← Quay lại trang sách

Chương 13

Tôi ước gì phần việc của mình không bị rơi vào tay Maeve, chị đã lái xe đến Rydal để ăn trưa với Celeste và mẹ cô ấy để thảo luận về màu sắc của giấy ăn, cái khôn của việc đặt cả rượu nặng ở quầy lễ tân so với việc chỉ phục vụ mỗi bia, rượu vang và sâm panh để cụng ly.

“Rau đông lạnh,” sau đó Maeve kể với tôi. “Chị chỉ muốn nói với con bé rằng chị sẽ chuẩn bị cái đó. Chị sẽ phủ đầy sân sau của họ bằng hạt đậu xanh. Điều này giúp chị không phải trải qua thêm bất kỳ cuộc trò chuyện nào khác về việc liệu bãi cỏ có còn xanh vào tháng Bảy hay không.”

“Em xin lỗi,” tôi nói. “Đáng lẽ chị không phải nhúng tay vào việc đó.”

Maeve đảo mắt. “Nhìn em cũng chẳng có vẻ gì là sẽ lo việc đó. Hoặc là chị tham gia, hoặc là nhà chúng ta chẳng có đại diện nào tại đám cưới của em.”

“Em đã lên kế hoạch để chị em mình là đại diện gia đình xuất hiện trong đám cưới.”

“Em không hiểu đâu. Chị chưa kết hôn nhưng chị vẫn hiểu điều này lắm chứ.”

Celeste nói rằng rất khó cho Maeve khi phải chứng kiến tôi kết hôn trước chị. Celeste nói thêm rằng ở tuổi ba mươi bảy, không dễ để Maeve tìm được đối tượng cho mình, vì vậy lên kế hoạch đám cưới chắc sẽ khiến chị không được vui. Nhưng không phải vậy. Ở vế đầu tiên, Maeve sẽ không bao giờ ghen tị với hạnh phúc của tôi và ở vế thứ hai, tôi chưa một lần nghe về việc chị có hứng thú với chuyện hôn nhân. Maeve không quan tâm chuyện cưới xin. Chị chỉ không thích cô dâu.

Tôi cố giải thích cho chị rằng tôi đã hẹn hò với đủ loại phụ nữ nhưng Celeste là sự lựa chọn phù hợp nhất. Tôi cũng không vội vàng chuyện gì cả. Chúng tôi đã yêu nhau từ thời đại học.

“Em đang chọn người em thích nhất từ một nhóm người mà em không thích,” Maeve nhận xét. “Nhóm kiểm soát của em về cơ bản là không đủ mẫu thử.”

Nhưng tôi đã chọn một người phụ nữ dám tự cam kết sẽ khiến tôi dễ dàng hơn trên con đường của mình và hỗ trợ tôi trong mọi vấn đề của cuộc sống. Vấn đề là Maeve nghĩ mình có thể tự lo liệu việc đó.

Tôi chẳng biết gì về đời sống tình cảm của Maeve hay sự thiếu thốn đời sống tình cảm của chị nhưng tôi có thể nói thế này: tôi để ý chị tự kiểm tra lượng đường huyết và tiêm insulin cho mình trong suốt cuộc đời nhưng chị chưa bao giờ làm việc đó trước mặt bất kỳ ai trừ khi đấy là trường hợp khẩn cấp. Khi đang theo học trường y và trong thời gian nội trú, tôi đã cố gắng nói chuyện với chị về vấn đề kiểm soát của chị nhưng chị chẳng quan tâm. “Chị có bác sĩ nội tiết rồi,” chị nói.

“Em cũng chẳng hứng thú làm bác sĩ nội tiết của chị. Em chỉ nói với tư cách là em trai chị và quan tâm đến sức khỏe của chị thôi.”

“Thật tử tế. Giờ thì thôi ngay đi.”

Maeve và tôi có vô số lý do để nghi ngờ về chuyện hôn nhân - ký ức từ bé của chúng tôi đủ để khiến chúng tôi chống lại điều đó - nhưng nếu phải đoán, tôi sẽ không đổ lỗi cho Andrea hay cha mẹ mình. Nếu phải đoán Maeve lo lắng ở đâu, tôi sẽ nói rằng Maeve không cho phép bất kỳ ai khác vào phòng khi chị ấy đang đâm kim vào bụng.

“Nói lại chị nghe việc chị chưa kết hôn có liên quan gì đến việc em kết hôn với Celeste?”

“Không có gì. Em chỉ mong là chị ổn thôi.”

“Tin chị đi,” chị gái tôi đùa. “Chị không muốn kết hôn với Celeste đâu. Của em tất.”

Nếu không có Maeve, mọi vấn đề của đám cưới từ các khoản chi phí đến các quyết định sẽ rơi vào tay nhà Norcross. Maeve tin rằng nhà Conroy không nên bắt đầu một cuộc hôn nhân trong tình trạng bất bình đẳng như vậy. Rốt cuộc, khi tính cả cô dì chú bác anh em các cấp bậc thì họ hàng nhà Norcross nhiều hơn sao trên trời, trong khi chỉ có đúng hai chúng tôi là nhà Conroy. Tôi hiểu rằng phải có ai đó bên phía nhà trai nhưng bên nhà tôi chỉ có Maeve và tôi nên mọi việc đều do Maeve lo liệu. Những ngày đó, tôi dành thời gian gặp những thợ điện và học hỏi kỹ năng chữa tấm thạch cao khó đến đáng kinh ngạc. Tôi quá bận nên chẳng để tâm những việc nhỏ nhặt trong đám cưới, tôi để Maeve, người sống cách bố mẹ Celeste mười lăm phút đi đường, làm người đại diện giúp tôi.

Với tinh thần phân công lao động này, Maeve đã tình nguyện viết thông báo đính hôn của chúng tôi lên báo. Mary Celeste Norcross, con gái của ông William và bà Julie Norcross, sẽ kết hôn với Daniel James Conroy, con trai của bà Elna Conroy và ông Cyril Conroy quá cố, vào thứ Bảy, ngày 23 tháng 7.

