← Quay lại trang sách

Chương 14

Tôi bán tòa nhà mà chúng tôi đã sống khi mới kết hôn với giá tốt và bán thêm hai căn nhà đầu tiên của mình. Từ lợi nhuận kiếm được, tôi mua một tòa nhà phức hợp ở Broadway, cách nơi chúng tôi đang sống sáu dãy nhà. Tòa nhà có ba mươi căn cho thuê và một nhà hàng Ý ở tầng dưới. Lẽ ra tôi phải có mặt ở tòa nhà đó hằng giờ, hằng ngày, hằng năm, các yêu cầu sửa chữa, thay lắp ở đây quá nhiều: không điều khiển được hệ thống sưởi hơi nước, xả rác trái quy định, con gái của một chủ hộ đã thả một quả cam xuống bồn cầu để xem cách nó vận hành, người khác quên không khóa cửa khiến con mèo của cô đi bậy ngoài hành lang, và hai con chó ở cách đó hai nhà đã tìm thấy, ngấu nghiến đống đó rồi nôn mửa ở hành lang. Với mỗi vấn đề, tôi học được cách khắc phục và cũng học được cách xoa dịu những vấn đề mà tôi không phải là người xử lý.

Tôi kiếm ra tiền. Tôi dùng tiền mình kiếm được để thuê người quản lý và thành lập công ty quản lý nhà cho thuê. Cách chắc chắn nhất để biết một ngôi nhà có đáng mua hay không là quản lý tòa nhà đó trước, hoặc quản lý một tòa nhà cùng khu đó. Những ngày đó, ở New York bán mọi thứ nếu bạn biết chỗ mua. Tôi quen biết các ủy viên Hội đồng Thành phố cũng như giới cảnh sát. Tôi vào và ra khắp các tầng hầm. Maeve lo việc sổ sách và thuế cho công ty cũng như cá nhân tôi. Điều này khiến Celeste không hài lòng.

“Chị anh không có quyền chĩa mũi vào mọi chuyện,” em thẳng thừng nói.

“Chắc chắn là chị ấy có quyền làm vậy khi anh yêu cầu.”

Celeste bắt đầu lo lắng thái quá vì giờ cô chỉ ở nhà chăm lũ trẻ. Fluffy lại quay về làm bảo mẫu cho bạn của chúng tôi cách nhà chúng tôi mười tòa nhà về phía nam do họ mới nhận nuôi một cặp song sinh. Cô ấy đã ở lại với chúng tôi nhiều năm hơn đã hứa và tuần nào cũng ghé thăm chúng tôi, nấu xúp cho chúng tôi, dìu Kevin nhảy điệu valse quanh bếp. Giờ Celeste quán xuyến việc giặt giũ, sắp xếp các buổi gặp gỡ, vui chơi ở công viên cho lũ trẻ và đọc Hạt giống cà rốt[1] cả triệu lần với giọng rất sinh động: “Một cậu bé gieo hạt cà rốt xuống đất. Mẹ cậu bé nói: ‘Mẹ e là nó sẽ chẳng nảy mầm nổi đâu con.’” Em luôn cố gắng trong mọi việc nhưng bộ não thông minh, giỏi giang của em không được trọng dụng. Điều đấy khiến em thường chống lại Maeve.

“Anh không thể để người nhà làm sổ sách được. Anh cần một chuyên gia lo việc đó.”

“Maeve là một chuyên gia. Em nghĩ chị ấy làm gì ở Công ty Otterson chứ?” Hai đứa trẻ đều đang ngủ, tiếng còi xe cứu hỏa kêu ầm ĩ dưới phố Broadway cũng không thể kéo chúng ra khỏi giấc mơ, nhưng tiếng cha mẹ cãi vã lại có thể làm chúng tỉnh giấc.

“Chúa ơi, Danny à! Chị ấy vận chuyển rau củ. Chúng ta đang điều hành một doanh nghiệp thực sự. Tiền của chúng ta đang bị đe dọa đấy!”

Trong công việc kinh doanh của tôi, Celeste không biết được điều gì đang bị đe dọa. Em không biết gì về giá trị tài sản hay quy mô khoản nợ của chúng tôi. Em không hỏi. Nếu hiểu được rủi ro tài chính quá lớn mà tôi đặt cược vào, em sẽ chẳng yên giấc được nữa. Tất cả những gì em có thể chắc chắn là em không muốn Maeve đến gần, mặc dù về nhiều mặt, với sự hiểu biết của mình về mã số thuế và các khoản thế chấp, Maeve lại là người chèo lái việc kinh doanh của chúng tôi. “Được rồi, trước tiên, Otterson là một doanh nghiệp thực sự.” Maeve đã tiết lộ cho tôi biết về các khoản lợi nhuận khổng lồ mà công ty đó kiếm được, mặc dù đáng lẽ chị không nên làm vậy.

Celeste giơ tay ra hiệu tôi đừng nói nữa. “Làm ơn đừng giảng cho em một bài về đậu Lima.”

“Thứ hai là, nhìn anh này, anh đang rất nghiêm túc. Thứ hai là Maeve rất có đạo đức nghề nghiệp, điều này hơn nhiều nhân viên kế toán giao dịch bất động sản tại New York. Chị ấy không mong muốn điều gì hơn lợi ích của chúng ta.”

“Lợi ích của anh thôi,” cô nói khe khẽ. “Chị ấy chẳng quan tâm đến lợi ích của em đâu.”

“Lợi ích của em chính là việc làm ăn của anh diễn ra suôn sẻ.”

“Sao anh không mời chị ấy đến sống với tụi mình luôn đi? Chẳng phải chị ấy luôn muốn thế sao? Chị ấy có thể ngủ trong phòng chúng ta luôn. Sẽ chẳng có bí mật nào giữa chúng ta cả.”

