Chương 15
Dạo đó, May rất nghiêm túc với việc tập ba lê. Con bé giành được một suất vào Trường Ba lê Hoa Kỳ năm lên tám. Con bé được nhận xét rằng nó có thể nhảy bằng mũi chân và tạo những cú xoay tinh tế và đẹp mắt. Mỗi sáng, May đều búi cao tóc, chống một tay lên bệ bếp rồi thực hiện các động tác xoay chín mươi độ. Nhiều năm sau, con bé nói với chúng tôi rằng nó coi ba lê là con đường ngắn nhất dẫn đến sân khấu và con bé đã đúng. Năm mười một tuổi, con bé đảm nhận vai trong đội quân chuột của vở Kẹp Hạt Dẻ do Vũ đoàn ba lê thành phố New York sản xuất. Trong khi những đứa trẻ khác thích mặc những chiếc váy ba lê vải tuyn và múa với những bông tuyết thì May lại thích thú với cái đầu đầy lông to quá khổ và cái đuôi dài ngoằng như một chiếc roi da.
“Bà Elise nói rằng các công ty nhỏ hơn để trẻ em đóng nhiều phần khác nhau trong một vở kịch,” May kể lại với chúng tôi khi con bé thử vai diễn. “Nhưng Vũ đoàn ba lê thành phố New York có quá nhiều tài năng. Thế nên nếu bạn nào làm chuột thì chỉ là làm chuột mà thôi. Đấy là tất cả những gì bạn nhận được.”
“Không có vai diễn nào là nhỏ cả,” mẹ con bé an ủi. “Chỉ có những con chuột nhỏ thôi.”
May tập cho vai diễn suốt cả mùa thu, giữ tay cuộn tròn dưới cằm khi chạy quanh nhà, gặm cà rốt bằng răng cửa khiến Kevin vô cùng khó chịu. Con bé khăng khăng muốn bác đến xem buổi biểu diễn của mình ở sân khấu của Vũ đoàn ba lê thành phố New York (May bộc bạch), và bác con bé đồng ý rằng đây chính xác là dịp để phá vỡ quy tắc của chính mình.
Maeve đã lên kế hoạch đưa gia đình Celeste vào thành phố vào sáng Chủ nhật công diễn đầu tiên. Chị sẽ tới Rydal đón họ, sau đó lái xe đến ga tàu để có thể đi cùng nhau. Một người anh trai của Celeste sống ở New Rochelle, còn chị gái sống ở thành phố nên họ sẽ đến cùng với gia đình. Chúng tôi gây ấn tượng mạnh mẽ cho toàn bộ khán giả, tự hỏi không biết làm thế nào để nhận ra con chuột nhà mình. Khi ánh đèn sân khấu vụt tắt và dưới khán đài đã ổn định vị trí, tấm màn được kéo lên với khúc mở màn của Tchaikovsky. Những đứa trẻ xinh xắn ăn mặc trang phục biểu diễn chạy ùa ra chỗ cây thông Noel. Ánh sáng rực rỡ trên đó như thể được phát ra từ Ngôi nhà của Người Hà Lan. Nó khiến tôi thấy như được vào ngôi nhà thêm lần nữa. Dù biết nó là ảo ảnh mà tôi tự tưởng tượng ra nhưng sao mà sống động đến thế. Maeve ngồi cách tôi nửa tá ghế, giữa hàng dài hai gia đình Norcross và Conroy, thế nên tôi không cách nào dựa vào vai chị để hỏi chị có nhìn thấy ảo ảnh đó không: hai bức chân dung khổng lồ của những người không phải nhà VanHoebeek, mỗi người quay về một hướng, treo trên mặt lò sưởi được xây dựng công phu. Kia là chiếc trường kỷ dài màu xanh lá. Nhà chúng tôi liệu từng có cái nào màu xanh vậy chưa? Bàn, ghế rồi đến chiếc trường kỷ thứ hai, chiếc tủ kín đồ sộ nặng nề, bên trong đầy ắp những cuốn sách bìa da đẹp đẽ đều được viết bằng tiếng Hà Lan. Tôi nhớ lần đầu lấy chìa khóa tủ trong hộc bàn khi còn là một cậu bé. Tôi phải đứng trên ghế mới có thể với được đến ổ khóa để mở nó ra. Hết cuốn sách này đến cuốn khác được lấy ra khỏi tủ với sự ngạc nhiên của tôi khi thấy bảng chữ cái mình đã quen thuộc lại được sắp xếp với trật tự lạ thường. Sân khấu ba lê được chuẩn bị như vậy. Tôi nhận ra chiếc đèn chùm treo trên sân khấu, không thể nào lẫn được. Tôi cứ nhìn chằm chằm chiếc đèn chùm đó mãi. Ánh sáng kết hợp với sự óng ánh của pha lê rọi xuống, chiếu rõ những ngày thơ ấu của tôi như thể tự thôi miên. Tôi đã đọc về điều đó trong thư viện. Tất nhiên phân cảnh đồ đạc đã được sắp xếp để thành hoạt cảnh phụ, làm nền cho các vũ công, nhưng chỉ cần cho tôi lên và sắp xếp lại là tôi có thể quay trở về thời thơ ấu của mình. Thực không chỉ có Kẹp Hạt Dẻ, bất kỳ khung cảnh sang trọng nào nhìn từ xa đều như cánh cổng về tuổi thơ của tôi. Đó là một tuổi thơ đã trôi qua quá lâu rồi. Celeste ngồi bên trái, Kevin ngồi bên phải, ánh đèn sân khấu hắt lên khuôn mặt của vợ con tôi. Những khách mời của buổi tiệc đang nhảy múa và những đứa trẻ nắm tay nhau tạo thành một vòng tròn xung quanh họ. Cuối cùng, tất cả cùng nhảy vào cánh gà và ánh đèn buông xuống, những con chuột tiến vào theo sau Vua Chuột độc ác. Chúng lăn lộn trên sàn, đá đôi bàn chân nhỏ bé lên không trung một cách giận dữ. Tôi nắm lấy tay Celeste. Rất nhiều chuột! Cũng có nghĩa là rất nhiều đứa trẻ tham gia biểu diễn. Binh lính của Kẹp Hạt Dẻ kéo đến, hỗn chiến xảy ra, những chiến binh chuột chết bị kéo đi nhường chỗ cho những vũ công khác.
