← Quay lại trang sách

Phần III - Chương 16

“Maeve mà ốm là cậu lại phải lo đấy.” Jocelyn nói với tôi trong căn hộ nhỏ nơi Maeve và tôi sống sau khi cha chúng tôi mới qua đời. “Đừng để mình phải buồn bực. Những người khó chịu chỉ tổ thêm việc vào mình.” Buồn cười là lời khuyên đó lại luôn đúng với tôi. Không tuần nào, hay thậm chí là ngày nào trôi qua mà lời nhắc nhở của cô không hiện lên trong đầu tôi, và hết lần này đến lần khác, lời cô nhắc nhở đều đúng. Khi ông Otterson gọi cho tôi từ bệnh viện để thông báo với tôi Maeve bị đau tim, tôi đã gọi cho Celeste và nhờ em đóng gói đồ đạc cho mình, đưa ra xe.

“Em có nên đi cùng anh không?” Em hỏi.

Tôi đánh giá cao lời đề nghị của em nhưng vẫn trả lời rằng không. “Gọi cho Jocelyn giúp anh,” tôi nói vậy vì Jocelyn là người mà tôi nghĩ đến đầu tiên. Tôi cũng nghĩ ngay đến cha. Ông ấy mất năm ông năm mươi ba tuổi và Maeve giờ đang ở tuổi năm mươi hai. Tôi nghĩ về cái chết của ông ít hơn về thỏa thuận mà tôi đã giao kèo với Chúa khi tôi bước ra khỏi lớp hình học tại Bishop McDevitt: “Xin Ngài hãy tha cho Maeve, con nguyện đổi lấy bất cứ thứ gì, bất cứ ai.”

Phòng chờ nhỏ khoa Tim mạch nằm khuất phía sau phòng vệ sinh và đài phun nước. Ông Otterson ngồi đó, trông như thể đã ngồi trên chiếc ghế xám cả tuần, chống khuỷu tay lên đầu gối đăm chiêu, mái tóc thưa và bạc. Sandy và Jocelyn ngồi đó cùng ông. Họ biết chuyện gì đã xảy ra nhưng họ yêu cầu ông kể lại lần nữa. Ông Otterson đã cứu mạng Maeve.

“Chúng tôi đang họp với một đơn vị quảng cáo và Maeve đứng dậy, nói cô ấy cần phải về nhà,” ông Otterson trầm giọng kể. Ông mặc quần âu xám, sơ mi trắng. Áo khoác ngoài và cà vạt đã được tháo ra. “Cô ấy đã cố chịu những cơn đau cho đến lúc không chịu nổi nữa. Mọi người biết Maeve đấy.”

Tất cả chúng tôi đều đồng ý với ông.

Họ ngay lập tức rời khỏi cuộc họp. Ông hỏi liệu đường huyết của chị có thấp không nhưng chị nói không, đây là triệu chứng của một chứng bệnh khác, có thể là cúm. “Khi tôi nói với cô ấy để tôi chở về nhà, cô ấy không phản đối câu nào,” Otterson tiếp tục. “Điều đấy cho thấy tình trạng của cô ấy tệ đến mức nào.”

Khi chỉ cách nhà chị hai dãy nhà, ông đã quay xe lại và chở chị đến bệnh viện ở Abington. Ông nói trực giác mách bảo ông làm vậy. Lúc đó chị ấy gục đầu vào cửa sổ xe. “Người cô ấy mềm nhũn,” ông kể lại. “Tôi không diễn tả nổi tình trạng của cô ấy lúc đó.”

Nếu ông Otterson chở chị về đến nhà, đưa chị đến cửa trước và bảo chị hãy vào và nghỉ ngơi một chút thì hẳn mọi chuyện đã diễn biến theo chiều hướng khác.

Chính Maeve kể lại cho tôi phần còn lại của câu chuyện khi dần hồi phục. Chị đang chìm trong cơn mê man nhưng vẫn cố nở nụ cười. Chị kể với tôi rằng ông Otterson đã lớn tiếng với người phụ nữ trẻ trực ở phòng cấp cứu. Ông Otterson xẵng giọng đáng sợ như thể đang chĩa súng vậy. Maeve nghe thấy ông nói gì đó như bệnh tiểu đường. Chị cũng nghe thấy ông nói gì đến động mạnh vành, mặc dù chị nghĩ ông nói vậy là để ai đó đến giúp. Chị chưa bao giờ nghĩ mình có bệnh về tim mạch. Cuối cùng, chị có thể cảm nhận được điều đó: áp lực len lỏi lên quai hàm, căn phòng như quay mòng mòng - đó là những gì cha tôi cảm nhận được khi lên bậc thang bê tông cuối cùng của đời mình trong cái nắng khủng khiếp ngày hôm đó.

“Đừng làm bộ mặt đó nữa,” chị rít lên. “Chị ngủ tiếp đây.” Đèn trong phòng bệnh luôn sáng. Tôi muốn lấy tay che mắt cho chị đỡ chói nhưng rồi tôi lại nắm lấy tay chị, quan sát máy đo nhịp tim đang vẽ biểu đồ lên xuống cho đến khi một y tá đến bắt tôi ra ngoài. Tôi ngồi đợi ở phòng chờ cả đêm. Ông Otterson ở lại đến quá nửa đêm dù nhiều lần tôi bảo ông về. Tôi đã cảm thấy yên tâm hơn vào chiều hôm sau khi bác sĩ tim mạch nói với tôi rằng chị bị rối loạn nhịp tim trong quá trình đặt stent nên sẽ phải lưu lại bệnh viện thêm ít thời gian so với dự kiến. Thế nên tôi quyết định về nhà Maeve tắm rồi ngủ một giấc. Tôi rất bình tĩnh, đi đi về về giữa phòng chờ và nhà chị, tiếp những vị khách không được phép vào thăm, đợi đến giờ thăm bệnh nhân ba lần một ngày để tôi có thể ngồi bên giường chị. Tôi vẫn bình tĩnh cho đến sáng ngày thứ Tư, sau khi vào phòng chờ và thấy một người khác ở đó - một bà già gầy guộc, tóc ngắn hoa râm. Tôi gật đầu chào bà rồi ngồi xuống ghế của mình như thường lệ. Tôi định hỏi xem liệu bà có phải bạn Maeve không vì tôi chắc chắn rằng mình không biết người phụ nữ này. Rồi tôi nhận ra bà là mẹ tôi.