“Cha em luôn chữa răng cho chúng ta.”

Celeste lắc đầu. “Hai điều đó không giống nhau.”

“Răng của em, răng của anh, răng của lũ trẻ. Em biết gì không? Anh thích và anh biết ơn ông vì điều đó. Ông rất giỏi nên anh đi về Rydal để hàn răng. Anh tin ông.”

“Em nghĩ điều đó chứng tỏ một điều mà chúng ta đã nghi ngờ từ lâu.”

“Điều gì?”

“Anh tử tế hơn em.” Rồi Celeste rời khỏi phòng để kiểm tra xem lũ trẻ có tỉnh giấc bởi trận cãi vã của chúng tôi không.

Tất cả những gì Celeste không thích ở tôi đều là do lỗi của Maeve, vì nổi giận với chị chồng thì dễ hơn nổi giận với chồng. Em đã giấu nỗi thất vọng lúc ban đầu của mình vào trong hộp tiềm thức và đem theo nó đi khắp nơi. Tôi sẽ không bao giờ quên việc tôi đã không muốn kết hôn với em khi em tốt nghiệp trường Thomas More, cũng vì thế mà em phải quay về Rydal như một thất bại của cuộc đời. Khi tôi càng dấn sâu vào bất động sản em càng thấy thất vọng, còn tôi lại càng hạnh phúc. Celeste đã đánh giá sai về tôi. Em đã lên kế hoạch để tôi tự do rồi nhận ra mình đã chọn lầm đường, nhưng nghề y chẳng bao giờ xuất hiện trong tâm trí tôi trừ những lúc tôi có hẹn ăn trưa với thầy Morey Able hoặc gặp một người bạn cùng lớp, người đã tạo áp lực lên vết bắn nhằm cầm máu trong một phòng cấp cứu nào đó để kiếm sống. Khi May đủ lớn để xin bộ đồ chơi Cờ tỉ phú dịp Giáng sinh, chúng tôi đã quây quần bên cây thông và cùng chơi. Tôi không tưởng tượng được cảnh cha tôi sẽ chơi boardgame nhưng trò chơi này đúng là hết sảy: có nhà và khách sạn, cơ hội, khí vận và người thuê, tiền lãi và tiền thuế. Cờ tỉ phú cũng giống như thế giới này. May luôn chọn chú chó sục giống Scottie. Kevin thì chưa đủ lớn để hiểu trò chơi nhưng hồi đó, thằng bé luôn chọn chiếc xe thể thao chạy quanh bàn cờ và tạo ra những kim tự tháp từ những ngôi nhà nhỏ màu xanh lá. Mỗi lần tung xúc xắc và di chuyển viên sắt nhỏ về phía trước, tôi luôn nghĩ mình may mắn biết bao: từ thành phố đến công việc rồi gia đình, nhà cửa. Tôi đã không phải dành cả ngày trong một căn phòng bé xíu, kín mít để báo với cha của ai đó rằng ông bị ung thư tuyến tụy, nói với mẹ của ai đó rằng tôi cảm thấy bà có khối u trong vú hay nói với cha mẹ bệnh nhân rằng tôi đã làm hết sức.

Điều đó không có nghĩa việc học nghề bác sĩ không có ích gì. Trong suốt khoảng thời gian bọn trẻ trưởng thành, những điều tôi học được ở trường y đã giúp ích rất nhiều. Ví dụ, có lần chúng tôi lái xe đến bãi biển Brighton cùng gia đình Gilbert, những người mà chúng tôi kết thân nhờ lũ trẻ. Đó là cách mọi người kết bạn trong một thời điểm nhất định của cuộc đời. Andy, đứa trẻ nhà Glibert, giẫm phải đinh. Cái đinh trên tấm ván bị vùi trong cát nên chúng tôi không thấy lúc xảy ra chuyện. Lúc đó, mấy đứa con trai đã lên bờ, đang chơi đuổi bắt trên bãi biển. Tôi xuống bãi tắm với cha của Andy, một hậu vệ công dẻo dai tên Chuck, và hai cô bé, May và con của Chuck. Mấy đứa con gái cầm theo xô, đứng mé sát bờ hòng tìm kiếm mấy viên đá nhỏ. Bỗng tôi nghe thấy tiếng hét của Andy Gilbert giữa tiếng sóng, tiếng gió và tiếng la hét của lũ trẻ. Celeste và mẹ của cậu bé nằm nói chuyện ngay cạnh đó, để mắt đến lũ trẻ đang bơi gần bờ. Tất cả chúng tôi cùng chạy về phía Andy. Lúc đó, thằng bé tầm chín tuổi, cậu là bạn của Kevin và mùa hè đó Kevin cũng lên chín. Mẹ cậu bé, một người phụ nữ xinh đẹp với mái tóc nâu suôn mượt và bộ áo tắm hai mảnh màu đỏ (rất xin lỗi khi nhớ được chi tiết đó mà không nhớ nổi tên cô ấy) đưa tay xuống cầm chân con trai mình mà không biết phải làm gì tiếp theo. Thấy vậy, Celeste đặt tay lên vai cô ấy và nói: “Đừng! Hãy để Danny xử lý.”

Mẹ cậu bé nhìn vợ tôi, rồi nhìn tôi, không chút nghi ngờ rằng liệu tôi có biết lấy cái đinh ra khỏi chân không. Khi chúng tôi tới chỗ hai đứa trẻ, Kevin - con trai tôi - an ủi người bạn đang hét toáng lên vì vừa giẫm phải đinh: “Không sao đâu, cha tớ là bác sĩ đấy.”