Trong hoạt cảnh đầu tiên có giữ lại một phần diễn biến cốt truyện nhưng ở hoạt cảnh thứ hai không có gì ngoài khiêu vũ: vũ công Tây Ban Nha, vũ công Ả Rập, vũ công Trung Quốc, vũ công Nga và những điệu nhảy tạo hình hoa không dứt. Phàn nàn về việc nhảy múa quá nhiều trong một vở ba lê là không hợp lý, nhưng không có đám chuột để mà mong đợi, không có đồ đạc để ngắm nghía, tôi đã phải vật lộn để tìm ra ý nghĩa của việc ngồi đây. Kevin chọc chọc vào cánh tay tôi, tôi nghiêng người về phía thằng bé. Tôi có thể ngửi thấy mùi kẹo béo Lifesaver từ miệng thằng bé. “Sao dài vậy cha?” Thằng bé thì thầm.
Tôi nhìn thằng bé vẻ bất lực và thốt lên rằng: “Cha không biết.” Celeste và tôi đã nỗ lực để đưa bọn trẻ đến nhà thờ khi chúng còn nhỏ, sau đó đã từ bỏ và để chúng lại trên giường. Trong thành phố không ngủ này, chúng tôi đã không thể giúp chúng có cơ hội phát triển đời sống nội tâm mạnh mẽ trong những dịp như ngồi xem màn thứ hai vở Kẹp Hạt Dẻ.
Cuối cùng, khi vở ba lê kết thúc, các diễn viên Cô tiên, Kẹo bi, Kẹp Hạt Dẻ, Clara, Chú Drosselmeyer và những bông tuyết đều được nhận những tràng pháo tay như sấm rền (không có màn chuột ra chào!), khán giả cầm áo khoác và đi dọc các lối đi, tất cả ngoại trừ Maeve. Chị ngồi yên tại chỗ, mắt nhìn thẳng. Tôi nhận thấy mẹ vợ tôi đặt tay lên vai Maeve, sau đó nghiêng người để thủ thỉ gì đó. Mọi người đi qua đi lại xung quanh chúng tôi. Gia đình chúng tôi, do không tiến lên phía trước, đã chặn đường những người khác. Các bà các mẹ ngồi chật kín hàng ghế bên cạnh chúng tôi đã quay đầu để đi theo lối ngược lại.
“Danny?” Mẹ vợ tôi gọi.
Chúng tôi quây lại thành một nhóm lớn gồm hai người nhà Conroy và nhiều người nhà Norcross - đầy đủ con cái, vợ chồng, anh chị em. Tôi lách qua họ. Mồ hôi lấm tấm trên mũi và cằm của Maeve. Tóc chị ướt sũng như thể vừa ra khỏi bể bơi trong lúc những người còn lại đang xem vở ba lê. Ví của Maeve nằm trên sàn, tôi tìm thấy trong đó một chiếc hộp nhựa màu vàng cũ được buộc chặt lại bởi dây chun rồi lấy hai viên glucose ra khỏi chiếc hộp nhựa đó.
“Về nhà,” chị thì thầm, vẫn cố nhìn thẳng dù mắt đã sụp xuống.
Tôi đẩy lần lượt hai viên glucose vào miệng chị rồi bảo chị nhai chúng.
“Giờ ta nên làm gì?” Cha vợ tôi hỏi. Maeve đã đón họ và dẫn họ lên tàu vì không ai trong số chúng tôi muốn cha Bill Norcross lái xe vào thành phố. “Có cần gọi xe cấp cứu không?”