Cơn đau tim của Maeve đã buộc bà phải xuất hiện. Bà không xuất hiện trong lễ tốt nghiệp của tôi và chị hay đám tang của cha tôi. Bà cũng không xuất hiện khi chúng tôi bị tống cổ ra khỏi nhà. Bà không có mặt ở đám cưới của tôi, ngày sinh của các con tôi, hay những dịp như Lễ Tạ ơn, Phục sinh hoặc bất kỳ thứ Bảy nào, những ngày không có gì đáng kể ngoài thời gian và năng lượng để nói chuyện. Nhưng giờ bà đã xuất hiện tại Bệnh viện Abington Memorial, như Thần Chết. Tôi không nói lời nào với bà vì người ta không bao giờ nên bắt chuyện với Thần Chết.

“Ôi, Danny,” bà nói, òa lên nức nở, hai tay bưng lấy mặt. Cổ tay bà gầy guộc như chục cây bút chì buộc lại.

Tôi biết điều gì sẽ xảy ra với những người không kìm nén được cơn tức giận ở trong bệnh viện. Bệnh viện sẽ tống cổ những người đó, không quan tâm cơn tức giận đó có chính đáng hay không. Jocelyn đã nói là những người bực tức chẳng làm được việc gì nên hồn và việc tôi cần làm là chăm sóc Maeve.

“Con là người bác sĩ năm đó,” cuối cùng bà cất giọng.

“Vâng, là con.”

Nếu Maeve đã năm mươi hai thì giờ mẹ bao nhiêu tuổi? Bảy mươi ba ư? Trông bà già hơn thế cả chục tuổi.

“Con nhớ ta chứ?” Bà hỏi.

Tôi chầm chậm gật đầu, tự hỏi có nên thừa nhận việc đó không. “Khi đó mẹ bện tóc”

Bà đưa tay vuốt mái tóc ngắn cỡn của mình. “Mẹ bị chấy.

Trước đây mẹ cũng bị nhưng lần cuối cùng này, mẹ cũng không biết nữa, chúng làm mẹ khó chịu.”

Tôi hỏi bà muốn gì.

Bà lại khóc. Bà như thể một linh hồn từ thế giới khác hiện về. “Để gặp con,” bà nói mà không nhìn tôi. “Để xin lỗi con.” Bà lấy tay áo len gạt nước mắt. Bà giống mọi bà già khác trong phòng chờ bệnh viện, chỉ cao hơn và gầy hơn. Bà mặc quần jeans và đi giày tennis vải màu xanh. “Mẹ rất xin lỗi con.”

“Tốt,” tôi đáp. “Mọi chuyện thế là xong.”

“Mẹ đến để gặp Maeve,” bà nói, xoay chiếc nhẫn vàng nhỏ trên ngón tay.

Lúc đó trong tâm trí tôi chỉ có ý nghĩ muốn giết chết Fluffy. “Maeve đang ốm rất nặng,” tôi nói, nghĩ rằng mình phải đưa bà ra khỏi đây trước khi Fluffy xuất hiện để bảo vệ bà, trước khi Sandy, Jocelyn và ông Otterson xuất hiện và can dự về việc có nên để bà ở lại hay không. “Hãy quay lại khi chị ấy khỏe hơn. Giờ chị ấy cần tập trung vào việc phục hồi sức khỏe. Mẹ có thể đợi, đúng không? Sau ngần ấy năm mà?”

Đầu mẹ tôi cúi thấp như bông hoa hướng dương vào cuối ngày, bà cúi thấp đến độ cằm chạm vào ngực. Những giọt nước mắt cứ thế lặng lẽ rơi. Bà kể rằng bà đã đến gặp Maeve vào sáng hôm đó.

Lúc còn chưa đến bảy giờ. Tôi đang ăn trứng trong căn bếp nhà Maeve thì mẹ chúng tôi ngồi cạnh giường của chị, nắm lấy tay chị và khóc, trút gánh nặng và nỗi xấu hổ to lớn của mình lên trái tim Maeve. Bà đã vào phòng bệnh bằng cách trực tiếp nhất có thể: bà kể sự thật hoặc một phần sự thật. Bà đến gặp y tá phụ trách và nói rằng cô con gái Maeve Conroy của bà bị đau tim và bà, mẹ của cô đang ở đây. Người mẹ phải mất đến cả phút để giới thiệu chính mình nên việc các y tá đồng ý cho mẹ tôi thăm bệnh vừa lâu vừa khác thời gian quy định là theo ý muốn của mẹ chứ không phải người con. Tôi biết điều này vì chính tôi đã hỏi y tá khi biết nói gì trở lại.

“Con bé rất vui,” bà nói, giọng rất khẽ. Bà nhìn tôi với vẻ van nài. Tôi không biết bà đang muốn xin tôi tha thứ hay muốn xin tôi cho bà quay về để sửa lại lỗi lầm.

Tôi nhanh chóng đứng dậy, bỏ mặc bà trong phòng chờ, chạy qua thang máy, đi bộ năm tầng lầu. Lúc đó là tháng Tư, trời bắt đầu mưa. Lần đâu tiên trong đời, tôi tự hỏi liệu cha chúng tôi có yêu chị gái tôi không, gạt đi trí tưởng tượng và sự vô tâm khi luôn cho rằng ông ấy yêu thương chị. Có khi nào ông ấy tin rằng Maeve đang gặp nguy hiểm nên đã giữ chị tránh xa mẹ? Tôi nhanh chóng lách qua những hàng xe. Nếu ai đó nhìn ra cửa sổ phòng bệnh và thấy tôi, anh ta sẽ nói: “Nhìn người đàn ông tội nghiệp kia mà xem. Anh ta không nhớ mình đỗ xe ở đâu.” Tôi muốn giữ khoảng cách giữa chị và mẹ, giữ an toàn cho chị trước người đã không màng đến mà bỏ rơi chị rồi quay lại vào thời điểm tồi tệ nhất. Tôi muốn đảm bảo với chị rằng tôi đang dõi theo chị và sẽ không có điều gì có thể hại chị nữa, nhưng chị đang say giấc.