Trong giây phút đó, khi gia đình Gilbert vẫn còn đang choáng váng do bối rối và sợ hãi, tôi đặt một chân lên chân lành của Andy để giữ tấm ván cố định rồi để ngón tay giữa mu bàn chân cậu và tấm ván và kéo tấm ván ra thật nhanh. Thằng bé hét toáng lên, tất nhiên rồi, nhưng cũng may là không bị chảy quá nhiều máu, tức là không cắt vào động mạch nào. Tôi bế cậu, rú lên và rùng mình trước cái nóng hắt lên từ đại dương, rồi bước ra xe trong ánh nắng chiều chói chang trong khi những người còn lại tập trung thu dọn đồ đạc, kết thúc một ngày chơi ở bãi biển. Chuck Gilbert đi sau tôi, nhặt tấm ván để những đứa trẻ khác khỏi giẫm phải. Hoặc đó là sự thôi thúc của nghề nghiệp luật sư - thu thập bằng chứng. Còn sự thôi thúc của tôi là nhổ bỏ chiếc đinh.

Đêm đó, tại bàn ăn, May không ngừng kể cho mọi người nghe câu chuyện đó. Tôi đã nghĩ rằng chúng tôi nên lái xe quay về thành phố và cho thằng bé nhập viện nhưng Gilbert lo bị kẹt xe nên chúng tôi đã tới phòng cấp cứu tại Brooklyn. Tất cả chúng tôi ngồi đó, mệt mỏi và kiệt sức, người toàn cát. Bác sĩ đã rửa sạch vết thương, tiêm phòng uốn ván, chụp X-quang cho Andy rồi băng bó vết thương. Vội vã chạy xe từ bãi biển Brighton đến đây, cô Gilbert đã bỏ lại quần áo của mình, vì vậy cô ấy phải ngồi trong phòng chờ, nói chuyện với bác sĩ trong bộ đồ tắm hai mảnh màu đỏ và mảnh khăn quấn ngang hông. May kể lại câu chuyện như thể con bé mang tin tức từ nước ngoài trở về. Tôi nghi ngờ việc nhà Gilbert, chúng tôi đã thả họ tại nhà ở Khu Đông, sẽ đánh giá cao màn tái hiện sự việc hăng say của con bé. Khi kể đến giữa câu chuyện (với những viên đá nhỏ, tiếng thét) con bé lại kể lại từ đầu. Rồi con bé kể cho mọi người nghe về chuyến đi tới bãi biển, ai ăn trưa thứ gì và cách các cậu bé đi bơi ngay sau khi ăn - điều không nên làm chút nào nếu không muốn bị chuột rút. Con bé kể rằng con bé và Pip, chị gái của Andy, cũng là bạn của con bé, đã đi cùng tôi và bố Andy như thế nào. “Pip vừa mới tìm thấy một cái vỏ sò,” May thì thầm, giọng buồn rầu, “thì bọn con nghe thấy tiếng hét.”

“Thôi con,” cuối cùng, mẹ con bé phải lên tiếng. “Cha mẹ cũng ở đó mà.” Celeste đang chuyền đĩa thịt gà nguội vòng quanh bàn. Làn da nhợt nhạt của em giờ trở nên đỏ tía vì cháy nắng, ở vai, ngực và cả mặt. Tôi có thể cảm thấy hơi nóng toát ra từ người em. Cả nhà ai nấy đều mệt mỏi.

“Cha không hỏi Andy xem liệu cha có thể chạm vào chân em ấy không,” May nói với tôi, con bé không hề muốn dừng câu chuyện. “Thậm chí cha còn chẳng hỏi cha mẹ em ấy. Cha không cần hỏi trước sao?”

Tôi mỉm cười với con bé, cô bé có mái tóc đen xinh đẹp của tôi. “Không con ạ.”

“Ở trường y họ dạy cha cách xử lý sao?” Đến lượt Kevin hỏi. Bọn trẻ không đứa nào bị cháy nắng. Celeste chăm chút cho chúng cẩn thận nhưng chẳng buồn để ý đến chính mình.

“Đúng vậy,” tôi nói, nhận ra lần đầu tiên mình thấy mừng vì người bị giẫm phải đinh không phải Kevin. “Một học kỳ họ dạy về cách xử lý khi gặp trường hợp giẫm phải đinh trên bãi biển và học kỳ tiếp theo con sẽ học cách cứu những người bị hóc xương cá.”

Điều mà trường y dạy cho tôi là cách trở nên quyết đoán: xác định vấn đề, cân nhắc các lựa chọn và hành động - tất cả cùng lúc. Về sau, bất động sản cũng dạy tôi những điều tương tự. Tôi có thể kéo chiếc ván có đinh ra khỏi chân Andy Gilbert mà không cần một ngày học về giải phẫu.

“Anh không nên coi nhẹ chuyện đó,” vợ tôi nhẹ nhàng nói. “Anh biết cần phải làm gì.”

May và Kevin không hỏi gì nữa. Kevin cầm bắp ngô, còn May bỏ nĩa xuống. Chúng tôi đều đợi em nói. Chúng tôi nhìn Celeste và chờ đợi. Em lắc đầu, những lọn tóc đẹp đẽ của em như nhạt đi sau buổi chiều nắng gắt. “Thì đấy, thật là vậy.”

“Cha là bác sĩ,” May nói, nghiêng người về phía trước và nhìn thẳng vào tôi. “Cha nên trở thành một bác sĩ.” May có thể hóa thân thành mọi người trong nhà nhưng con bé biến việc bắt chước Celeste trở thành đỉnh cao nghệ thuật.

Cho dù chúng tôi đang sống một cuộc sống rất tốt, một cuộc sống mà những người bạn trường y của tôi sẽ không bao giờ được tận hưởng nếu không giảm thiểu khối lượng công việc, Celeste vẫn thích giới thiệu tôi là bác sĩ. Chồng tôi, bác sĩ Conroy. Cô ấy làm điều đó bất chấp việc tôi không muốn và dù tôi có yêu cầu thế nào đi chăng nữa cô ấy cũng từ chối. Chức danh của tôi là nguồn gốc của hầu hết những cuộc tranh luận giữa chúng tôi, chứ không phải là chị gái tôi.