Nhưng Celeste không thích từ “quá cố”. Cô ấy thấy rằng đấy là một từ buồn, không phù hợp với dịp vui như vậy.

“Thế còn mẹ thì sao?” Maeve nói với tôi qua điện thoại, chị bắt chước giọng của Celeste, nghe giống một cách kỳ cục.

“Em có muốn đưa tên mẹ vào thông báo đính hôn không?”

“À,” tôi nói.

“Chị đã nói với cô ấy là em có mẹ. Một người mẹ mất tích và một người cha đã qua đời. Đó là gia đình chúng ta. Sau đó, con bé hỏi liệu có thể bỏ họ ra vì họ không bao giờ xuất hiện ở đây không? Chúng ta đâu có vẻ gì là sẽ làm tổn thương cảm xúc của họ.”

“À...” Tôi không nghĩ đề nghị đấy có gì quá đáng.

“Nhưng làm thế sẽ khiến chị cảm thấy bị tổn thương,” Maeve ấm ức. “Em đâu phải từ lỗ nẻ chui lên. Em có cha có mẹ đàng hoàng mà.”

Julie Norcross, mẹ vợ tương lai có cái đầu lạnh của tôi, đã phá vỡ thế cân bằng mà Maeve muốn. “Chốt là như vậy,” bà nói với con gái. Sau nhiều lần đấu tranh nhưng thất bại, Maeve đã phải đồng ý rằng tên cha mẹ chúng tôi sẽ không xuất hiện trên thiệp cưới.

Trải qua chuyện này, tôi chưa bao giờ kể với chị gái rằng mẹ chúng tôi đang ở đâu đó ngoài kia. Tôi không kể không phải vì lo lắng cho sức khỏe của Maeve mà vì chúng tôi sẽ sống tốt hơn nếu không biết đến sự có mặt của bà. Tin tức của Fluffy giúp tôi nhận ra điều đó. Sau bao năm khổ sở sống tha hương, cuối cùng cuộc sống của chúng tôi cũng ổn định trở lại. Giờ không còn việc gì để bòn rút tiền của quỹ ủy thác, chúng tôi hiếm khi nhắc đến Andrea. Chúng tôi không nghĩ về dì ta nữa. Tôi không còn là bác sĩ. Tôi sở hữu ba tòa nhà. Tôi sẽ sớm kết hôn. Maeve, với bất cứ lý do cá nhân nào, vẫn tiếp tục làm việc ở Otterson mà không phàn nàn nửa câu. Chị có vẻ hạnh phúc hơn bao giờ hết dù chị không muốn tôi kết hôn với Celeste. Sau nhiều năm ăn mày quá khứ, bằng cách nào đó chúng tôi đã giải thoát hoàn toàn khỏi nó, sống tiếp như những người khác. Nói với Maeve là mẹ đang ở đây, nói với chị rằng tôi không chắc liệu cha mẹ đã ly hôn chưa cũng đồng nghĩa với việc khơi lại ngọn lửa mà chúng tôi dành cả đời để dập tắt. Tại sao chúng tôi phải đi tìm bà trong khi bà chẳng bao giờ đến tìm chúng tôi?

Tôi không có ý rằng Maeve không xứng đáng được biết sự thật hay tôi sẽ không bao giờ kể chuyện này với chị. Tôi chỉ nghĩ bây giờ chưa phải thời điểm thích hợp.

Celeste và tôi kết hôn vào một ngày nóng nực cuối tháng Bảy tại Nhà thờ Thánh Hilary ở Rydal. Một đám cưới diễn ra vào mùa thu sẽ thoải mái hơn nhưng Celeste nói rằng cô ấy muốn mọi việc hoàn thành và ổn định trước ngày tựu trường vào tháng Chín. Maeve bảo Celeste không muốn cho tôi thời gian để suy nghĩ lại. Nhà Norcross đã thuê một căn lều để tổ chức tiệc chiêu đãi. Celeste và Maeve tạm gác những bất đồng qua bên vì sự kiện này. Thầy Morey Able đứng ra làm phù rể cho tôi. Ông thấy việc tôi chạy trốn khỏi khoa học thật hài hước. “Ta đã tốn cả nửa sự nghiệp giáo sư của mình cho trò,” ông nói, vòng tay qua vai tôi như kiểu bất kỳ người cha nào tự hào về đứa con của mình hay làm. Nhiều năm sau, tôi mua một tòa nhà trên đường Riverside Drive, viên ngọc quý trước chiến tranh với sảnh được trang trí theo phong cách Art Deco[1], thang máy được ốp bằng kính xanh. Tôi tặng vợ chồng thầy Able một nửa tầng trên cùng và chìa khóa lên mái nhà để trả ơn những gì họ đã dành cho tôi. Họ sống ở đó suốt phần đời còn lại.

Celeste liệng vòng tránh thai của em xuống Đại Tây Dương trong tuần trăng mật của chúng tôi. Vào buổi sáng sớm, chúng tôi thấy nó bị cuốn theo một con sóng nhẹ và dập dềnh trên bờ biển Maine.

“Trông nó khá tởm,” tôi nói.

“Mọi người sẽ nghĩ đó là một con sứa.” Em đóng chặt chiếc hộp màu hồng trống rỗng rồi bỏ vào ví. Chúng tôi định xuống nước vào ngày hôm trước, nhưng dù đã vào cuối tháng Bảy, chúng tôi vẫn cảm thấy nước khá nông nên đành quay về khách sạn. Celeste vẫn mặc nguyên bộ đồ tắm để tôi có thể dễ dàng tháo cởi ra lần nữa. Em nghĩ rằng chúng tôi đã chờ đợi quá lâu. Ở tuổi hai mươi chín, em không muốn đợi thêm chu kỳ nào nữa. Chín tháng sau, con gái chúng tôi ra đời. Mặc kệ những lời phản đối, tôi đặt tên con bé theo tên chị gái mình và như một sự thỏa hiệp, chúng tôi gọi con bé là May.