Chẳng có câu chuyện nào kể về sự trở lại của người mẹ hoang đàng. Người đàn ông giàu có không tổ chức một bữa tiệc để ăn mừng sự trở về của người vợ đầu. Những người con, mắc kẹt với ngôi nhà đó từng ấy năm, không treo vòng hoa trên cửa, mổ cừu và mang rượu ăn mừng khi mẹ họ trở lại. Khi bà ấy rời đi, bà đã giết tất cả, mỗi người theo một cách riêng, và bây giờ, sau hàng chục năm, họ không muốn bà xuất hiện trở lại. Họ vội vã xuống đường, khóa cổng, cả hai cha con, trong cơn gió táp vào vạt áo. Một người bạn đã mách trước cho họ. Họ biết bà ấy sẽ xuất hiện và cánh cổng phải được khóa chặt.

Người nhà bệnh nhân trong khoa Tim mạch được thăm nom ba lần một ngày, mỗi lần mười lăm phút, mỗi lần chỉ một người vào thăm. Mẹ tôi đến thăm Maeve vào hai lần tiếp theo: lần thăm buổi sáng và giữa giờ chiều. Y tá vào phòng chờ và nói với tôi, Maeve muốn gặp mẹ. Tôi đến thăm lúc bảy giờ tối hôm đó và hiểu rằng đây không phải là lúc thảo luận hay hỏi chị về việc này. Không có sai lầm nào sẽ được sửa chữa, không có bất công nào được đưa ra xem xét. Tôi sẽ vào để gặp chị gái tôi, chỉ vậy thôi. Mặc dù chỉ làm bác sĩ một thời gian ngắn nhưng tôi hiểu hạnh phúc ngắn ngủi có thể tàn phá người bệnh đến mức nào.

Có lẽ vì đã tròn hai mươi tư giờ trôi qua kể từ lần cuối tôi gặp chị, cũng có thể do sự xuất hiện của mẹ khiến chị thấy phấn khích nhưng Maeve trông khỏe hơn trước rất nhiều. Chị đang ngồi trên chiếc ghế cạnh giường, màn hình theo dõi nhịp tim phát ra tiếng “bíp” đều đều thể hiện tình trạng chức năng tim đã được cải thiện. “Nhìn chị kìa!” Tôi nói, rồi cúi xuống hôn chị.

Maeve trao cho tôi một nụ cười kiểu vào sáng ngày Giáng sinh hiếm hoi của chị, không giả dối, rất tươi tắn. Chị trông như thể muốn bật dậy để ôm lấy tôi. “Tin được không?”

Tôi không đáp lại: Tin gì cơ?, cũng không đáp lại: Em biết! Chị đang bình phục rất nhanh! vì tôi biết chị muốn nói gì và đây không phải lúc để ủy mị. Tôi chỉ nói: “Quả là một bất ngờ lớn.”

“Mẹ kể Fluffy đã tìm ra bà và nói cho bà nghe chị bị ốm.” Mắt Maeve sáng lên trong ánh đèn mờ ảo. “Bà nói rằng bà đã phi đến ngay đây khi biết tin.”

Tôi đã không nói: Ngay lập tức sau bốn mươi hai năm. “Em biết mẹ đang lo lắng cho chị. Mọi người đều lo cho chị. Em nghĩ tất cả người quen của chị đều đến đây.”

“Danny à, mẹ chúng ta đang ở đây và chị không quan tâm đến bất kỳ ai khác. Trông bà ấy rất đẹp, đúng không?”

Tôi ngồi xuống mép giường bệnh. “Đẹp,” tôi đáp.

“Em có vẻ không vui lắm trước việc này.”

“Có chứ. Em vui thay cho chị.”

“Chúa ơi!”

“Maeve à, em chỉ mong chị khỏe mạnh thôi. Em mong bất kỳ điều gì tốt nhất cho chị.”

“Em phải học cách nói dối đi.” Tóc chị đã được chải gọn gàng. Tôi tự hỏi không biết có phải mẹ đã chải không.

“Em đang nói dối,” tôi thừa nhận. “Chị không biết được em nói dối giỏi đến mức nào đâu.”

“Chị vui lắm. Chị bị đau tim nhưng đó là ngày tuyệt nhất đời chị.”

Dù ít dù nhiều thì tôi cũng đã nói thật với chị rằng điều duy nhất tôi quan tâm là hạnh phúc của chị.

“Chị mừng vì mẹ trở lại hôm chị đau tim chứ không phải trong đám tang của chị.”

“Sao chị lại nói vậy?” Lần đầu tiên tôi biểu lộ sự tức giận kể từ lúc ông Otterson gọi đến văn phòng tôi.

“Mẹ về thật đấy,” chị nói. “Hãy để mẹ ngủ ở nhà chị và cho bà ăn uống đầy đủ. Chị không muốn bà phải ở phòng chờ cả đêm.”

Tôi gật đầu. Có quá nhiều điều phải kìm nén khiến tôi không muốn nói thêm điều gì.

“Chị yêu mẹ,” Maeve nói. “Đừng làm mọi thứ rối tung lên. Đừng đuổi bà ấy đi trong lúc chị đang bị nhốt trong này.”

Sau hôm đó, tôi quay lại nhà Maeve để thu dọn đồ đạc của mình. Sẽ dễ dàng hơn cho tôi khi chuyển đến sống ở khách sạn. Tôi nhờ Sandy đến đón mẹ và đưa bà đến nhà Maeve. Sandy hiểu mọi chuyện, kể cả cảm xúc của tôi. Điều đó thật kỳ diệu vì tôi không thể diễn đạt cảm xúc của mình thành lời. Từ những gì tôi có thể thấy thì Sandy, Jocelyn và Fluffy, mỗi người đối mặt với sự trở về của Elna Conroy theo một cách riêng.