Nhưng đêm đó, trên giường, Celeste nằm dài trên người tôi, tựa đầu vào vai tôi và không muốn cãi vã thêm nữa. “Đếm đốt xương của em đi,” em van nài.

Em chưa tắm nên người vẫn thoang thoảng vị của biển cả, như hương gió phả từ bãi biển Brighton. Tôi lùa ngón tay vào dưới mái tóc em và cảm nhận phần đáy sọ. “Đốt một là Atlas, đốt hai là đốt sống trục, đó là những đốt sống cổ đầu tiên.” Tôi nhấn từng đốt sống của em như lướt trên những phím đàn piano, chậm rãi rồi sau đó thả ra, đủ bảy đốt. “Lồng ngực. Em cần phải thoa kem chống nắng.”

“Thôi nào. Đừng phá hỏng bầu không khí chứ.”

“Lồng ngực.” Tôi đếm đủ mười hai xương sườn, sau đó đến thắt lưng. Tôi xoa hõm thắt lưng của em cho đến khi em rên lên khe khẽ.

“Anh còn nhớ chứ?” Em hỏi.

“Tất nhiên là anh nhớ rồi.” Tôi yêu cái cách em nằm dài trên người tôi, yêu làn da nóng bỏng của em.

“Những năm đó em đã giúp anh học.”

“Những năm đó em đã phá không cho anh học.” Tôi hôn lên đỉnh đầu em.

“Anh là một bác sĩ vĩ đại,” em thì thầm.

“Không phải vậy đâu,” tôi nói, nhưng em vẫn ngước nhìn tôi trìu mến như thế.

Sau nhiều năm rời trường y, một vài tòa nhà tôi mua rồi bán lại đã đủ để trả cho căn nhà hiện tại và gia tăng tích lũy, tôi dần quan tâm đến những điều không tưởng về sự công bằng. Việc học của tôi đã tốn quá nhiều thời gian và tiền bạc trong khi Maeve thì chẳng được gì. Tôi đã lập quỹ ủy thác cho May và Kevin, vậy tại sao Maeve không quay lại trường luật hay trường kinh doanh? Giờ vẫn chưa quá muộn để làm việc đó. Chị vẫn luôn là người thông minh và chị quyết định theo học bất kỳ ngành gì thì đều giúp ích cho tôi rất nhiều.

“Chị đã giúp đỡ em rất nhiều,” chị nói. “Chị không cần tấm bằng luật để làm điều đó.”

“Thế thì lấy cái bằng Toán học đi. Em sẽ không bắt chị theo đuổi điều gì mà chị không muốn. Em chỉ không muốn thấy chị cống hiến cuộc đời mình cho Công ty Otterson thôi.”

Chị im lặng. Chắc chị đang suy nghĩ xem mình có muốn vậy không. “Sao em không thích việc chị đang làm vậy?”

“Vì công việc đó không xứng với chị.” Tôi buột miệng nói một câu mà tôi chắc là chị cũng biết. “Nó chỉ phù hợp khi chị làm thêm đợt hè lúc về nhà thời học đại học thôi. Giờ chị đã bốn mươi tám tuổi rồi mà chị vẫn làm công việc đó. Chị luôn khích lệ em cố gắng để thành công. Sao chị không để em khích lệ chị chứ?”

Càng điên tiết thì Maeve càng tỏ ra trầm tư. Chị giống hệt cha ở điểm này - chị nói rất ngắn gọn. “Nếu đây là hình phạt của chị vì đã bắt em học y thì tốt thôi, chị chấp nhận. Mà chị cũng có khích lệ em cố gắng để thành công đâu. Chị nghĩ em biết rõ mà. Nhưng nếu em nói rằng em quan tâm đến công việc kiếm sống của chị thì để chị nói rõ cho em hiểu: chị thích công việc hiện tại. Chị thích đồng nghiệp của chị. Chị thích công ty mà chị đã góp một tay vào phát triển nó. Chị được làm việc linh hoạt, được hưởng đầy đủ quyền lợi về bảo hiểm y tế, bao gồm cả khám thị lực và nha khoa. Số ngày nghỉ phép tích lũy được đủ để chị đi du lịch vòng quanh thế giới nhưng chị không muốn đi vì chị thích công việc của mình.”

Tôi không hiểu sao mình vẫn cứ nói tiếp. “Chị cũng có thể thích thứ gì đó khác mà. Chị chưa hề thử.”

“Otterson cần chị, em hiểu chứ? Ông ấy biết nhiều về vận tải đường bộ và điện lạnh nhưng biết ít về rau củ, còn chuyện tài chính thì ông ấy chẳng biết gì cả. Chị tin mình là người không thể thiếu ở đây, thế nên cứ kệ chị đi.”

Công việc của chị ở Otterson là công việc toàn thời gian nhưng chị chỉ làm bán thời gian. Về điểm này thì ông Otterson không quan tâm chị làm việc ở đâu hay dành bao nhiêu thời gian cho công việc, vì chị luôn chu toàn mọi việc. Ông ấy để chị giữ chức Giám đốc Tài chính của công ty mặc dù tôi nghĩ công ty ấy cũng chẳng cần đến một giám đốc tài chính. Chị làm sổ sách cho công việc kinh doanh của tôi và rất cẩn thận, tỉ mỉ. Maeve luôn để ý từng chi tiết nhỏ: nếu bóng đèn ngoài hành lang trong tòa nhà của tôi bị cháy, chị muốn có một bản ghi chép về việc thay thế nó. Tuần một lần, tôi sẽ gửi chị một tập hồ sơ gồm biên lai, hóa đơn, các khoản thanh toán tiền thuê nhà. Chị ghi chép mọi thứ trong một cuốn sổ không khác gì cuốn mà cha giữ. Chúng tôi mở tài khoản ngân hàng ở Jenkintown và Maeve đứng tên ở tất cả các tài khoản. Chị viết hóa đơn và làm thủ tục thanh toán các loại thuế của tiểu bang New York, thuế của thành phố, các khoản giảm trừ và ưu đãi thuế. Chị viết những bức thư thấu tình đạt lý gửi những người thuê nhà đã quá hạn trả tiền. Mỗi tháng một lần tôi viết một tấm séc để trả lương cho chị và chẳng tháng nào chị đụng đến nó.