Sinh May dễ dàng về mọi mặt. Tôi nói với Celeste rằng chúng tôi có thể trải một tấm bạt lên giường và tôi có thể đỡ đẻ cho em nếu em muốn đẻ ở nhà nhưng em không muốn vậy. Chúng tôi bắt taxi đến Columbia Presbyterian vào giữa đêm và sáu giờ sau, con gái chúng tôi được một người bạn cùng lớp tôi bế đến. Mẹ của Celeste đến chăm em một tuần, Maeve thì đến một ngày. Maeve và Julie Norcross đã trở thành bạn tốt của nhau nhờ việc chuẩn bị đám cưới và Maeve thấy mọi chuyện giữa chị và Celeste trở nên tốt đẹp hơn khi có mặt mẹ em. Chị đã lên kế hoạch phù hợp cho những buổi ghé thăm ngắn ngủi của mình. Celeste bỏ công việc giảng đạy ở trường và năm tháng sau, em lại mang thai. Em thích nói mình rất giỏi trong chuyện mang thai. Em đang chơi đùa với sức khỏe của chính mình.

Những đứa trẻ sinh ra phần lớn là do may mắn. Không có gì đảm bảo rằng mang thai lần một dễ dàng thì lần hai cũng vậy. Khi đứa con thứ hai của chúng tôi được hai mươi lăm tuần, Celeste bắt đầu xuất hiện các cơn co tử cung và được chỉ định nằm im một chỗ. Em được thông báo là bị nhược cơ tử cung. Em coi đấy là lỗi của mình.

“Lần trước có ai nói em bị vậy đâu,” em lầm bầm.

Họ cho em ở lại bệnh viện vì tôi không đủ tư cách là bác sĩ để kê đơn thuốc và theo dõi huyết áp cho em. Những việc tôi chưa thể quán xuyến, cùng với công việc và Celeste, chính là chăm sóc May.

“Chúng ta phải thuê bảo mẫu chăm con bé,” tôi quyết định. Celeste từng nói rõ là em không muốn mẹ chuyển đến sống ở New York, còn việc nhờ Maeve đến giúp là không thể.

“Em chỉ ước gì mình thuê được ai mà mình quen biết,” Celeste nói. Em thất vọng, sợ hãi và giận bản thân vì đã không đảm đương được mọi chuyện như em luôn làm. “Em không muốn để một người lạ chăm sóc con bé.”

“Anh sẽ thử gọi cho Fluffy,” tôi gợi ý, dù tôi cũng không thực sự muốn làm điều đó. Gọi cho Fluffy, giống như một vài chuyện khác, như thể lùi một bước dài về quá khứ. Tôi bế May nhưng con bé cứ giãy giụa và đưa đôi bàn tay mũm mĩm của nó về phía mẹ.

“Fluffy là cái gì?”

“Phải là Fluffy là ai?”

“Anh đang nói gì vậy?”

“Anh chưa kể em nghe về Fluffy sao?”

Celeste thở dài và vuốt vuốt chiếc chăn cho thẳng thớm. “Em đoán là chưa. Chẳng ai có thể quên một người tên là Fluffy cả.”

Thủa mới hẹn hò, Celeste đã hỏi về vết sẹo nhỏ bên khóe mắt tôi và tôi kể với em rằng tôi đã bị một cú đánh trái tay vào đầu trong một trận quần vợt ở Choate. Tôi không định kể với cô gái xinh đẹp nằm trên giường mình rằng bà bảo mẫu người Ireland đã dùng muôi đánh tôi. Nếu tôi không kể về Fluffy thì Celeste sẽ không biết chuyện về cha tôi. Sẽ thật khó khăn nếu đề xuất ứng viên cho vị trí bảo mẫu là người đã từng ngủ với ông chủ rồi đánh con ông chủ, dù thực tế là tôi đã tha thứ mọi chuyện. Giống như Maeve nói, từ thời điểm đó trở lại, trong cuộc đời chúng tôi không có thù oán với bất kỳ ai. “Cô ấy là bảo mẫu của anh. Giờ cô ấy sống ở Bronx,” tôi nói.

“Em tưởng Sandy và Jocelyn là bảo mẫu của anh.”

“Sandy là quản gia, còn Jocelyn là đầu bếp. Fluffy mới là bảo mẫu.”

Celeste nhắm mắt và gật đầu một cách hòa nhã. “Em cứ lẫn lộn mãi về người hầu nhà anh.”

“Anh có nên gọi cho cô ấy không?” May, con bé cứ mập mạp lên một cách kỳ lạ, giờ nó như một bao khoai tây hơn hai chục ký trên tay tôi. Tôi đặt con bé xuống cạnh mẹ.

“Anh cứ thử xem. Biết đâu mọi sự lại tốt đẹp.” Celeste đưa tay đón lấy con gái nhưng không được bế con bé lên. “Ít nhất là chúng ta cũng biết bắt đầu từ đâu.”

Sau gần ba mươi năm sau khi chung sống dưới một mái nhà, Fluffy đến đường 116 để chăm sóc con gái chúng tôi. Celeste không thể hài lòng hơn về sự sắp xếp này.

“Bọ chét ở khắp mọi nơi!” Tôi nghe Fluffy kể với vợ tôi một ngày sau khi chúng tôi thuê cô ấy. Tôi chỉ dám đến cửa trước rồi đứng ở hành lang nhỏ hẹp để nghe xem họ nói gì. Tôi không nghe trộm, căn hộ quá bé để phải làm vậy. Họ thừa biết là tôi ở đó. “Lần đầu tiên gặp gia đình nhà Conroy, họ đang đứng đó, sột soạt luôn tay tựa gảy đàn. Tôi nguyện chết để tạo ấn tượng tốt với gia đình họ, cô biết đấy. Tôi là người trông coi ngôi nhà khi không có người ở đó và tôi hy vọng họ sẽ giữ tôi ở lại, thế nên tôi mặc bộ váy đẹp nhất, đi đến tự giới thiệu. Họ ở đó với một lô lốc các thùng đồ. Tôi có thể nhìn thấy bọ chét trên đôi chân nhỏ của Maeve. Chúng bu lấy cô bé như thể cô là một ổ bánh mì đường.”