“Không,” Maeve đáp mà không quay đầu lại.
“Chị ấy không sao đâu ạ,” tôi nói với cha Bill như thể đây là việc thường ngày của chị em tôi. Tôi đang rất bình tĩnh.
“Chị cần...” Maeve nói rồi nhắm mắt lại.
“Sao cơ?”
Ngay lúc đó, Celeste và Kevin xuất hiện với ly nước cam và bọc đá đầy. Tôi không để ý họ rời đi lúc nào nhưng họ trở lại với những thứ cần thiết. Họ biết. Đứng ở hàng ghế sau, Celeste vén mái tóc mềm của Maeve lên rồi đặt túi đá chườm lên cổ chị. Kevin đưa cốc nước cam cho tôi.
“Sao hai mẹ con kiếm được những thứ này nhanh vậy?” Lối đi giờ chật cứng những cô bé đang háo hứng kể lại những cú xoạc chân điêu luyện với người giám hộ của chúng.
“Con chạy,” con trai tôi đáp, hổn hển sau khi được xả năng lượng dư thừa suốt màn trình diễn. “Con nói đây là trường hợp khẩn cấp.”
Kevin biết cách lách giữa đám đông - lợi ích từ việc lớn lên trong thành phố. Tôi đặt khăn tay dưới miệng Maeve.
“Uống một ngụm đi.”
“Chị con ghen tị phát điên vì con là người đi lấy nước cam đấy,” Celeste nói với Kevin. “Con bé thà làm người hùng còn hơn đóng vai con chuột.”
Kevin mỉm cười. Thằng bé khá mệt nhưng không phàn nàn vì biết đấy là phần thưởng xứng đáng sau khi ngồi yên xem một vở ba lê nhàm chán. “Bác ấy sẽ ổn chứ ạ?”
“Bác ổn,” Maeve nói khe khẽ.
“Cha đưa mọi người ra ngoài sảnh giúp con,” Maeve nói với cha, cũng như Kevin, ông đang chờ để giúp. “Một phút nữa bọn con sẽ có mặt.”
Maeve nhắm mắt rồi mở mắt to hơn. Chị đang cố nhai những viên đường và uống ly nước cam nhưng có vẻ không nổi. Chúng cứ chảy khỏi khóe miệng chị. Tôi đưa ly cho Celeste và lấy một que thử ra khỏi chiếc hộp màu vàng. Tôi chạm vào bàn tay ướt đầm, lạnh lẽo của Maeve.
“Anh nghĩ đã có chuyện gì vậy?” Celeste hỏi tôi.
Maeve gật đầu, cố nuốt. Chị đang dần lấy lại ý thức. “Múa lâu quá.”
Mọi người luôn vội vã rời khỏi nhà hát. Họ hy vọng được là người đầu tiên dùng nhà vệ sinh, bắt được taxi và đến nhà hàng trước khi bàn đặt bị hủy. Chỉ mới mười phút kể từ lúc cơn mưa tràng vỗ tay nổ ra, hoa được ném lên sân khấu, giờ thì Nhà hát Kịch New York đã gần như trống trơn. Chỉ còn lại những cô bé, những người ngồi hàng ghế đầu đang bước ra lối đi trong chiếc áo khoác cổ lông. Tất cả hàng ghế nhung đã tự động gập lại. Người chỉ chỗ ngồi của nhà hát dừng lại ở hàng ghế của chúng tôi, một người phụ nữ mặc áo sơ mi trắng, vét xanh cài khuy. “Mọi người có cần giúp đỡ gì không ạ?”
“Chị ấy không sao,” tôi nói. “Chị ấy chỉ cần ngồi lại thêm chút nữa.”
“Anh ấy là bác sĩ,” Celeste trình bày.
Maeve cười, khẩu hình tạo ra từ bác sĩ.
Người phụ nữ gật đầu. “Nếu cần gì, hãy báo với chúng tôi.”
“Chúng tôi chỉ cần ngồi đây thêm chút nữa.”
“Cứ thoải mái,” người phụ nữ đáp.
“Xin lỗi vì sự bất tiện này,” Maeve nói. Tôi lau mặt cho chị. Que thử cho biết lượng đường của chị đang ở mức ba mươi tám. Lượng đường trung bình ở mức chín mươi và tôi sẽ rất hạnh phúc khi nó đạt ở ngưỡng bảy mươi.
“Lẽ ra chị nên báo với ai đó là chị không được khỏe chứ.” Celeste trách móc, đưa túi chườm lên đỉnh đầu Maeve.
“Ôi, thoải mái quá,” Maeve nói. “Chị không muốn đứng dậy. Chị nghĩ...” Chị hít một hơi thật sâu rồi nhắm mắt lại.
Tôi bắt chị uống thêm một ngụm nước cam.
Chị nuốt rồi lại nói: “Chị không muốn làm hỏng buổi ba lê.” Maeve mặc chiếc áo cánh, bên ngoài là chiếc áo len đi cùng chiếc quần dài len. Giờ chúng đều ướt sũng.