“Chị nhận đi, không là em thuê người khác đấy,” tôi nói. “Mà người ta thì chỉ coi đây là công việc, không hơn.”

“Em phải tìm được người nào coi việc này là công việc của họ.” Chị làm sổ sách cho tôi tại bàn bếp. “Vào các ngày thứ Năm,” chị nói.

Từ lâu Maeve đã sống trong một căn nhà thuê làm bằng gạch đỏ cách nhà thờ hai dãy nhà với hai phòng ngủ và hiên phía trước sâu, rộng. Căn bếp nhà chị đầy nắng, đã lỗi thời, nhìn ra một khoảng sân rộng hình chữ nhật, nơi chị trồng thược dược và thục quỳ dọc hàng rào phía sau nhà. Ngôi nhà thực sự cũng không có vấn đề ngoài việc nó quá nhỏ: phòng để đồ bé xíu và chỉ có một phòng tắm.

“Không quan trọng em giàu đến mức nào, một người thì chỉ dùng được tối đa một phòng tắm một lần thôi,” Maeve nhận xét.

“Thì thỉnh thoảng em cũng ở đây.” Mặc dù tôi rất hiếm khi ngủ lại. Lần đầu tiên Maeve chỉ ra điều này.

“Chúng ta dùng chung phòng tắm bao nhiêu năm rồi?”

Tôi đề nghị mua tặng chị một căn nhà thay cho tiền lương nhưng chị cũng từ chối. Chị nói không ai có quyền bảo chị ở đâu hay không được ở đâu, kể cả tôi. “Chị đã mất năm năm mới có một vụ mâm xôi được mùa đấy, biết không hả,” chị kêu.

Vậy nên tôi đến gặp chủ nhà và mua lại căn nhà chị đang ở. Trong suốt thời gian làm về bất động sản, tôi chắc chắn đó là thương vụ tệ nhất. Vì biết tôi muốn mua không phải vì mục đích thương mại, chủ sở hữu thoải mái đưa ra một mức giá cắt cổ và anh ta thực sự đã làm vậy. Cũng không sao cả. Tôi bỏ bản chứng thư vào tập hồ sơ hóa đơn và biên lai hằng tuần và gửi nó qua đường bưu điện cho chị. Maeve, người hiếm khi hào hứng và chưa bao giờ ngạc nhiên, đã tỏ ra vô cùng ngạc nhiên và thích thú.

“Chị đi dạo quanh căn nhà cả buổi chiều,” chị nói với tôi qua điện thoại. “Ngôi nhà trông khác hẳn so với lúc mình chưa sở hữu nó. Chị chưa bao giờ biết điều đó. Nó tuyệt hơn trước nhiều! Giờ không ai có thể bắt chị rời khỏi đây. Chị sẽ giống bà VanHoebeek già. Chị chết đi thì họ mới có quyền làm thế.”

*

Tôi quay lại ghé thăm thành phố và thế là tôi và chị lại ghé qua Ngôi nhà của Người Hà Lan. Bằng cách này chúng tôi có thể thoát được thời điểm giao thông ùn tắc nhất lúc chiều muộn trên đường đến ga tàu. Phía sau những cây đoạn lá bạc, hai người đàn ông lái xe cắt cỏ khổng lồ băng qua bãi cỏ rộng, chúng tôi bèn hạ cửa để hít hà hương thơm của cỏ vừa mới cắt.

Khi đó chúng tôi đều khoảng bốn mươi, tôi gần bốn mươi, còn Maeve gần năm mươi. Các chuyến đi về Jenkintown của tôi từ lâu đã thành thông lệ: tôi xuống tàu vào buổi sáng ngày thứ Sáu đầu tiên của tháng và quay về trong ngày, tiện mang giấy tờ, chứng từ qua cho Maeve. Khi công ty ngày một mở rộng, tôi dễ dàng đi về đó hằng tuần để lọc hóa đơn và hợp đồng với chị gái. Tôi phải đi ít nhất một tháng hai lần nhưng mỗi lần đi là một cuộc chiến với Celeste. Em nói rằng đây là thời gian để ở bên các con. “Kevin và May muốn chơi với cha mẹ,” em nói. “Không phải lúc nào cũng được tận hưởng khoảng thời gian như vậy.” Em nói không sai nhưng tôi vẫn không thể ngừng về nhà và tôi cũng không muốn vậy. Tôi đi ít cốt chỉ để thỏa ý em, dù em không nhận ra điều đó.

Trong những tháng đó, Maeve và tôi còn rất nhiều việc phải làm và chúng tôi hiếm có thời gian để nghĩ ngợi về Ngôi nhà của Người Hà Lan. Việc chúng tôi đỗ xe ở đó giờ chỉ còn là hành động hoài niệm, không phải dành cho những người từng sống trong nhà mà là cho chúng tôi - những người từng đỗ xe hàng giờ và hút thuốc trên đường Van Hoebeek.

“Em có bao giờ ước mình sẽ được trở lại ngôi nhà không?” Maeve hỏi.

Việc cắt cỏ khiến tôi liên tưởng đến những chiếc máy cày và máy kéo. “Em có mua nếu ngôi nhà được rao bán không ư? Có thể. Nhưng nếu hỏi là em có muốn gõ cửa và bước vào căn nhà đó không thì câu trả lời là không!”