“Đợi đã,” Celeste thắc mắc. “Cô không sống trong nhà sao?”

“Tôi sống trong ga ra. Có một căn hộ trên nóc ga ra. Thời còn làm việc cho gia đình VanHoebeek, cha mẹ tôi sống ở đó. Tất nhiên tôi ở trong nhà hồi bà cụ còn sống, tôi không bao giờ bỏ bà ấy lại một mình. Nhưng khi bà mất thì căn nhà khiến tôi cảm thấy buồn nên tôi quay lại ga ra. Tôi lớn lên ở đó. Tôi từng là một cô gái giúp việc trong nhà, rồi thành người hầu duy nhất của họ, rồi đến làm bảo mâu, sau đó lại thành người trông nom nhà cửa và cuối cùng là thành vú nuôi của gia đình Conroy, đầu tiên là Maeve, sau đến Danny.”

Sau đó thì cô như chủ nhà vậy, tôi nghĩ và đặt bức thư xuống.

“Tôi làm khá tốt mọi công việc ngoại trừ việc làm người trông nom nhà cửa. Tôi rất tệ khoản đó.”

“Nhưng đó là công việc hoàn toàn khác những gì cô từng làm,” Celeste phân trần. “Chăm sóc con người và chăm sóc một ngôi nhà không người ở phải khác nhau chứ.”

“Tôi rất sợ ngôi nhà. Tôi luôn nghĩ hồn ma những người nhà VanHoebeek vẫn luôn ở đó. Tôi không thể tưởng tượng được cảnh nơi này thiếu vắng họ, ngay cả khi họ đã chết. Tôi cố đi thật nhanh vào căn nhà đó tuần một lần vào lúc sáng nhất trong ngày, kiểm tra xung quanh, thế nên tôi không biết những con gấu mèo đã vào phòng khiêu vũ và tha những con bọ chét vào nhà. Chắc chúng cũng mới xuất hiện vì chẳng có con bọ chét nào khi nhân viên ngân hàng đến và cũng không có con nào khi ông Conroy đến xem nhà. Nhưng rồi bọ chét ở khắp mọi nơi. Cô có thể thấy chúng nhung nhúc trên thảm, trên tường. Tôi cũng không đổ lỗi cho họ nếu họ đuổi tôi ra khỏi đó.”

“Chuyện bọ chét đâu phải lỗi của cô,” Celeste an ủi.

“Nếu cô nghĩ kỹ thì chính là lỗi của tôi. Tôi ngủ quên trong lúc làm nhiệm vụ mà. Mà cô có muốn tôi đặt đứa bé xuống và làm bữa trưa không?”

“Danny?” Celeste gọi. “Anh có muốn ăn trưa không?”

Tôi bước vào phòng ngủ. Celeste nằm dài trên giường, còn Fluffy ngồi trên ghế. May thì đang say giấc nồng trong vòng tay cô.

Celeste ngước nhìn tôi và mỉm cười. “Fluffy vừa kể em nghe về những con bọ chét.”

“Mẹ cậu ấy đã giữ tôi lại,” Fluffy nói, mỉm cười như thể tôi đã làm việc đó. “Bà ấy không hơn tôi nhiều tuổi nhưng tôi luôn coi bà ấy như mẹ mình. Khi đó tôi đã rất cô đơn và bà ấy đối xử với tôi rất tốt. Mặc dù rất khổ tâm nhưng bà Elna luôn khiến tôi cảm thấy bà ấy hạnh phúc khi tôi có mặt ở đó.”

“Mẹ khổ tâm về chuyện bọ chét sao?”

“Vì ngôi nhà. Bà Elna tội nghiệp ghét ngôi nhà.”

“Bữa trưa được đấy,” tôi lên tiếng.

“Sao lại là Elna tội nghiệp?” Celeste hỏi. Kể từ khi tôi kể em nghe câu chuyện đời mình, em đặc biệt coi thường mẹ tôi. Em tin rằng chẳng có lý do gì khiến một người mẹ bỏ lại hai đứa con thơ.

Fluffy nhìn xuống, con gái tôi đang say ngủ trên ngực cô. “Bà ấy quá tốt để sống ở một nơi như vậy.”

Celeste nhìn tôi, bối rối. “Em tưởng anh bảo đấy là một nơi rất đẹp.”

“Anh sẽ đi lấy sandwich,” tôi nói rồi quay ra. Tôi muốn bảo Fluffy đừng nói nữa nhưng tại sao chứ? Cô ấy đang kể chuyện cho Celeste nghe, người duy nhất trên thế giới này muốn nghe. Fluffy kể cho Celeste nghe những câu chuyện về Ngôi nhà của Người Hà Lan như Scheherazade[2] cố gắng giành giật sự sống thêm đêm nữa, và Celeste, cuối cùng đã hết muộn phiền, sẽ không để cô đi bằng bất kể giá nào.