Celeste dùng một tay túm gọn tóc Maeve lại, tay kia cầm túi đá chườm. “Em sẽ ra phía sau cánh gà để đón May và cả nhà sẽ đi ăn tối,” em nói với tôi. “Khi Maeve cảm thấy ổn hơn, hãy đưa chị ấy về nhà.”
“Danny đi cùng mọi người đi,” Maeve nói. Chị ấy vẫn chưa đủ tỉnh táo để nhìn hai chúng tôi.
“Danny sẽ không đi đâu cả,” Celeste phản đối. “Cả gia đình sẽ ở đó và không có vấn đề gì nếu thiếu anh ấy cả. Điều đó cũng giảm căng thẳng phần nào, được chứ ạ? Chị đang ốm. Chắc chắn May sẽ muốn gặp chị, vì vậy về nhà đi thôi.” Em đưa tôi mấy viên đá chườm bọc trong chiếc khăn tay. Viên glucose đang phát huy tác dụng. Tôi nhìn thấy sự sống đang dần hiện lên trên khuôn mặt của Maeve.
“Hãy nói với May giúp chị rằng con bé là một chú chuột tuyệt vời,” Maeve thều thào.
“Chị tự nói với con bé nhé,” Celeste đáp.
“Chị phải đưa cha mẹ em về nhà.” Giọng Maeve, thường sẽ bùng nổ trong hoàn cảnh này, giờ rất nhẹ. Tôi không biết sao Celeste có thể nghe thấy giọng chị. Giọng chị nhẹ đến nỗi tôi cảm giác nó sẽ bay lên kịch trần nhà hát.
Celeste lắc đầu. “Chị chỉ cần làm theo lời Danny để chóng bình phục nhé. Em phải đi đây.”
Tôi nghiêng người hôn Celeste. Em đã xử lý trên cả tuyệt vời trong hoàn cảnh này. Em bước qua người giữ cửa đang quay lại lối đi để nhặt những thứ vương vãi trên sàn nhà, quét giấy gói kẹo gọn vào thùng rác.
Maeve và tôi ngồi cùng nhau trong nhà hát. Chị tựa đầu lên vai tôi.
“Con bé thật tử tế,” Maeve nhận xét.
“Gần như lúc nào cô ấy cũng tử tế.”
“Nhẹ cả người,” Maeve nói.
“Chị thấy đỡ hơn chứ?”
“Cũng đỡ hơn chút rồi. Thật tốt khi được ngồi lại.” Chị cầm lấy khăn tay rồi thấm lên mặt, lên cổ. Tôi nắm tay chị rồi châm kim lên đầu ngón tay để thử lại lượng đường huyết.
“Bao nhiêu?”
Tôi nhìn vào que thử. “Bốn mươi hai.”
“Chị em mình sẽ ngồi lại thêm chút nữa.” Chị nhắm mắt lại.
Tôi nhìn qua biển ghế trống, hít hà hương nước hoa hòa quyện vẫn còn thoang thoảng trong không khí. Những con chuột, những bông tuyết, cây thông Noel, hoạt cảnh phòng khách và khán giả ngồi trong bóng tối xem kịch - mọi thứ giờ đã biến mất, mọi người đã rời đi, chỉ còn lại hai chúng tôi.
Đó chỉ là một sai lầm nho nhỏ. Maeve sẽ ổn thôi.
Tôi bắt đầu nghĩ rằng mình có thể đưa Maeve ra xe rồi chở chị đi xem những tòa nhà của tôi. Tôi có thể chở chị đến Harlem và cho chị xem ngôi nhà xây bằng đá kết nâu đầu tiên tôi sở hữu, sau đó chở chị đến Washington Heights và cho chị xem Tòa nhà Khoa học Chăm sóc Sức khỏe Cộng đồng nằm trên hai bãi đỗ xe mà tôi từng sở hữu trong năm tháng. Tôi có thể cho chị tham quan một lượt tất cả những nơi đó. Maeve có thể biết tình hình tài chính công ty của tôi nhưng chị chưa bao giờ thực sự trông thấy nó. Kết thúc chuyến tham quan, chúng tôi có thể thư giãn ở quán Café Luxembourd và thưởng thức bít tết trước khi về nhà. Kevin và May sẽ rất sung sướng khi thấy chị ở nhà đến nỗi Celeste và Maeve sẽ phải gác lại nỗi bất hòa. Nếu điều đó thực sự xảy ra thì hôm nay đúng là một ngày đặc biệt dù chúng tôi đã phải ngồi xem vở kịch Kẹp Hạt Dẻ khiến cho lượng đường huyết của chị sụt giảm nghiêm trọng. Dù sao thì Celeste cũng đã giúp chị trong lúc nguy khốn, Maeve rất biết ơn vì điều đó. Ngay cả những mỗi thù xa xưa nhất cũng sẽ có lúc được xóa bỏ. Sau một ly rượu, nếu chị có thể uống một ly, Maeve sẽ leo lên cầu thang phòng May, đẩy những con thú nhồi bông ra khỏi chiếc giường thứ hai để chúng có thể nằm đối diện nhau trong bóng tối. May sẽ kể cho chị nghe thế giới từ đôi mắt của con bé khi đứng trên sân khấu và Maeve sẽ kể cho con bé nghe chị thấy gì khi ngồi ở hàng ghế thứ mười bốn. Trên lầu, trong phòng ngủ của chúng tôi, Celeste sẽ nói với tôi rằng chị gái tôi ở đây cũng được, hoặc hơn cả từ cũng được. Cuối cùng cô ấy sẽ nhìn thấy được con người của Maeve, giống như tôi vậy.