Tóc Maeve đã điểm bạc khiến chị trông già trước tuổi. “Không! Điều chị đang nói giống kiểu một giấc mơ hơn: Em có muốn tự mình bước vào nếu được không? Chỉ để nhìn xung quanh và xem chuyện gì đã xảy ra với ngôi nhà đã từng là của chúng ta?”

Sandy và Jocelyn đang ở trong bếp cười đùa trong khi tôi ngồi làm bài tập bên chiếc bàn màu xanh lam, cha tôi uống cà phê, hút thuốc lá vào buổi sáng ở phòng ăn, tay cầm tờ báo. Andrea gõ nhẹ gót giày trên sàn đá cẩm thạch ở tiền sảnh, Norma và Bright vừa chạy lên cầu thang vừa cười, còn Maeve là một nữ sinh, thắt bím tóc hai bên như một tấm chăn dày phủ đến thắt lưng. Tôi lắc đầu. “Không! Không đời nào! Thế còn chị?”

Maeve tựa đầu vào ghế. “Không, dù vì bất cứ thứ gì! Chị nghĩ mình sẽ tổn thương lắm nếu em nói có.”

“Em thấy rất vui khi chị không được mời đến đó.” Ánh sáng hắt lên những ngọn cỏ biến bãi cỏ thành những khoảng màu xanh đậm nhạt xen kẽ nhau.

Maeve khẽ quay lưng về phía tôi để ngắm nhìn cảnh vật bên ngoài. “Chị tự hỏi chúng ta đã thay đổi từ khi nào.”

Chúng tôi đã thay đổi vào một khoảnh khắc nào đó khi những kỷ niệm về ngôi nhà cũ dần bị che lấp bởi kỷ niệm trên những chiếc xe: chiếc Oldsmobile, chiếc Volkswagen, hai chiếc Volvo. Những kỷ niệm của chị em tôi được lưu giữ ở trên đường VanHoebeek chứ không còn ở Ngôi nhà của Người Hà Lan nữa. Nếu ai đó muốn tôi trả lời cụ thể rằng tôi từ đâu tới, tôi sẽ trả lời mình đến từ dải nhựa đường, nơi trước đây từng là nhà của gia đình Buchsbaum, rồi thành nhà của gia đình Schultze và giờ là nhà của những người mà tôi chẳng biết tên. Tôi phát cáu vì phần kim loại của xe làm vườn đang lấn sang chỗ chúng tôi. Tôi không mua bất kỳ ngôi nhà nào trên con phố đó nhưng nếu con phố đó được rao bán, nó sẽ là của tôi. Tôi không nói lời nào cả. Chị hỏi câu nào tôi cũng đáp lại rằng tôi không biết.

“Em nên đi khám tâm lý,” chị khuyên. “Sẽ có ích cho em đấy. Fluffy cũng nói vậy, em biết đấy. Cô ấy nói rằng cô ấy cũng sẽ không quay lại. Cô ấy nói cô ấy đã mơ rằng mình được đi bộ từ phòng này sang phòng khác trong Ngôi nhà của Người Hà Lan nhiều năm và thấy họ: cha mẹ cô ấy, Sandy, Jocelyn, nhà VanHoebeek và mọi người sẽ có khoảng thời gian tuyệt vời với một bữa tiệc hoành tráng. Họ từng tổ chức những bữa tiệc lớn mang phong cách Gatsby khi cô ấy còn là một đứa trẻ. Cô ấy thừa nhận bấy lâu nay, tất cả những gì cô ấy muốn là trở lại ngôi nhà, nhưng giờ cô ấy không nghĩ mình có thể bước vào nếu cánh cửa đó mở ra.”

Fluffy từ lâu đã được chào đón trở lại. Sandy, Jocelyn, Fluffy và Maeve lại ở cùng nhau: đầy tớ của Ngôi nhà của Người Hà Lan và nữ chủ nhân của họ đi ra ngoài ăn ba tháng một lần, gạt bỏ đi hết những sai lầm trong quá khứ. Maeve tin vào tính xác thực trong ký ức của Fluffy hơn cả Sandy và Jocelyn, thậm chí là cả chính chị vì Fluffy đã rời đi với những ký ức đó. Sandy và Jocelyn không ngừng nói chuyện với nhau, gặm nhấm từng mảnh quá khứ cùng Maeve nhưng Fluffy thì không. Sau khi cha tôi đuổi cô ấy ra đường với chiếc va li thì cô biết nói chuyện với ai chứ? Chủ mới? Bạn trai? Ngay cả khi làm việc ở nhà chúng tôi, cô ấy cũng kể những câu chuyện mà Celeste thích nghe, những câu chuyện về gia đình VanHoebeek, những bữa tiệc thâu đêm và những bộ đồ lộng lẫy. Celeste mất hứng thú ngay khi câu chuyện chuyển đến gia đình Conroy. Tôi nghĩ là do Maeve là trung tâm của những câu chuyện đó, nhưng thế lại tốt hơn nhiều. Những câu chuyện của Fluffy vẫn mới mẻ vì cô luôn giữ chúng cho riêng mình. Fluffy có cái nhìn chân thực nhất về sự thật trong quá khứ.