“Tôi biết chuyện này khó khăn thế nào,” Sandy an ủi tôi, “vì tôi biết trước kia việc này từng khó khăn ra sao. Nhưng thiết nghĩ nếu cậu biết về con người bà trước đây thì chắc hẳn cậu sẽ rất vui khi được gặp lại mẹ mình.”

Tôi chỉ nhìn cô chằm chằm.

“Được rồi, có thể không phải vậy, nhưng chúng ta phải tha thứ cho bà vì Maeve.” Điều đấy có nghĩa là tôi sẽ phải cố gắng làm điều đó và Sandy sẽ giúp tôi. Sandy luôn nhẹ nhàng chạm đến trái tim tôi hơn hai người còn lại.

Mẹ tôi không tự bào chữa cho mình. Khi ngồi trong phòng chờ cùng tôi, bà ngồi sát cửa sổ như chực bỏ chạy. Sự đau khổ của bà như phát ra những tiếng kêu thống thiết, kiểu tiếng bóng đèn ngay trước khi cháy tóc, dù chẳng phát ra tiếng động gì rõ ràng nhưng khiến tôi như phát điên. Sau đó, không nói một lời, bà rời đi như không thể chịu đựng cảnh này thêm phút nào nữa. Vài giờ sau, khi quay lại, trông bà có vẻ thoải mái hơn. Sandy kể với tôi rằng bà đã lên các tầng khác và trò chuyện cùng vài người, bệnh nhân hoặc người nhà bệnh nhân đang lo lắng chờ tin. Bà sẽ đi vòng quanh các phòng khác nhau và nói chuyện với người lạ trong nhiều giờ.

“Họ để bà làm vậy sao?” Tôi hỏi. Tôi nghĩ rằng bệnh viện có quy tắc không cho phép làm vậy.

Sandy nhún vai. “Bà ấy nói với họ rằng con gái bà bị đau tim và bà cũng đang mong ngóng tin tức của con gái. Mẹ cậu đâu phải là đối tượng nguy hiểm.”

Đấy là điều tôi không thể tin nổi.

Sandy thở dài. “Tôi biết. Tôi nghĩ tôi cũng sẽ giận bà nếu bà không quá già như vậy.”

Tôi tin rằng Sandy và mẹ tôi cũng ngang ngang tuổi nhau, nhưng tôi cũng hiểu ý của cô. Mẹ tôi như một người hành hương đã rơi vào băng giá và bị vực dậy trong ngỡ ngàng sau hàng trăm năm. Mọi câu chuyện về bà khiến ai cũng tưởng bà đã chết.

Fluffy tránh mặt tôi và khi tôi bắt gặp cô đợi thang máy, cô lại giả vờ như đang tìm tôi. “Tôi biết cậu luôn là một người đàn ông tử tế,” cô nói, cố biến tôi trở thành con người tốt đẹp hơn.

“Cháu biết cô có vài quyết định tồi tệ, nhưng trong việc này cô đã đi quá giới hạn rồi đấy.”

Fluffy khăng khăng giữ vững quan điểm của mình. “Tôi chỉ làm những điều tốt nhất cho Maeve.” Cánh cửa thang máy mở ra trước mặt chúng tôi và khi những người bên trong nhìn ra thì cả hai chúng tôi đều từ chối bước vào.

“Khi chị bị tiểu đường thì không cho chị biết tin về mẹ vì sợ chị đổ bệnh, còn khi chị bị bệnh tim thì lại thấy cần cho chị biết tin về mẹ là sao?”

“So sánh như thế quá khập khiếng,” Fluffy ngượng ngùng đáp.

“Vậy thì giải thích cho cháu đi vì cháu không hiểu nổi.” Tôi cố gắng nhớ lại tôi đã tin tưởng cô ấy đến mức nào, cô ấy đã dạy Celeste và nuôi dạy con cái chúng tôi như thế nào. Chúng tôi đã thoải mái rời khỏi nhà, để Fluffy trông Kevin và May ra sao.

“Tôi sợ Maeve sẽ chết,” Fluffy nói, mắt ngấn lệ. “Tôi muốn cô ấy được gặp mẹ trước khi qua đời.”

Nhưng tất nhiên là Maeve không chết. Sức khỏe chị cải thiện mỗi ngày và chị không muốn ai đến ngoài mẹ.

Thật ngạc nhiên khi bà có thể chăm sóc Maeve mà vẫn hoàn thành công việc bà tự đặt ra hằng ngày một cách đều đặn. Không hiểu bằng cách nào mà bà được quyền đẩy xe chở hoa và thăm nom những người không có mẹ để cấm bà làm việc đó. Tôi không biết bà đã nói chuyện với ai hoặc làm thế nào vì bà như bị câm khi ở cạnh tôi. Tôi nghĩ rằng bà cảm thấy sốt ruột khi phải ngồi ở phòng chờ nhưng sự thật có vẻ bà không muốn ngồi cạnh tôi. Bà không dám nhìn thẳng vào tôi. Khi Fluffy, Sandy, Jocelyn, ông Otterson, nhà Norcross, hay luật sư già tốt bụng Gooch hoặc bất kỳ nhóm bạn nào của Maeve ở công ty, nhà thờ hay hàng xóm láng giềng đến thăm, mẹ tôi sẽ ngồi đó, cầm tờ báo, cuốn tạp chí, để xem ai muốn uống nước hay ăn cam. Bà có thể ngồi bóc cam mãi cho mọi người. Bà rất giỏi việc đó.

“Vậy Ấn Độ như thế nào, bà Conroy?” Jocelyn hỏi vào một buổi chiều như thể mẹ tôi vừa trở về nhà sau kỳ nghỉ. Jocelyn không tin tưởng mẹ tôi chỉ sau tôi.

Tôi nhận thấy quầng thâm trên đôi mắt mẹ đã mờ đi phần nào. Chắc hẳn bà là người duy nhất trong lịch sử loài người cảm thấy khỏe lên khi ở phòng chờ. Jocelyn và tôi đang ở đó với Fluffy. Sandy đang làm việc. Sớm muộn gì Elna cũng sẽ phải nói gì đó với những người ở đây.

“Đến Ấn Độ là một sai lầm của tôi,” cuối cùng bà nói.