“Không,” Maeve kiên quyết. “Cho chị về nhà đi.”
“Thôi nào,” tôi van nài. “Đêm nay là một đêm trọng đại mà.”
Chị kéo cổ áo len. “Chị không thể mặc đồ này đi ngủ được. Thậm chí chị còn không biết liệu có thể chịu nổi chúng trên đường lái xe về nhà không.”
“Em sẽ lấy quần áo cho chị. Chị có nhớ hồi em đến và ở lại với chị trong trường chị không? Cha để em lại mà không có bàn chải hay bất kỳ thứ đồ gì. Chị đã dẫn em đi mua đồ mà.”
“Ôi Danny ơi! Em nghiêm túc đấy chứ? Chị không thể đi mua sắm hay dành cả tối để nói chuyện với nhà Norcross về ba lê được. Chị gần như không mở nổi mắt đây. Xe chị đang để ở ga xe lửa. Sáng mai chị có một cuộc họp ở chỗ làm. Giờ chị chỉ muốn ăn gì đó và ngủ trên chiếc giường của chính mình.” Chị quay về phía tôi. Một lúc sau, chúng tôi sẽ bị mời ra khỏi Nhà hát Kịch New York.
Tất nhiên là chị đã đúng. Đáng lẽ tôi nên nghĩ đến việc tôi sẽ đưa chị ra đến sảnh đợi như thế nào, chứ không phải chuyện chúng tôi đi tham quan thành phố và thức lúc nửa đêm. Mong manh không phải từ dùng để miêu tả chị gái tôi nhưng nét mặt chị bây giờ hiện lên điều đó. Chị nắm lấy tay tôi. “Chị sẽ nói cho em biết phải làm gì: em chở chị về nhà và ngủ luôn ở đó. Đã bao năm rồi em không ngủ ở nhà chị? Vào buổi sáng, chị em mình sẽ dậy trước cả những chú chim. Lúc đó, sức khỏe chị đã ổn định trở lại. Em có thể chở chị đến nhà ga để lấy xe, sau đó lái xe thẳng vào thành phố trước giờ cao điểm. Em có thể có mặt ở nhà lúc bảy giờ. Như vậy sẽ không có vấn đề gì, phải không? Celeste có gia đình của con bé ở đây.”
Sẽ có nhiều vấn đề nhưng tôi không nghĩ được cách nào khác. Trong lúc mọi người ăn bữa tiệc chúc mừng May, trước khi mang ra chiếc bánh hình con chuột mà Celeste đã đặt trước, tôi và Maeve bắt taxi trở về nhà. Tôi biết May sẽ rất thất vọng, Celeste thì sẽ vô cùng tức giận, nhưng tôi cũng biết là Maeve ốm thế nào và chị đang kiệt sức ra sao. Tôi biết rằng chị cô đơn trên thế giới này và chị cũng sẽ làm vậy với tôi. Maeve ngồi trên một chiếc ghế nhỏ được chúng tôi kê ở cửa để đi giày vào mùa đông, còn tôi chạy lên lầu, đóng gói túi đồ và để lại lời nhắn.
Maeve ngủ trên xe suốt quãng đường về nhà. Đó là vào đầu tháng Mười hai, ngày ngắn và lạnh. Tôi lái xe đến Jenkintown trong bóng tối, trong đầu quanh quẩn ý nghĩ về bữa tối mà tôi đã bỏ lỡ, về việc May múa trong bộ dạng một chú chuột. Tôi đã gọi điện về ngay khi chúng tôi đến nhà Maeve nhưng không có ai bắt máy. “Celeste ơi, Celeste, Celeste,” tôi nói vào máy. Tôi hình dung em đang trong bếp, nhìn điện thoại rồi quay đi. Maeve đi thẳng vào nhà tắm, còn tôi làm trứng và bánh mì nướng như hồi chúng tôi ăn trên chiếc bàn nhỏ trong bếp nhà chị trước kia. Chúng tôi đi ngủ lúc chưa đến tám giờ.
Tôi nói: “Ít nhất thì mỗi người có một phòng ngủ riêng. Chị sẽ không phải ngủ trên ghế dài.”