“Fluffy kể với chị là mẹ muốn trở thành một nữ tu,” Maeve kể. “Em có nghĩ rằng ý nghĩ ấy đã xuất hiện trong một khoảnh khắc nào đó không? Bà ấy đã bắt đầu tu tập khi cha xuất hiện và ông đã kéo bà ra khỏi tu viện để kết hôn. Fluffy nói rằng họ lớn lên cùng khu phố. Cha là bạn của bác James, anh trai của mẹ. Chị bảo với cô ấy rằng chị biết điều đó, rằng chúng ta đã đến Brooklyn khi còn nhỏ và tìm thấy tòa chung cư nơi họ từng sống. Fluffy nói cha đến thăm mẹ trước khi mẹ thực hiện lời thề trước Chúa và đấy là khởi nguồn của mọi chuyện. Tất cả những lần mẹ bỏ đi trước đó, bà đều trở lại tu viện. Các nữ tu rất yêu mến mẹ. Ý chị là mọi người đều yêu mến bà nhưng các nữ tu đặc biệt yêu quý bà. Họ luôn gọi cho cha và xin cho bà ở lại thêm vài ngày nữa. ‘Cô ấy cần thêm chút thời gian để nghỉ ngơi.’ Đó là tất cả những gì họ nói.”

“Thế thì tiện cho mẹ quá.”

Hai cái máy cắt cỏ đang lùi xuống lối vào rồi rẽ xuống đường. Một người ra hiệu cho Maeve lùi lại để họ có thể tấp lên xe kéo. “Chị phải nói rằng giờ điều đó chẳng có gì quan trọng,” chị nói. “Nhưng nếu chị biết điều này thời niên thiếu, chị thề rằng mình sẽ vào tu viện chỉ để chọc tức cha.”

Tôi mỉm cười nghĩ đến hình ảnh Maeve cao ráo và nghiêm nghị trong bộ trang phục màu xanh nước biển. Tôi tự hỏi liệu mẹ có còn ngoài đó, đang làm việc trong một bếp xúp đâu đó ngoài kia không, và liệu đó có phải cách mẹ thể hiện mình muốn làm tu sĩ không. Đáng lẽ tôi phải kể cho Maeve nghe chuyện đó nhiều năm trước - khi tôi biết chuyện, nhưng tôi lại chẳng bao giờ kể. Vấn đề ngày càng phức tạp vì tôi đã chôn vùi mọi thứ quá lâu. “Em chắc chắn điều đó sẽ thu hút được sự chú ý của cha.”

“Ừ.” Maeve khởi động xe và lùi lại. “Đáng lẽ nên làm vậy.”

✽ ✽ ✽

“Chúa ơi,” Celeste thốt lên sau khi tôi kể cho em nghe câu chuyện. “Anh và chị ấy như kiểu là Hansel và Gretel[2] vậy. Hai người nắm tay nhau đi qua khu rừng tối cho dù hai người có già đến cỡ nào. Anh có bao giờ thấy mệt mỏi khi nghĩ về quá khứ không?”

Tôi đã trải qua khoảng thời gian dài tự hứa với bản thân rằng sẽ không kể chuyện gì về chị gái cho Celeste nghe, chỉ nói với em về thời tiết ở Jenkintown hoặc chuyến tàu về nhà, vậy thôi. Nhưng điều đó đã khiến em tức giận, em cảm thấy tôi đẩy em ra xa tôi, thế nên tôi quyết định đổi ý, cho rằng em đúng. Các cặp vợ chồng đều kể cho nhau nghe những gì đang diễn ra trong cuộc sống của mình. Các bí mật chẳng dẫn đến việc gì tốt đẹp cả. Những ngày đó, tôi đã thành thật trả lời mọi câu hỏi của em về chuyến đi đến Jenkintown hoặc chuyện gì xảy ra với Maeve.

Nhưng câu trả lời của tôi chẳng thay đổi được gì vì dù nó có ôn hòa đến mức nào cũng làm cô ấy khó chịu. “Chị ấy đã gần năm mươi rồi! Chẳng nhẽ chị ấy vẫn nghĩ chị ấy sẽ tìm được mẹ và đoạt lại được ngôi nhà sao?”

“Anh không hề nói vậy. Anh nói chị ấy kể với anh rằng mẹ bọn anh muốn vào tu viện khi bà còn trẻ. Anh nghĩ đấy là một câu chuyện thú vị. Một thời đã qua.”

Celeste không buồn lắng nghe. Khi Maeve lo lắng, chị cũng chẳng thèm nghe. “Anh có bao giờ nói với chị ấy rằng, được rồi, đó là một tuổi thơ tồi tệ, thật kinh khủng khi đang giàu có lại rơi vào cảnh nghèo túng, nhưng rồi rốt cuộc thì ai cũng phải lớn không?”

Tôi đã cố gắng không chỉ ra điều mà chính em cũng biết rõ, rằng; cha mẹ em vẫn đang sống khỏe mạnh, vẫn đang sống trong nhà của gia đình Norcross ở Rydal, vẫn đau lòng vì một trong những chú chó săn Labrador của họ đã lao ra khỏi cổng và bị ô tô cán khi em còn trẻ. Họ là những người tốt: người nhà của Celeste, và những điều tốt đẹp đến với họ. Tôi ước mọi điều tốt đẹp vẫn sẽ đến với họ.

Điều tôi không đánh giá cao là Celeste đặt câu hỏi về việc Maeve không đến thành phố trong khi việc Maeve đến nhà chúng tôi là điều cuối cùng mà em muốn. “Công việc quan trọng với rau củ đông lạnh khiến chị ấy bận rộn tới mức không thể đến đây một ngày được sao? Chị ấy mong anh bỏ hết mọi thứ - công việc, gia đình - để chạy đến gặp chị ấy lúc chị ấy gọi sao?”

“Anh đi đến đó đâu phải để giúp chị ấy cắt cỏ. Chị ấy làm việc miễn phí cho chúng ta. Đi về đó là điều tối thiểu mà anh làm được cho Maeve.”

“Lần nào cũng vậy sao?”

Em không bao giờ nói trắng ra nhưng đối với em rõ ràng là Maeve không có chồng, không có con, vì vậy chị có nhiều thời gian rảnh rỗi hơn. “Em nên cân nhắc cẩn thận điều em muốn,” tôi nói. “Anh không nghĩ là em sẽ vui hơn nếu Maeve đến đây mỗi tháng một lần đâu.”