Kevin sinh non và thằng bé phải dành sáu tuần đầu đời trong lồng ấp. Nó nhìn chúng tôi chằm chằm bằng đôi mắt to tròn qua vách ngăn trong suốt của lồng ấp, còn Fluffy thì ở nhà với May. “Không sao cả đâu,” Fluffy nói với tôi, hôn tới tấp lên đầu con gái tôi. “Chúng ta sẽ ổn thôi.” Maeve động viên khi Celeste ở viện. Chị dành nhiều thời gian cho Fluffy và đứa trẻ cùng tên với mình. Khi có thời gian ở cạnh nhau, Maeve và Fluffy rất thích ôn lại chuyện quá khứ. Họ rà lại từng phòng trong Ngôi nhà của Người Hà Lan. “Nhớ cái bếp đó chứ?” Một trong hai người nói. “Sao có thể đốt tất cả các họng bếp bằng một que diêm nhỉ? Nếu là tôi, tôi sẽ thổi bay tất cả trước khi ngọn lửa kịp bắt lên bếp.” “Cô có nhớ tấm ga trải giường lụa đào trong phòng ngủ trên tầng ba không? Tôi chưa bao giờ nhìn thấy tấm ga lụa nào khác như vậy cả. Tôi cá là giờ chúng vẫn còn y như vậy. Chẳng ai ngủ trên chiếc giường đó.” “Cô có nhớ cái hồi chúng ta bơi trong bể bơi và Jocelyn nói rằng thật không hay chút nào khi vú em đang trong giờ làm việc lại đập nước tung tóe như một con hải cầu không?” Họ phá lên cười ngặt nghẽo cho đến khi May cười theo.

Tôi đã mua tặng Celeste một ngôi nhà xây bằng đá kết nâu ngay phía bắc Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên sau khi May ra đời và tự tay sữa chữa chúng vào cuối tuần. Đó là một ngôi nhà bốn tầng lớn hơn so với dự định, là kiểu nhà chúng tôi có thể sống nốt phần đời còn lại. Dân cư ở đây không quá hoàn hảo nhưng tốt hơn so với khu chúng tôi đang sống. Những cơn lốc xa hoa đã bắt đầu di chuyển đến Khu Thượng Tây và tôi muốn đi trước đón đầu xu thế đó. Nhà mới cách chỗ cũ hai mươi lăm dãy nhà nên tôi đã thuê Sandy và Jocelyn đến vào cuối tuần để cùng Fluffy đóng gói đồ đạc từ nhà cũ rồi bày biện sang nhà mới.

“Chúng ta chuyển nhà bây giờ ư?” Celeste hỏi trong lúc chúng tôi ngồi tại phòng chờ của khoa Chăm sóc Tích cực cho trẻ sơ sinh. Chín giờ mới được vào thăm.

“Chẳng có lúc nào là thời điểm tốt để chuyển nhà cả,” tôi nói. “Chuyển lúc này thì khi Kevin ra viện sẽ được về nhà mới luôn.”

Ngôi nhà mới có bốn phòng ngủ, dù vậy chúng tôi vẫn để Kevin và May ở cùng nhau khi chúng còn nhỏ. “Đỡ phải chạy khắp nhà để trông chừng chúng,” Fluffy nói. “Cái nơi khỉ gió này lắm cầu thang quá.” Celeste cũng nghĩ vậy. Em bảo tôi nhét thêm chiếc giường đơn vào phòng bọn trẻ. Em vừa sinh mổ và sẽ không phải đi quá xa khi một trong hai đứa quấy khóc.

Một đêm nọ, sau khi lấy áo len cho Celeste từ phòng ngủ của chúng tôi ở tầng trên cùng rồi vòng ngược lại tầng trệt để lấy đống đồ giặt, thay tã cho May, lấy cho con bé bộ quần áo khác trên tầng ba và cầm quần áo bẩn xuống giăht, Fluffy ngã vật xuống chiếc ghế dài cạnh Celeste, má ửng hồng, lồng ngực phập phồng, hổn hển.

“Cô không sao chứ?” Celeste hỏi, tay ôm Kevin. May lẫm chẫm bước về phía lò sưởi tôi vừa nhóm lửa.

“May!” Tôi giật giọng.

Fluffy hít một hơi thật sâu rồi chìa hai tay ra, May quay người lại và lao thẳng về phía cô.

“Những bậc thang chết tiệt,” Celeste nhận xét.

Fluffy gật đầu, ngồi thêm phút nữa để lấy lại nhịp thở. “Nó khiến tôi nhớ đến bà VanHoebeek già đáng thương khi bà ấy hấp hối. Tôi ghét mấy bậc thang đó.”

“Có phải bà ấy bị ngã không?” Tôi hỏi vì nhận ra mình chẳng biết điều gì về nhà VanHoebeek ngoài việc họ sản xuất thuốc lá và họ đã chết.

“Bà ấy không bị ngã cầu thang, nếu cậu muốn hỏi vậy. Bà ấy ngã ngoài vườn trong lúc ra ngoài ngắt hoa mẫu đơn. Bà ấy ngã trên bãi cỏ mềm và bị gãy xương hông.”

“Khi nào?”

“Khi nào ư?” Fluffy hỏi lại, hơi lúng túng. “Chỉ biết là lúc đó chúng ta đang tham chiến. Mấy đứa con trai của bà đều đã mất. Ông VanHoebeek cũng đã qua đời. Trong nhà chỉ còn lại mình tôi với bà ấy.”

Fluffy đã cố gọi Celeste là “bà chủ” vào ngày làm việc đầu tiên của cô tại nhà chúng tôi nhưng Celeste không muốn vậy.

“Sao con bà ấy lại chết cả vậy?” Celeste kéo chăn quàng lên cổ Kevin. Đã đốt lò sưởi nhưng căn nhà vẫn rất lạnh. Tôi sẽ phải sửa lại cửa sổ để căn nhà ấm áp hơn.

“Cậu muốn biết về tất cả họ sao? Linus bị ung thư máu. Cậu ấy mất sớm, chắc chưa tới mười hai tuổi. Hai đứa con lớn là Pieter và Maarten đều chết ở Pháp. Họ nói nếu chính phủ Mỹ không buộc họ quay về thì họ đã quay lại Hà Lan để chiến đấu. Chúng tôi nhận được tin một người qua đời và chỉ một tháng sau, tin tức của người còn lại cũng đã tới. Họ rất điển trai, như hoàng tử trong truyện tranh vậy. Tôi cũng chẳng rõ là mình thích ai hơn.”