“Nhưng bà muốn giúp họ mà,” Fluffy nói. “Bà luôn giúp đỡ mọi người.”

“Tại sao lại là Ấn Độ?” Tôi đã định im lặng ngồi nghe thôi nhưng sự tò mò trong tôi trỗi dậy.

Mẹ tôi dứt một sợi chỉ thò ra từ cổ tay áo len màu xanh đậm của bà, chiếc áo len bà mặc hằng ngày. “Ta đọc một bài viết về Mẹ Teresa trên một tờ tạp chí, bà đã yêu cầu các sơ đưa bà đến Calcutta để giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn như thế nào. Giờ ta cũng chẳng nhớ nổi nó là tạp chí gì nữa. Loại mà cha con đã đặt mua.”

Khó mà tưởng tượng được cảnh vào khoảng những năm 50, mẹ tôi ngồi trong bếp của Ngôi nhà của Người Hà Lan, đọc về Mẹ Teresa trên tờ Newsweek hoặc Life trong khi những người phụ nữ khác trên đường VanHoebeek nắm giữ các vị trí lãnh đạo trong câu lạc bộ làm vườn và đến những buổi khiêu vũ mùa hè.

“Bà ấy là một phụ nữ tuyệt vời, Mẹ Teresa ấy,” Fluffy nói.

Mẹ tôi gật đầu. “Hồi đó bà ấy chưa phải Mẹ Teresa.”

“Bà đã làm việc với Mẹ Teresa sao?” Jocelyn hỏi.

Tại thời điểm này, bất kỳ điều gì cũng có thể xảy ra, kể cả việc mẹ tôi trong bộ sari[1] trắng, ôm người hấp hối trong tay. Bà sống khá đơn giản như thể đã rũ bỏ bụi trần hoặc do đó là những gì tôi cảm nhận được từ những đường nét xương xẩu trên khuôn mặt bà. Sự ân cần, tử tế toát ra từ đôi bàn tay thon dài bà xếp trên đùi.

“Tôi định vậy nhưng con tàu đã dừng ở Bombay. Tôi đã không xem bản đồ trước khi rời đi. Cuối cùng thì tôi đã đến nhầm miền của Ấn Độ.” Bà nói như thể thừa nhận mọi người đều mắc sai lầm. “Họ nói với tôi rằng tôi phải đi tàu hỏa, và tôi sẽ đi, sẽ đến Calcutta, nhưng khi ở Bombay vài ngày...” Bà dừng ở đó.

“Thì sao?” Fluffy nhắc.

“Có rất nhiều việc phải làm ở Bombay,” mẹ tôi khẽ nói.

“Cũng có rất nhiều việc phải làm ở Brooklyn.” Tôi nhấc cốc cà phê đặt dưới chân lên nhưng cà phê đã nguội ngắt. Đã hết thời tôi phải uống cà phê nguội lạnh trong bệnh viện.

“Danny!” Fluffy cảnh cáo tôi điều gì mà tôi cũng chẳng rõ.

“Không, thằng bé nói đúng,” mẹ tôi nói. “Đó là những thứ tôi nên làm. Tôi nên phục vụ cho người nghèo ở Philadelphia và trở về nhà vào buổi đêm. Thế rồi tôi lại chọn một cách ngu ngốc. Ngôi nhà đó...”

“Ngôi nhà?” Jocelyn nói, như thể chẳng có lý gì khi đổ lỗi cho Ngôi nhà của Người Hà Lan về sự bỏ đi của bà.

“Nó khiến mọi việc tôi làm đều trở nên nhỏ bé.”

“Đấy là một ngôi nhà nguy nga mà,” Fluffy nói hộ.

Chiếc ti vi treo ở góc phòng chờ đang chiếu chương trình về vụ phá nát một ngôi nhà cổ. Vì không có điều khiển từ xa nên ngay ngày đầu tiên ở đây, tôi đã đứng lên ghế để tắt tiếng. Bốn ngày sau, những người trên ti vi lặng lẽ bước qua những căn phòng trống, chỉ vào những bức tường mà họ định đập bỏ.

“Mẹ không hiểu được tại sao cha con lại muốn sở hữu ngôi nhà và ông ấy cũng không hiểu tại sao mẹ lại không thích nó.”

“Tại sao mẹ lại không thích nó?” Chắc chắn có những thứ tệ hơn một ngôi nhà tráng lệ.

“Chúng ta là những người nghèo,” mẹ nói. Tôi hiểu sao bà lại nghĩ vậy. “Mẹ không biết phải làm gì ở một nơi như thế, nơi có hệ thống lò sưởi, cầu thang và người hầu phục vụ mẹ.”

Fluffy khẽ khịt mũi. “Thật nực cười. Chúng tôi chưa từng phục vụ bà. Bà luôn làm bữa sáng cho chúng tôi.”

Mẹ tôi lắc đầu. “Tôi tự thấy rất xấu hổ.”

“Không phải vì cha sao?” Tôi nghĩ rằng cha là người lựa chọn sáng suốt. Sau tất cả, ông đã mua căn nhà đó.

“Cha con không cảm thấy xấu hổ,” mẹ hiểu nhầm ý tôi nên đáp. “Ông ấy rất xúc động ấy chứ. Một ngày phải tới mười lần ông ấy tìm những thứ mà ông ấy cho là hay ho trong căn nhà để chỉ mẹ xem. ‘Elna, em nhìn thấy lan can này chứ?’ ‘Elna, ra ngoài và ngắm cái ga ra này này.’”

“Ông ấy thích cái ga ra,” Fluffy nói.

“Ông ấy không bao giờ hiểu được sao có người lại cảm thấy nghèo khổ trong căn nhà đó.”

“Nhà VanHoebeek rất nghèo khổ khi ở đó,” Fluffy kể. “Ít nhất thì họ đã ở trong tình trạng đó lúc cuối đời.”

“Mẹ đến Ấn Độ chỉ để chạy khỏi ngôi nhà thôi sao?” Tất nhiên, mọi chuyện không chỉ về ngôi nhà hay người chồng. Chẳng ai quan tâm đến hai đứa trẻ đang say giấc trên lầu cả.