Trong khi tôi nghĩ rằng mình chuẩn bị rơi vào một cuộc tranh cãi đầy căng thẳng thì câu nói này khiến Celeste ngừng lại. Em úp mặt vào lòng bàn tay rồi bắt đầu cười. “Chúa ơi, Chúa ơi,” em lên tiếng. “Anh nói đúng rồi. Hãy đến Jenkintown đi. Em không biết mình đang nói gì nữa.”

Maeve không cần nói tôi biết lý do sao chị lại ghét New York: giao thông, rác thải, đông đúc, ô nhiễm tiếng ồn, nghèo đói hiện diện ở khắp mọi nơi - chị có thể kể bất kỳ lý do nào. Cuối cùng, tôi hỏi chị sau nhiều năm băn khoăn, chị nhìn tôi như thể bất ngờ khi tôi không biết lý do.

“Gì nào?”

“Celeste,” chị nói.

“Chị không muốn đến New York chỉ để tránh Celeste thôi sao?”

“Còn lý do nào khác nữa?”

Chuyện Maeve và Celeste khó chịu với nhau vì điều gì thì giờ cũng không còn rõ ràng nữa. Họ ghét nhau như một thói quen. Tôi không thể không nghĩ rằng nếu họ gặp nhau trước mà không dính dáng đến tôi thì hẳn họ đã thành tri kỷ. Họ thông minh, vui tính và vô cùng trung thành, chị tôi và vợ tôi là thế. Họ tuyên bố yêu tôi hơn tất thảy những người khác mà không nhận thấy rằng tôi đã phải chịu đựng như thế nào khi họ không ưa nhau. Tôi quy trách nhiệm cho cả hai. Đáng lẽ họ có thể tránh được điều đó. Họ có quyền lựa chọn thích nhau hay không nhưng họ đã không làm vậy. Họ cứ ghim mãi trong lòng những điều không tốt của đối phương, cả hai bọn họ.

Ngay cả khi việc không đến thành phố được Maeve coi như là quy tắc của riêng mình, chị vẫn nhận ra quy tắc nào cũng có ngoại lệ. Chị tới, trong buổi rước lễ lần đầu của May và Kevin và thỉnh thoáng chị cũng đến vào dịp sinh nhật. Chị hạnh phúc nhất là khi lũ trẻ đến chơi nhà Norcross, khi đó Maeve luôn được mời sang ăn tối. Chị sẽ đưa Kevin về nhà vào buổi tối rồi đưa thằng bé đi làm cùng sáng hôm sau. Kevin, vốn không muốn ăn rau, lại thấy rau đông lạnh là một thứ đồ hấp dẫn. Thằng bé mê tít nhà máy. Nó thích sự trật tự và độ chính xác của những cỗ máy khổng lồ bằng thép được dùng trong chế biến những củ cà rốt bao tử, yêu cái lạnh tràn ngập khắp nơi khiến mọi người mặc áo len vào tháng Bảy. Kevin nói đó là do gia đình ông Otterson là người Thụy Điển. “Những người đến từ vùng băng giá,” thằng bé nhận xét. Thằng bé coi ông Otterson là Willy Wonka[3] trong giới rau củ. Sau khi thằng bé hài lòng với một ngày được ngắm nghía những hạt đậu đóng kín trong túi nhựa, Maeve sẽ trả thằng bé ở nhà ông bà ngoại, ở đó Kevin sẽ gọi cho mẹ và nói rằng muốn làm việc trong ngành rau củ.

Một ngày dành cho May không giống như một ngày dành cho Kevin. May muốn xem từng trang album với bác mình, đặt ngón tay dưới cằm và đặt câu hỏi. “Bác Maeve,” con bé sẽ nói, “hồi đó bác trẻ vậy sao?” May không thích gì hơn là được ngồi trong xe, đậu trước Ngôi nhà của Người Hà Lan với bác mình như thể việc ăn mày quá khứ là thứ có tính di truyền. May khẳng định rằng con bé cũng đã sống ở đó khi còn bé, rất bé để có thể nhớ được điều gì. Con bé sắp xếp các câu chuyện của Fluffy về những bữa tiệc và xếp nó vào ký ức tuổi thơ của chính mình. Thỉnh thoảng con bé nói rằng mình sống ở trên ga ra với Fluffy và cùng uống sâm panh. Lần khác, con bé lại nói mình là họ hàng xa của nhà VanHoebeek, từng ngủ trong những căn phòng lộng lẫy có bệ ngồi bên cửa sổ mà con bé đã từng nghe kể rất nhiều. Con bé thề rằng mình nhớ mọi chuyện.

Đêm nọ, Maeve gọi cho tôi sau khi con gái tôi đang say giấc trong phòng khách. “Khi chị nói với con bé rằng ngôi nhà có bể bơi, con bé đã cáu điên lên. Giờ ở đây đang nóng quá, phải đến gần bốn mươi độ và May nói: ‘Con có quyền được bơi ở đó.’”

“Rồi chị nói gì với con bé?”

Maeve bật cười. “Chị nói sự thật với con bé, con cún nhỏ tội nghiệp. Chị nói rằng nó chẳng có quyền gì cả.”

Chú thích:

[1] Tên trong nguyên tác là The Carrot Seed: cuốn truyện dành cho thiếu nhi của nhà văn nổi tiếng Ruth Krauss, được xuất bản lần đầu tiên năm 1945.

[2] Nhân vật trong Truyện cổ Grimm.

[3] Willy Wonka: nhân vật chủ nhà máy sô cô la trong cuốn tiểu thuyết văn học thiếu nhi Charlie và nhà máy sô cô la xuất bản năm 1964 của nhà văn Roald Dahl.