“Chị chẳng ngại ngủ trên ghế dài mà,” chị khẳng định.
Chúng tôi chúc nhau ngủ ngon ngoài hành lang. Phòng ngủ thứ hai trong nhà được Maeve biến thành phòng làm việc. Tôi nhìn vào giá sách đầy những cuốn ghi CONROY ở gáy. Tôi định lôi một cuốn xuống để quên đi những muộn phiền trong ngày nhưng rồi một phút sau khi nhắm mắt tôi đã chìm sâu vào giấc ngủ...
Maeve gõ cửa phòng. Chị đã kéo tôi khỏi cơn ác mộng khi tôi đang cố bơi đến chỗ Kevin nhưng mọi nỗ lực càng đẩy thằng bé ra xa cho đến khi tôi thấy đầu thằng bé trên mặt nước. Tôi liên tục gọi thằng bé bơi lại về phía mình nhưng thằng bé ở quá xa, không nghe thấy. Tôi ngồi thẳng dậy, thở hổn hển, cố gắng hình dung mình đang ở đâu. Rồi tôi nhớ lại mọi việc. Chưa bao giờ bị đánh thức mà tôi cảm thấy hạnh phúc đến vậy.
Maeve mở cửa bước vào. “Sớm quá sao?”
Lúc bấy giờ trời đã gần sáng, kế hoạch của ngày hôm qua dường như vô cùng hợp lý và cần thiết. Maeve ở trong căn bếp của riêng mình, pha cà phê và nói với tôi rằng chị cảm thấy khỏe như thế nào, như chưa từng có chuyện gì xảy ra. (“Chị chỉ cần tắm và ngủ một giấc ngon lành là được,” chị nói.) Tôi nhận thấy mình có thể về nhà sớm kịp để sửa chữa lỗi lầm. Chúng tôi ra khỏi nhà khi trời vẫn tối, lúc đó mới bốn giờ sáng. Maeve lục tục khóa cửa sau. Chúng tôi làm theo đúng như kế hoạch định sẵn. Không lỡ bất kỳ cái gì.
“Về nhà thôi,” Maeve nói khi chúng tôi quay ra xe của tôi.
“Thật ư?”
“Chúng ta chưa từng qua đó vào thời điểm này trong ngày.”
“Chúng ta chưa từng làm bất cứ điều gì vào sáng bảnh mắt ra thế này.”
“Sẽ không trễ giờ đâu,” chị nói vẻ tràn đầy năng lượng. Tôi quên mất trông chị như thế nào vào buổi sáng, như thể mỗi ngày mới là một cơn sóng mà chị cố gắng bắt lấy. Ngôi nhà của Người Hà Lan cách không quá xa nơi Maeve sống và vì nó nằm giữa quãng đường chúng tôi đi, chúng tôi lại đi rất sớm nên cũng không có vấn đề gì. Anh đèn đường le lói đem thứ ánh sáng heo hắt giữa các khu nhà. Tới bảy giờ thì trời mới sáng hẳn. Tôi rời New York khi trời còn chưa sáng và sẽ về nhà trước khi trời sáng. Điều đó không quá tệ.
Những ngôi nhà trên đường VanHoebeek thường không tối hẳn. Mọi người để đèn trước hiên nhà sáng suốt đêm như thể đang đợi ai đó về nhà. Những chiếc đèn ga le lói ở cuối các lối vào. Một ngọn đèn ở cửa sổ mặt trước phòng khách vẫn sáng suốt đêm. Nhưng ngay cả khi có ánh đèn leo lắt, không gian vẫn toát lên sự tĩnh lặng chứng tỏ những cư dân sống trong những ngôi nhà đó vẫn đang yên giấc trên chiếc giường của mình. Ngay cả những chú chó ở Elkins Park cũng đang say giấc nồng. Tôi tấp xe vào chỗ quen của chúng tôi rồi tắt máy. Ánh trăng dịu ngọt phía tây làm lu mờ các vì sao. Ánh trăng bao phủ mọi thứ: những tán cây trụi lá, con đường, những bãi cỏ xào xạc lá vàng và những bậc thang đá rộng thênh thang. Ánh trăng chiếu sáng ngôi nhà, len lỏi vào trong xe mà chúng tôi đang ngồi. Liệu có khi nào tôi đã ngắm nhìn cảnh tượng tuyệt đẹp này hàng giờ trước bình minh lên trong đêm đông lạnh lẽo khi còn là một đứa trẻ không? Có lẽ tôi sẽ giống những người khác trong khu phố, ngủ ngon lành trên chiếc giường của mình.
“Chuyển lời xin lỗi của chị đến May và Kevin,” Maeve nói.
Chúng tôi ở trên xe, mỗi người đắm chìm trong suy nghĩ của riêng mình. Phải mất một phút sau tôi mới nhận ra chị đang nói về vở ba lê và bữa tối qua. “Họ không nghĩ gì đâu.”