Đôi mắt xám của mẹ mờ đi vì đục thủy tinh thể và tôi tự hỏi không biết bà có thể nhìn thấy những gì. “Còn có lý do gì khác chứ?”

“Con đoán là do cha.”

“Mẹ yêu cha các con.” Bà nói mà không tốn một giây suy nghĩ. Mẹ yêu cha các con.

Câu nói khiến Fluffy ngại ngùng đứng dậy. Cô kiễng chân, vươn dài hai cánh tay qua đầu rồi trình bày như thể có ai quan tâm, rằng mình sẽ đi bộ xuống lầu và mang lên cho chúng tôi ít cà phê ngon lành. Mẹ thấy thế cũng đứng dậy và nói rằng bà sẽ lên tầng ba để nhìn ngắm những đứa trẻ sơ sinh, còn tôi thì bảo mình sẽ ra bốt điện thoại công cộng để gọi cho Celeste. Jocelyn bảo nếu đúng như vậy thì cô sẽ về nhà. Chúng tôi đã trò chuyện cho đến khi không chịu nổi thêm một giây nào nữa mới dừng lại.

Tất nhiên, trong những ngày ấy, mọi người không chỉ quan tâm đến mỗi câu chuyện của mẹ tôi. Tất cả chúng tôi đều muốn thời gian trôi qua thật nhanh. Jocelyn đã nghỉ làm, còn Sandy vẫn tiếp tục công việc. Cô ấy kể về người chủ muốn tấm thảm được hút bụi theo một hướng duy nhất. Fluffy kể chuyện về Ngôi nhà của Người Hà Lan trước khi gia đình Conroy xuất hiện và việc chăm sóc bà VanHoebeek sau khi họ hết sạch tiền rồi đến chuyện cô bắt tàu đến New York để bán những món trang sức như thế nào. Đấy quả là một hành động dũng cảm đáng kinh ngạc của một phụ nữ trẻ vào thời đó.

“Cô không thể bán chúng ở Philadelphia sao?” Tôi hỏi cô.

“Có chứ,” cô đáp lại. “Nhưng bán cho ai ở Philadelphia đi chăng nữa thì họ cũng sẽ cầm đến Manhattan và bán với giá gấp đôi.”

Thời đó, để trang trải hóa đơn viện phí cho bà VanHoebeek bị gãy xương hông, Fluffy đã phải bán chiếc dây chuyền ngọc trai ba tầng, và khi bà lão qua đời, cô đã phải bán nốt chiếc trâm cài hình con chim nhỏ bằng vàng có gắn ngọc lục bảo trên mỏ để lo liệu đám tang.

“Trong nhà còn một vài thứ,” Fluffy kể. “Không như hồi còn khá giả nhưng bà chủ và tôi đã điều chỉnh được để thích ứng với tình hình lúc đó. Chúng tôi không biết liệu bà ấy còn sống thêm được bao lâu nữa. Phía ngân hàng thì muốn bán căn nhà. Đúng là lũ ngốc. Họ yêu cầu tôi lập danh sách những thứ có giá trị để họ định giá ngôi nhà. Tôi để lại hầu hết, chỉ lấy đi vài thứ.” Cô giơ tay cho chúng tôi nhìn chiếc nhẫn kim cương được thiết kế theo phong cách cổ điển, mỗi bên gắn một viên ruby nhỏ. Tôi đã thấy cô đeo chiếc nhẫn này từ hồi tôi biết cô.

Tôi cho rằng đấy là một lời thú tội vì toàn bộ đồ đạc trong nhà đã được cha tôi mua lại. Sau khi bà VanHoebeek mất, chiếc nhẫn sẽ thuộc về cha tôi cùng với những thứ khác và có lẽ ông sẽ tặng nó cho mẹ tôi, có thể bà sẽ tặng nó cho Maeve khi chị lớn hơn hoặc đưa nó cho tôi để tặng Celeste. Nhưng điều đó chỉ đúng khi cha để ý đến hộp trang sức hoặc mẹ để ý từng ngóc ngách trong ngôi nhà. Nhưng họ không phải người như vậy. Nhiều khả năng chiếc nhẫn vẫn sẽ nằm ở vị trí cũ cho đến khi Andrea đến. Dì ta sẽ không bỏ qua bất cứ món trang sức nào tìm thấy được trong ngôi nhà.

Lẽ ra Fluffy đã chuyển trả chiếc nhẫn cho một trong hai chúng tôi nếu chúng tôi yêu cầu, nhưng thay vào đó, mẹ tôi nghiêng người về phía trước, nhìn chằm chằm vào tay Fluffy, hai mắt mờ đục. “Đẹp quá,” bà nói rồi hôn bàn tay cô. “Chúc mừng em!”

*

Lần đầu tiên tôi trở lại Jenkintown sau khi bắt đầu học trường y chắc là Lễ Tạ ơn năm 1970. Học kỳ đầu tiên ngập đầu, đúng như Tiến sĩ Able dự đoán, tôi phải cố gắng mới theo kịp. Thêm vào đó, Celeste và tôi đang sống tốt ở căn hộ mà tôi thuê nên tôi không có thời gian cũng như ý định về nhà vào cuối tuần. Đó là trước khi chúng tôi nói chuyện về việc hôn nhân, thế nên Maeve và Celeste vẫn còn là bạn. Celeste và tôi đến Philadelphia trên chuyến tàu đêm trước Lễ Tạ ơn. Maeve đón chúng tôi và cho Celeste đi nhờ về nhà. Hôm sau, Maeve và tôi quay lại ăn tối với nhà Norcross. Trong sân nhà họ, những người đàn ông và những cậu bé đang vui vẻ chơi bóng ném cùng nhau - “Để vinh danh nhà Kennedy,” họ hô vang - trong khi những người phụ nữ, những cô gái gọt khoai tây, làm nước xốt và làm nốt mọi thứ trước khi bữa tối bắt đầu. Họ đã để Maeve ra ngoài dọn bàn ăn khi nhận ra rằng chị không đùa về việc không biết nấu ăn.