“Còn ông VanHoebeek thì sao?” Tôi ngồi xuống chiếc ghế lớn gần lò sưởi. Đồng hồ điểm từng phút trong đêm tĩnh lặng. Tôi không định ở lại với họ nhưng tôi đã nán lại. Phòng khách bao bọc chúng tôi trong đêm đông lạnh giá bên ánh đèn leo lắt. Tôi có thể nghe thấy tiếng xe ô tô đang gầm rú ở Broadway cách đấy một dãy nhà. Tôi có thể cảm thấy tiếng mưa lạnh rơi buồn bã.

“Khí phế thủng. Đấy là lý do vì sao tôi không bao giờ hút thuốc. Ông VanHoebeek hút thuốc nhiều bằng cả nhà VanHoebeek gộp lại. Một cái chết thật khủng khiếp,” Fluffy nhìn tôi rồi nói.

Celeste co chân lên áp sát người. “Vậy bà VanHoebeek thì sao?” Cô ấy muốn nghe câu chuyện đó. May bi bô một lát rồi ngồi yên trong lòng Fluffy như thể con bé cũng đang lắng nghe.

“Tôi gọi xe cấp cứu, thế là họ đến khênh bà ấy ra khỏi vườn rồi chở bà ấy đến bệnh viện. Tôi theo sau bằng chiếc xe cuối cùng của chúng tôi. Cha tôi là tài xế, cô biết đấy, thế nên tôi biết lái xe. Tôi hỏi y tá xem liệu tôi có thể ngủ trong phòng bà cụ để dễ dàng để mắt đến bà không nhưng họ không đồng ý. Họ nói rằng bà ấy phải đóng đinh ở hông và cần được nghỉ ngơi. Lúc đó cha mẹ tôi đã tìm được một công việc ở Virginia, những người làm khác trong nhà đều phải rời đi trong thời kỳ Suy thoái. Tôi là người làm duy nhất còn lại trong nhà. Lúc đó tôi đã ngoài hai mươi nhưng chưa một lần phải ở một mình lúc đêm tối.” Fluffy lắc đầu với ý nghĩ đó. “Tôi sững sờ. Tôi cứ nghĩ rằng mình vẫn có thể nghe được tiếng mọi người. Đến tối, tôi nhận ra mình mới là người giữ an toàn cho bà chủ, chứ không phải ngược lại. Tôi nghĩ rằng bà già nhỏ bé đó mới là người bảo vệ mình suốt thời gian qua ư?”

May ngáp rồi gục đầu lên ngực Fluffy. Con bé ngước nhìn lần cuối để xác nhận đúng là cô trước khi thiêm thiếp ngủ.

“Bà ấy qua đời ở bệnh viện ạ?” Tôi hỏi. Tôi không nghĩ việc đóng đinh vào hông những năm 40 sẽ hiệu quả và dễ chịu.

“À không. Bà ấy đã phục hồi tốt. Tôi đến thăm bà ấy mỗi ngày và sau hai tuần, người ta đưa bà ấy về nhà trên xe cứu thương. Kể từ đó, tôi ghét cầu thang. Họ khiêng bà ấy lên cầu thang trên một chiếc cáng và đặt bà ấy nằm xuống giường, nơi tôi đã dọn dẹp và chuẩn bị sẵn gối kê. Bà ấy rất vui khi được trở về nhà. Bà ấy cảm ơn những người đàn ông đã khiêng bà lên, nói rất xin lỗi vì mình quá nặng trong khi bà nhẹ phều. Bà ấy ngủ ở phòng ngủ lớn phía trước, sau là phòng ngủ của cha mẹ cậu. Sau khi những người đàn ông rời đi, tôi hỏi bà rằng bà có muốn uống trà không và bà nói có, vậy nên tôi xuống nhà để lấy và từ đó trở đi, mọi việc cứ lặp đi lặp lại như vậy. Hết việc này lại đến việc khác. Tôi lên và xuống cầu thang liên tục, cứ năm phút một lần, cũng không sao cả tại hồi đó tôi còn trẻ. Nhưng sau khoảng một tuần hoặc lâu hơn, tôi nhận ra mình đã sai lầm. Lẽ ra tôi nên đặt bà ở tầng dưới, ngay tiền sảnh để bà có thể ngắm cảnh vật xung quanh. Ở tầng dưới, bà có thể nhìn thấy cỏ cây, chim muông, mọi thứ vẫn thuộc về bà. Giờ bà nằm trên lầu, tất cả cuộc sống thu hẹp lại ở trong căn phòng với thứ duy nhất có thể thấy được là lò sưởi. Bà ấy không thể nhìn thấy gì ngoại trừ bầu trời từ cửa sổ phòng đó. Bà ấy chẳng bao giờ phàn nàn nhưng tôi thấy buồn thay cho bà. Tôi biết bà sẽ chẳng khỏe lên được. Chẳng có lý do gì níu giữ bà lại với cuộc sống. Bà ấy là một bà già ngọt ngào. Mỗi khi tôi cần mua đồ hoặc đi lấy thuốc cho bà, tôi sẽ phải cho bà uống thuốc để bà thiếp vào giấc ngủ, nếu không bà sẽ bối rối khi không thấy tôi ở đó và sẽ cố gắng tự ra khỏi giường. Bà ấy còn chẳng nhớ nổi mình mới ngã gãy hông. Bà luôn cố đứng dậy. Tôi bảo bà nằm yên rồi chạy như bay xuống cầu thang lấy những thứ bà ấy yêu cầu rồi quay lại ngay tắp lự, nhưng bà đã lê được người tới mép giường, một chân chạm sàn và tôi lại phải kéo bà trở lại giữa giường, lấy gối chặn xung quanh như một đứa trẻ và cố gắng lần sau chạy xuống cầu thang nhanh gấp đôi. Tôi có thể thi chạy marathon nhưng tôi không nghĩ hồi đó đã có cuộc thi marathon.” Cô ấy dịu dàng nhìn xuống May, đưa tay vuốt mái tóc đen mượt của con bé. “Người tôi chỗ nào cũng rắn chắc.”