“Chị không muốn mình là người phá hỏng buổi tối của con bé.”
Tôi không thể nghĩ về May khi mọi thứ đều lung lính mờ ảo dưới ánh trăng. Có lẽ tôi vẫn chưa tỉnh ngủ hẳn. “Có bao giờ chị đến đây lúc sáng sớm như thế này không?”
Maeve lắc đầu. Tôi nghĩ chị chẳng buồn nhìn vào ngôi nhà, về vẻ đẹp của nó khi vươn mình trong bóng tối. Tôi cũng đã chẳng để mắt đến nó từ rất lâu rồi nhưng thỉnh thoảng sẽ có điều gì đó xảy ra, một điều gì đó như thế này khiến mắt tôi lại một lần nữa như được khai sáng và tôi sẽ thấy ngôi nhà ở đó - to lớn, phi thường và hùng vĩ. Một đội Kẹp Hạt Dẻ có thể tràn ra từ hàng rào bất cứ lúc nào vì nơi này, quân đoàn chuột đang hoạt động tích cực. Bãi cỏ đã bị phủ một lớp băng mỏng. Sân khấu Trung tâm Lincoln không hề giống Ngôi nhà của Người Hà Lan mà giờ Ngôi nhà của Người Hà Lan là bối cảnh cho một vở ba lê lố bịch trong tâm trí tôi. Có khi nào lần đầu tiên cha rẽ đến lối vào nơi này thì nghĩ ngay đến việc đây là một nơi tuyệt vời dành cho gia đình mình? Ngôi nhà có ý nghĩa to lớn như thế nào với một người nghèo mới phất chứ?
“Nhìn kìa,” Maeve thì thầm.
Đèn trong phòng ngủ chính bật sáng. Phòng ngủ chính nằm đối diện với mặt tiền của ngôi nhà, trong khi phòng của Maeve, đẹp hơn với tủ quần áo nhỏ hơn, nhìn ra cửa sau. Vài phút sau, chúng tôi thấy ánh sáng ở hành lang tầng trên rồi sau đó là ánh sáng ở cầu thang, giống như lần đầu Maeve đưa tôi trở về đây từ Choate, nhưng bây giờ mọi thứ diễn ra ngược lại. Trong bóng tối, chúng tôi ngồi trên xe, không nói lời nào. Năm phút trôi qua, rồi mười phút, bỗng một người phụ nữ bước xuống lối ra trong chiếc áo khoác sáng màu. Người đó có thể là quản gia hay một trong hai đứa trẻ nhưng chúng tôi đều nhận ra chắc chắn đấy là Andrea. Mái tóc vàng, rực rỡ hơn ánh trăng của dì ta được buộc túm đuôi ngựa. Áo khoác trang trí thứ gì đó hồng hồng phía sau lưng được dì ta vòng tay qua, giữ chặt vào người. Dì ta đi một đôi dép hoặc bốt, nhìn không rõ nhưng có thể thấy dì ta đang đi thẳng về phía chúng tôi.
“Bà ấy nhìn thấy chúng ta.” Giọng Maeve trầm xuống. Tôi giữ lấy tay chị phòng trường hợp chị muốn nhảy ra khỏi xe.
Khi vẫn còn cách cuối lối vào khoảng chục bước chân, dì ta dừng lại, đưa một tay nắm chặt cổ áo khoác cho khỏi lạnh và ngước lên ngắm trăng. Dì ta không đeo khăn quàng cổ. Dì ta có vẻ bất ngờ vì ánh trăng tỏ sớm hôm ấy nên dì ta đứng đó để chiêm ngưỡng cảnh tượng này. Dì ta hơn tôi hai mươi tuổi, tôi nhớ là vậy. Tôi giờ bốn mươi hai, còn Maeve bốn mươi chín, sắp năm mươi. Andrea tiến thêm vài bước về phía chúng tôi khiến Maeve nắm chặt tay tôi. Mẹ kế của chúng tôi đang tiến sát về phía chúng tôi đến mức như thể chị em tôi đang đậu trước sân nhà bà. Tôi có thể nhìn thấy màu thời gian trải dài trên khuôn mặt của Andrea, từ mặt, mũi, xuống đến cằm. Không có gì thay đổi, dì ta vẫn là người phụ nữ mà tôi biết từ hồi nhỏ và giờ như người xa lạ, người phụ nữ từng kết hôn với cha chúng tôi vài năm. Dì ta nghiêng người nhặt báo nhét dưới hòn đá nhỏ, kẹp dưới nách rồi quay người bước tới mảnh sân phủ đầy sương giá phía trước nhà.
“Bà ta đi đâu vậy?” Maeve thì thầm, vì có vẻ như dì ta đang tiến về phía hàng rào giáp với căn nhà phía nam. Ánh trăng phủ lên áo khoác và mái tóc dì ta một lớp bàng bạc cho đến khi dì ta biến mất sau hàng cây, khuất tầm mắt của chúng tôi. Chúng tôi đã đợi nhưng Andrea không quay lại cửa trước nữa.