Bữa tối đúng là một bàn tiệc khổng lồ cho những đứa trẻ đã quen với việc ăn ở bàn giấy trong căn nhà lụp xụp, chỉ dám mơ về việc lẻn vào phòng ăn chính. Hôm đấy có mặt đông đủ gia đình, họ hàng và cả những người chẳng có nơi nào để về như Maeve và tôi. Mẹ Celeste luôn làm những bữa tiệc thật hoành tráng vào ngày nghỉ lễ. Sau những ngày tháng ăn cơm bệnh viện thì bữa ăn cải thiện kiểu này khiến tôi biết ơn bà kinh khủng. Tại bàn ăn, chúng tôi cùng chắp tay, cúi đầu cầu nguyện khi ông Bill Norcross đọc lời cầu nguyện: “Tạ ơn Chúa vì tất cả mọi thứ chúng con có và vì sự nhân từ của Ngài.” Kết thúc màn cầu nguyện, những đĩa thức ăn và nước xốt đầy ú ụ được chuyền tay nhau quanh bàn ăn.

“Giờ cháu làm gì?” Người phụ nữ ngồi bên trái hỏi tôi. Bà là một trong số những người cô của Celeste. Tôi không nhớ nổi tên bà dù chúng tôi đã được giới thiệu ở cửa.

“Danny đang học trường Y Columbia,” bà Norcross nói với từ bên kia bàn. Nếu được phép thì tôi cũng chẳng muốn chia sẻ thông tin này.

“Trường y?” Người cô hỏi lại, sau đó, đáng ngạc nhiên là bà nhìn Celeste và trách: “Cháu không kể cho ta biết rằng bạn cháu học trường y.”

Celeste im lặng và nhún bờ vai xinh đẹp. “Cô đâu có hỏi.”

“Cháu định theo chuyên ngành nào?” Một trong những người chú của em hỏi. Bỗng chốc mọi thứ trở nên thật thú vị. Tôi tự hỏi không biết ông có phải chồng của bà cô kia không.

Tôi hình dung ra tất cả những tòa nhà bỏ không mà tôi nhìn thấy ở Washington Heights, trong thoáng chốc, tôi định nói với họ sự thật: tôi có kế hoạch làm về bất động sản. Từ cuối bàn, tôi thấy Maeve nở nụ cười nham nhở, khẳng định rằng chỉ mình chị hiểu chuyện này điên rồ đến mức nào. “Cháu cũng chưa có ý định gì ạ,” tôi nói.

“Anh có phải mổ xẻ người không?” Em trai Celeste hỏi tôi. Tôi được biết đây là năm đầu tiên cậu được ra ngồi ăn cùng mọi người. Cậu là người nhỏ tuổi nhất bàn.

“Teddy!” Mẹ cậu cảnh cáo.

“Khám nghiệm tử thi ấy,” Teddy chán nản nói. “Họ phải làm thế, anh biết đấy.”

“Bọn anh có làm vậy,” tôi nói. “Nhưng họ bắt bọn anh tuyên thệ rằng không bao giờ được thảo luận về việc đó trên bàn ăn.”

Trong phòng vang lên một tràng cười biết ơn vì câu nói của tôi. Từ xa, tôi nghe thấy ai đó hỏi Maeve có phải bác sĩ không. “Không,” chị đáp, giơ chiếc nĩa xiên mấy hạt đậu xanh. “Cháu đang làm trong công ty chuyên về rau củ.”

Khi bữa tối kết thúc và chúng tôi đã chất đống đồ ăn thừa đem về cho cuối tuần, Celeste hôn tạm biệt tôi. Maeve hứa rằng chúng tôi sẽ qua đón em vào sáng Chủ nhật trên đường đến ga tàu. Những người nhà Norcross vui vẻ tiễn chúng tôi ra xe, nói sao không ở lại vì tiếp đó sẽ có màn xem phim, ăn bỏng ngô và chơi bài. Lumpy chạy ra sân sủa mãi vào đống lá cây cho đến khi họ “xùy” cho chú vào trong nhà.

“Đây là cơ hội của chúng ta,” Maeve thì thầm, nhảy vào trong xe, phía bên ghế lái. Tôi đi vòng rồi ngồi vào xe, trong lúc họ đứng đó, cả chủ nhà và khách, tươi cười vẫy tay khi chúng tôi rời đi.

Nhà Norcross ăn tối sớm nên lúc đó trời cũng chỉ vừa chạng vạng. Chúng tôi có đủ thời gian để quay trở lại Ngôi nhà của Người Hà Lan trước khi đèn nhà được bật sáng: Chúng tôi đã hứa với Jocelyn sẽ sang nhà cô để ăn bánh nên đây chỉ là một màn giải lao ngắn giữa những bữa ăn thịnh soạn nhà người khác. Khi đó chúng tôi vẫn còn trẻ để nhớ chính xác về những Lễ Tạ ơn mình từng tham dự khi còn là một đứa trẻ, nhưng những kỷ niệm đó chẳng gợi lên chút khát khao nào. Hoặc là tôi, Maeve và cha ăn trong phòng ăn, còn Sandy và Jocelyn cố hết sức để tỏ ra không vội vã muốn trở về với gia đình riêng; hoặc đó là những năm có mặt Andrea và lũ trẻ nhà dì ta, khi mà Sandy và Jocelyn thể hiện rõ ràng sự vội vã muốn về. Sau Lễ Tạ ơn kinh hoàng mà Maeve bị đày lên tầng ba, chị đã không về Elkins Park nữa. Kể từ đó, năm nào tôi cũng nhìn vào khoảng trống mà chị để lại trên bàn với niềm đau đớn khôn nguôi dù tôi không hiểu việc vắng mặt chị trong Lễ Tạ ơn có gì tệ hơn việc vắng mặt chị vào những ngày khác trong năm. Việc trải qua Lễ Tạ ơn đặc biệt với gia đình Norcross đã bù đắp rất nhiều, khiến hai chị em tôi lại cảm thấy bữa tối Lễ Tạ ơn là một điều kỳ diệu, ngay cả khi chúng tôi không thể nào quên được những kỷ niệm ấu thơ. Bằng cách nào đó, chúng tôi nghĩ những bữa tiệc nhà Norcross có thể giúp chúng tôi vượt qua những tổn thương đã trải qua trong những ngày lễ buồn tủi hồi thơ bé.

