi nhà mình chuyển đến. Công việc của cô là kiểm tra mọi thứ sau khi bà VanHoebeek qua đời. Cô nói rằng cô sợ không dám gõ cửa vì không biết cha sẽ nói gì khi thấy cô, nhưng cô luôn hy vọng gặp được một người nhà mình ở đó.”

Tôi lắc đầu. Sao tôi lại quên ông bà VanHoebeek sau từng ấy năm chứ?

“Fluffy hỏi chị có còn bị tiểu đường không. Chị trả lời cô rằng tất nhiên là còn, rồi cô ấy lại trở nên buồn bã. Chị nhớ Fluffy luôn khó tính với bọn mình hồi chúng mình còn nhỏ nhưng ai mà biết được chứ, có khi cô ấy không hề như vậy.”

“Cô ấy khó tính thật mà.”

“Cô ấy muốn gặp em.”

“Em sao?”

“Em sống khá gần chỗ cô ấy.”

“Sao cô ấy lại muốn gặp em?”

Maeve nhìn tôi với ánh mắt như thể tôi thừa thông minh để hiểu điều này, nhưng tôi thực sự không hiểu. “Cô ấy muốn sửa chữa lỗi lầm.”

“Nói với cô ấy là em không cần.”

“Nghe chị này. Điều này quan trọng, em cũng chẳng bận gì.” Maeve không coi việc tôi làm với các tòa nhà là công việc nghiêm túc. Trong chuyện này, chị và Celeste có cùng quan điểm.

“Em không cần liên lạc lại với một người mà em không gặp kể từ hồi bốn tuổi.” Tôi thừa nhận rằng, câu chuyện Maeve gặp lại Fluffy có sức hút kinh khủng nhưng tôi không có hứng thú để xây dựng mối quan hệ này.

“Chị đã cho cô ấy số em. Chị đã nói với Fluffy rằng em sẽ gặp cô ấy ở cửa hàng bánh Hungary. Việc đó sẽ không gây rắc rối gì cho em đâu.”

“Không phải vấn đề rắc rối hay không, em không muốn gặp cô ấy.”

Chị tôi ngáp dài và gí sát mặt xuống gối. “Giờ chị mệt lắm.”

“Chị sẽ không thoát khỏi vụ này đâu.”

Khi chị nhìn tôi, đôi mắt xanh đỏ quạch khiến tôi nhớ ra chúng tôi đang ở đâu và tại sao chúng tôi lại ở đây. Cơn buồn ngủ nhanh chóng ập đến và chị miễn cưỡng nhắm mắt lại như thể không còn lựa chọn nào khác.

Tôi ngồi trên ghế, quan sát chị. Tôi tự hỏi liệu mình có nên sống gần nhà không. Giờ đã hết thời gian nội trú, tôi không cần phải sống ở New York. Tôi sở hữu ba tòa nhà ở đó nhưng tôi biết một thực tế rằng những đế chế bất động sản tuyệt vời được tạo ra ở ngoại thành.

Lát sau, bác sĩ đến kiểm tra bệnh tình của Maeve. Tôi đứng dậy bắt tay anh.

“Bác sĩ Lamb,” anh giới thiệu. Trông anh không nhiều tuổi hơn tôi là mấy, có khi chỉ bằng tuổi tôi.

“Bác sĩ Conroy,” tôi tự giới thiệu. “Tôi là em trai của Maeve.”

Maeve không nhúc nhích khi anh nhấc cánh tay của chị lên để lướt ngón tay vào ống truyền trên tay áo chị. Lúc đầu, tôi nghĩ chị chỉ giả vờ để tránh câu hỏi của tôi, nhưng sau tôi nhận ra chị đã ngủ thật. Tôi không biết trước đó ngài Otterson đã đến từ lúc nào. Tôi đã giữ chị tỉnh quá lâu.

“Đáng lẽ cô ấy phải nhập viện từ hai ngày trước,” bác sĩ Lamb nhìn tôi, nói.

“Tôi là người cuối cùng được biết chuyện này.” Tôi lắc đầu bất lực.

“Đừng để cô ấy giấu anh mấy chuyện như thế này.” Anh nói như thể chỉ có mình chúng tôi trong phòng. “Vấn đề nghiêm trọng đấy.” Anh đặt cánh tay chị xuống rồi kéo chăn lên. Anh đánh dấu vào biểu đồ rồi rời đi.