“Chị có nghĩ dì ta đi vòng ra phía sau nhà không? Vô lý thật đấy. Trời đang lạnh cóng.” Tôi nhận ra rằng mình chưa từng lái xe khi đến Ngôi nhà của Người Hà Lan nhưng sau chuyện này mọi chuyện đã thay đổi.
“Đi thôi,” Maeve giục.
Chúng tôi dừng lại ở một quán ăn thay vì đi thẳng đến ga xe lửa để lấy xe của chị, thưởng thức trứng và bánh mì nướng như món mà chúng tôi ăn tối qua, mổ xẻ từng chi tiết về chuyến đi lấy báo của Andrea để có được góc nhìn đa chiều. Dì ta đã nhìn thấy thứ gì đó mà chúng tôi không nhìn thấy? Dì ta đi dép hay bốt? Andrea chưa bao giờ tự mình đi lấy báo. Dì ta chưa bao giờ xuống cầu thang trong bộ váy ngủ, hoặc nếu có thì chắc là lúc chúng tôi đang say ngủ. Tất nhiên, giờ dì ta sống ở ngôi nhà này một mình. Norma và Bright, chúng tôi luôn nghĩ chúng vẫn còn rất trẻ, giờ cũng đã ngoài ba mươi. Andrea đã ở một mình trong ngôi nhà đó bao lầu rồi?
Cuối cùng, khi đã phân tích hết những dữ liệu thực tế và đưa ra những giả định, Maeve đặt tách cà phê xuống chiếc đĩa lớt. “Chị chẳng liên quan gì đến bà ta nữa,” chị nói.
Cô phục vụ đi qua, tôi nói với cô ấy rằng chúng tôi trả bằng séc.
Maeve lắc đầu. Chị chống tay lên bàn và nhìn thẳng vào tôi như cách trước đây cha thường làm với chị. “Chị chẳng liên quan gì đến Andrea nữa. Chị hứa với em. Chị chẳng liên quan gì tới căn nhà đó nữa. Chị sẽ không quay lại đó.”
“Được thôi,” tôi nói.
“Khi bà ta tiến về phía chiếc xe, chị đã nghĩ mình lên cơn đau tim. Chị thực sự cảm thấy nhói nơi lồng ngực lúc vừa nhìn thấy bà ta. Đã bao nhiêu năm rồi kể từ ngày bà ta đuổi chúng ta ra đường?”
“Hai mươi bảy.”
“Thế là đủ rồi, đúng không? Chúng ta không cần tới đó thêm lần nào nữa. Chúng ta có thể đến nơi khác, ví dụ như ra vườn thực vật và ngắm cây cối.”
Thói quen là một điều buồn cười. Bạn có thể nghĩ rằng mình hiểu vì sao mình làm vậy nhưng chưa bao giờ thực sự để ý đến nó. Tôi nghĩ về Celeste, trong suốt nhiều năm em nói với tôi rằng việc tôi và Maeve đỗ xe trước tòa nhà chúng tôi từng sống hồi nhỏ điên rồ đến mức nào, về chuyện tôi nghĩ việc đó em sẽ không bao giờ hiểu được.
“Trông em có vẻ thất vọng,” Maeve lên tiếng.
“Vậy sao?” Tôi tựa lưng vào bàn. “Em không thất vọng.” Chúng tôi đã tôn sùng nỗi bất hạnh của mình đến mức mê muội. Tôi phát bệnh khi nhận ra hai chị em đã giữ rịt nỗi căm hờn trong lòng lâu đến mức nào chứ không phải do quyết định bỏ qua mọi chuyện.
Nhưng tôi không cần nói điều đó vì Maeve đã hiểu tất cả. “Ước gì bà ta ra lấy báo sớm hơn,” chị tiếc nuối. “Tầm hai mươi năm trước.”
“Chúng ta sẽ sống cuộc sống của mình từ đây.”
Tôi thanh toán bằng séc rồi lên xe đi đến bãi đỗ xe ở ga đường 30. Chỉ mới hôm qua thôi, Maeve đã đến New York để xem May biểu diễn. Có thể nói rằng do dừng xe trước Ngôi nhà của Người Hà Lan rồi đến quán ăn, chúng tôi đã bỏ lỡ lợi thế chúng tôi có được khi dậy sớm. Sẽ không quá tắc khi Maeve lái xe về Jenkintown, nhưng tôi sẽ phải lái hết tốc lực vì hiện tại là giờ cao điểm trong thành phố. Tôi sẽ cố hết sức để giải thích mọi chuyện với Celeste. Tôi sẽ nói với em rằng tôi xin lỗi vì đã đi như vậy, xin lỗi vì tôi đã về muộn, sau đó kể cho em nghe chuyện chúng tôi đã làm được.
Maeve và tôi đã đồng ý, những ngày của chúng tôi ở Ngôi nhà của Người Hà Lan đã kết thúc.