Lúc mới đầu, nhiều khi Celeste muốn nói nhiều chuyện về Maeve nhưng Fluffy sẽ coi như không nghe thấy gì cả. “Tôi yêu những đứa trẻ mà tôi chăm sóc,” cô nói, “và Maeve là đứa trẻ đầu tiên tôi chăm sóc. Tôi đã cứu mạng cô ấy, cô biết đấy. Khi cô ấy bị tiểu đường, tôi là người đưa cô ấy đến bệnh viện. Cứ tưởng tượng bé May lớn lên và ai đó muốn tôi nghe những lời không hay về cô bé.” Cô ấy tét mông May khiến con bé bật cười. “Sẽ... không... bao... giờ... xảy... ra!” Cô thủ thỉ với May.

Celeste nhanh chóng làm quen với điều đó. Trung tâm các mối quan hệ với người trưởng thành của em bây giờ là Fluffy, và em sống trong nỗi kinh hoàng khi nghĩ đến ngày những đứa trẻ được coi là đủ lớn để em có thể tự chăm sóc. Không chỉ phụ một tay chăm hai đứa sàn sàn tuổi nhau, Fluffy còn biết làm gì khi chúng đau tai, nổi mẩn hay buồn bực. Cô ấy còn giỏi về nhi khoa hơn tôi. Với những đứa trẻ, Fluffy là một thiên tài, không những thế cô ấy còn quan tâm đến các bà mẹ. Cô ấy chăm sóc Celeste như chăm Kevin và May, khen ngợi mọi quyết định đúng đắn của em, nói với em khi nào nên nghỉ ngơi và dạy em cách làm món hầm. Khi tối đến hay mưa buông, hay chỉ đơn giản là trời quá lạnh không nên ra ngoài, kho tàng bất tận những câu chuyện về nhà VanHoebeek sẽ được kể lại. Celeste yêu tất thảy những điều đó.

“Ga ra nằm ở phía bên kia ngôi nhà, nhưng nếu tôi đứng trên nắp bồn cầu và mở cửa sổ, tôi có thể thấy quan khách đến nhà dự tiệc. Chẳng có bữa tiệc nào trên trái đất này như những bữa tiệc ở nhà ông bà VanHoebeek. Cửa sổ được mở toang và những vị khách sẽ bước vào qua cửa sổ từ chỗ nền đất cao. Vào những ngày lạnh giá, họ sẽ khiêu vũ trên lầu, trong phòng khiêu vũ; còn khi trời đẹp, những người thợ sẽ đến nguyên ngày và ghép những miếng gỗ bóng loáng lại với nhau để thành một sàn nhảy. Bằng cách đó, khách ghé chơi có thể khiêu vũ trên bãi cỏ. Họ sẽ thuê một dàn nhạc nhỏ, mọi người tham dự đều vui vẻ, tiếng cười rộn rã. Mẹ tôi thường nói, âm thanh tuyệt vời nhất đời là tiếng cười của một người phụ nữ giàu có. Bà sẽ làm trong bếp cả ngày để chuẩn bị mọi thứ, sau đó bà sẽ phục vụ đến hai, ba giờ sáng, tàn tiệc thì bà sẽ dọn dẹp mọi thứ. Có rất nhiều người làm ở đó nhưng căn bếp là của mẹ tôi. Cha tôi sẽ đánh xe đi cất và mang xe trở lại cho khách khi họ chuẩn bị rời khỏi bữa tiệc. Lúc họ về, tôi đã ngủ say trên ghế và dù cố thế nào đi chăng nữa, tôi cũng không thể thức nổi. Suy cho cùng, lúc đó tôi cũng chỉ là một đứa trẻ. Mẹ sẽ đánh thức tôi dậy, đưa tôi một ly sâm panh hoặc bất kỳ loại gì còn sót lại trong chai. Bà gọi tôi dậy và nói: ‘Fiona, nhìn xem mẹ mang gì cho con này!’ Tôi sẽ uống cạn và lại chìm vào giấc ngú. Tôi còn chưa đến năm tuổi. Rượu sâm panh đó là thứ tuyệt nhất đời.”

“Cô nghĩ cha cháu làm cách nào để có đủ tiền mua ngôi nhà đó?” Tôi hỏi Fluffy vào một đêm muộn trong bầu không khí im lặng có phần trang trọng. Cả hai đứa trẻ đang ngủ trong cũi, Celeste vừa đặt mình xuống chiếc giường nhỏ trong phòng bọn trẻ cũng đã thiếp đi. Chỉ còn Fluffy và tôi đứng cạnh nhau, cô rửa bát, còn tôi giúp cô lau khô.

“Đó là nhờ một chàng trai trong bệnh viện khi cha cậu ở Pháp.”

Tôi quay sang cô, tay vẫn lau khô chiếc đĩa. “Cô biết chuyện đó sao?” Tôi không biết sao mình lại hỏi cô ấy nhưng tôi chưa bao giờ nghĩ rằng cô ấy biết câu trả lời.

Fluffy gật đầu. “Ông ấy nhảy dù và bị gãy vai. Tôi đoán rằng ông ấy nằm viện lâu lắm, mọi người ghé thăm ông ấy liên tục. Vài ngày sau, một chàng trai chuyển đến nằm cạnh cha cậu, cậu ấy bị bắn vào ngực. Tôi cố gắng để không tưởng tượng cảnh đó. Chàng trai nằm mê man, khi tỉnh lại, cậu ấy thường trò chuyện với cha cậu. Chàng trai ấy nói rằng nếu có tiền cậu sẽ mua đất ở Horsham. Chắc chắn là vậy, cậu ấy nói thế và cha cậu đã hỏi lý do. Tôi nghĩ rằng thật tuyệt khi có người nói chuyện cùng trong hoàn cảnh đó. Chàng trai nói với cha cậu về những điều sẽ xảy ra trong cuộc chiến này và cậu không có quyền nói gì cả nhưng Cyril nên nhớ hai từ: Horsham, Pennsylvania. Cha cậu đã ghi nhớ điều đó.”

Tôi lấy một chiếc đĩa khác từ bàn tay đầy bọt của cô, rồi kế đến là chiếc ly. Nhà bếp ở phía sau nhà và cửa sổ nằm ngay trên bồn rửa. Fluffy luôn nói rằng đối với người phụ nữ, không có gì xa hoa hơn việc có cửa sổ bên trên bồn rửa. “Cha cháu kể với cô chuyện này sao?”

“Cha cậu sao? Lạy Chúa, không! Cha cậu sẽ không bao giờ kể nếu tôi có hỏi ông ấy. Mẹ cậu đã kể chuyện đó với tôi. Chúng tôi thì thụt như ăn trộm. Cậu phải biết là vào ngày đầu họ xuất hiện ở Ngôi nhà của Người Hà Lan, bà ấy nghĩ họ là những người nghèo. Mẹ cậu bắt cha cậu giải thích cho bà nghe sao ông có đủ tiền mua ngôi nhà này. Bà bắt ông phải làm vậy. Bà ấy cứ đinh ninh rằng chồng mình đã làm gì đó bất hợp pháp. Hồi đó chẳng ai có nhiều tiền đến vậy.”

Tôi nhớ hồi mình còn là sinh viên chưa tốt nghiệp, tìm được tòa nhà đầu tiên trong đời bị tịch biên và tự hỏi làm cách nào cha trở nên giàu có như vậy. “Đã xảy ra chuyện gì vậy ạ?”

“Chà, thì tất nhiên chàng trai tội nghiệp đã qua đời, khiến cha cậu dành nhiều thời gian để suy nghĩ về cậu ấy và những lời cậu ấy nói. Cha cậu ở bệnh viện thêm ba tháng nữa trước khi một con tàu có chỗ trống để chở ông về. Sau đó, ông được đưa vào làm công việc bàn giấy tại xưởng đóng tàu ở Philadelphia. Ông chưa từng đến Philadelphia. Sau khi lấy mẹ cậu, ông đã lôi ra một tấm bản đồ và không để tâm gì ngoại trừ Horsham, cách nơi cha mẹ cậu đang sống khoảng một tiếng lái xe. Ông đã quyết định đến đó, tôi đoán là do lòng nể trọng của cha cậu với chàng trai năm đó. Tôi không biết bằng cách nào cha cậu đến được đó nhưng nơi đó toàn là đất nông nghiệp. Ông ấy đi hỏi han, chỉ để xem có ai bán đất không và ông ấy đã tìm được một người đàn ông có mười mẫu đất như muốn cho không. Đó là khởi nguồn của mọi thứ, cậu biết đấy. Rẻ như cho không ấy.”

“Nhưng ông ấy lấy đâu ra tiền mà mua đất ạ?” Mọi thứ có thể rẻ nhưng nếu đã không có tiền thì rẻ hay không cũng không quan trọng. Kinh nghiệm đã dạy tôi như thế.

“Cha cậu được nhận một khoản trợ cấp từ TVA[3]. Ông ấy đã làm việc trên các con đập trong ba năm trước chiến tranh. Họ không trả cho ông một đồng nào trước đó nhưng cha cậu là người không bỏ một đồng xu nào thuộc về mình. Nghe này, mẹ cậu không biết gì về điều này và họ đã kết hôn ngay sau đó. Bà không biết gì về khoản tiết kiệm, chuyện chàng trai trong bệnh viện hay Horsham, không gì cả. Sáu tháng sau, hải quân liên lạc với ông và thông báo rằng họ muốn xây dựng căn cứ ở chỗ đó.”

“Chà, không thể nào ngờ được.”

Fluffy gật đầu, mặt đỏ hây hây, tay đỏ cóng vì lạnh. “Sẽ là một câu chuyện có hậu nếu mọi chuyện chỉ có vậy, nhưng ông ấy đã lấy tiền đó để đặt công trình công nghiệp lớn trên sông và sau khi bán, ông bắt đầu mua mấy khu đất liền; trong suốt thời gian đó, mẹ cậu bận ngâm đậu cúc cho bữa tối trong khi ông ấy vẫn đặt hàng tiếp tế cho hải quân và sống trong căn cứ cùng mẹ và chị gái cậu. Rồi một ngày ông ấy nói: ‘Elna này, anh mới mượn được chiếc ô tô. Anh có bất ngờ này muốn dành tặng em.’ Tôi luôn tự hỏi sao mẹ cậu chưa giết ông ấy.”

Khi chúng tôi đứng cạnh nhau, bên bồn rửa bát và bát đĩa đã sạch tinh tươm, bí mật lớn nhất đời tôi đã được giải đáp, tôi nhớ lại rằng đây chính là người phụ nữ đã đánh tôi khi tôi còn nhỏ. Cô ấy đã ngủ với cha tôi và muốn kết hôn với ông ấy. Tôi nghĩ cuộc sống sẽ trở nên tốt đẹp hơn khi mọi chuyện đi theo đúng ý Fluffy.

Chú thích:

[1] Art Deco: trường phái nghệ thuật và trang trí mang tính chiết trung xuất hiện tại Pháp sau Thế chiến thứ nhất.

[2] Scheherazade: nhân vật chính trong truyện Nghìn lẻ một đêm.

[3] TVA (Tennessee Valley Authority): tập đoàn của Chính phủ liên bang Hoa Kỳ do Quốc hội thành lập vào tháng 5 năm 1933 với trách nhiệm là cung cấp vận tải, phòng ngừa lụt, điện, phân bón và phát triển kinh tế trong khu vực Thung lũng Tennessee, một khu vực bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi Đại Suy thoái.