“Cho chị thứ lỗi,” Maeve nói, kéo cửa sổ xuống để đón luồng gió lạnh, “nhưng nếu giờ chị không hút thuốc thì chị chết mất.” Chị rút ra một điếu rồi đưa gói thuốc ra mời cho tôi tự quyết có hút không, rồi đưa tôi chiếc bật lửa. Ngay sau đó, chúng tôi sẽ cùng nhả khói ra ngoài cửa sổ bên mình.

“Bữa tối đã ngon rồi mà điếu thuốc còn ngon hơn,” tôi nhận xét.

“Nếu em khám nghiệm tử thi cho chị ngay bây giờ, em sẽ không thấy gì ngoài thịt và nước xốt, có thể là một tĩnh mạch nhỏ nơi tay phải chứa chút khoai nghiền.” Maeve rất cẩn thận về lượng đường nạp vào. Chị đã phải bỏ qua món tráng miệng nhà Norcross để có thể sang ăn tráng miệng nhà Jocelyn.

“Em có thể đưa chị ra hội chẩn,” tôi nói, nghĩ đến cảnh ông Bill Norcross đang cưa nhỏ chú gà tây.

Maeve khẽ rùng mình. “Chị không tin nổi là em mổ xẻ người ta đấy.”

“Còn em thì không tin nổi chị lại bắt em học trường y đấy.”

Chị cười, áp ngón tay lên môi như thể muốn dập tắt cuộc nổi loạn trên bàn ăn tối. “Đừng phàn nàn nữa. Ngoài việc mổ xẻ ra thì nói cho chị xem làm ngành y có gì kinh khủng nào.”

Tôi ngửa đầu ra sau, phả ra làn khói trắng. Maeve luôn nói tôi rít từng hơi nặng nề như thể đang trên đường hành quyết, còn tôi thì luôn nghĩ rằng đây là điếu cuối cùng của mình. Dù thời đó bác sĩ ai cũng giữ gói Marlboro trong túi áo blouse, đặc biệt là các bác sĩ chỉnh hình, tôi vẫn không nghiện thuốc. Bạn không thể trở thành một bác sĩ chỉnh hình mà không hút thuốc. “Điều tệ nhất chính là em nhận ra chúng ta sẽ chết.”

Chị nhướn mày nhìn tôi. “Em không hiểu điều đó sao?”

Tôi lắc đầu. “Chị nghĩ rằng chị hiểu đấy. Chị nghĩ rằng vào năm chín mươi sáu tuổi, chị sẽ nằm trên ghế dài sau Lễ Tạ ơn và không bao giờ tỉnh lại nữa, nhưng ngay cả thế, chị cũng không chắc mình sẽ chết lúc nào. Sống chết có số, ai cũng nghĩ vậy.”

“Chị chưa bao giờ nghĩ mình sẽ chết trên ghế dài năm chín mươi sáu tuổi, hay sống nổi đến năm chín mươi sáu tuổi.”

Nhưng tôi không buồn nghe mà chỉ nói: “Chị không nhận ra có bao nhiêu cách để chết, ngoại trừ việc bị súng bắn, dao đâm, ngã từ cửa sổ hay tất cả những chuyện khả năng cao là chẳng thể xảy ra.”

“Vậy thì nói cho chị nghe nào, ông bác sĩ, điều gì sẽ xảy ra?” Chị đang cố gắng để không cười tôi, nhưng sự thật lúc đó tôi chỉ nghĩ đến cái chết.

“Quá nhiều bạch cầu, quá ít hồng cầu, quá nhiều sắt, nhiễm trùng đường hô hấp, nhiễm trùng huyết. Chị có thể bị tắc nghẽn ống mật hay vỡ thực quản. Ngoài ra, còn các loại ung thư.” Tôi nhìn chị. “Em có thể ngồi đây mà nói về bệnh ung thư cả đêm. Điều đó thật đáng lo ngại. Có hàng ngàn cách khiến chúng ta chết sớm mà không phải do ngoại cảnh và rất có thể ta sẽ không biết nguyên nhân cho đến khi quá muộn.”

“Thế nên mới cần bác sĩ phải không nào.”

“Chính xác.”

“Chà...” Maeve nói, hít một hơi thuốc dài. “Chị biết mình sẽ chết như thế nào nên cũng chẳng lo lắm.”

Tôi nhìn thấy mặt chị sáng lên dưới ánh đèn đường nhấp nháy, bởi Andrea đã bật đèn trong Ngôi nhà của Người Hà Lan. Chị sắc sảo, thẳng thắn và xinh đẹp. Chị trẻ khỏe và có cả cuộc đời phía trước. “Chị nghĩ mình sẽ chết như thế nào?” Tôi không hiểu sao mình lại hỏi vậy dù biết chắc mình chẳng muốn biết câu trả lời.

Không giống như các sinh viên y khoa trong lớp tôi, họ sẽ liệt kê một danh sách các bệnh khi đưa ra giả thuyết về cái chết của họ, Maeve nói với vẻ chắc chắn: “Bệnh tim hoặc đột quỵ. Đó là tương lai của những bệnh nhân bị bệnh tiểu đường. Có thể là bệnh tim, nếu em nhìn gương cha. Theo chị như thế cũng tốt. Mọi chuyện sẽ nhanh hơn, đúng không? Bùm.” Tự dưng tôi thấy giận chị. Chị ấy biết mình đang nói về điều gì và dù sao đây cũng là Lễ Tạ ơn, chúng tôi chỉ đang chơi một trò chơi, không giống lúc người nhà Norcross tất tay vào ván bài. “Nếu chị lo lắng về một cơn đau tim thì sao chúng ta lại ngồi đây hút thuốc chứ?”

Chị chớp mắt. “Chị đâu có lo. Chị đã nói với em, chị không phải là người sẽ chết sau bữa tối lúc chín mươi sáu tuổi. Đấy là em.”

Tôi ném điếu thuốc ra ngoài cửa sổ xe.

“Chúa ơi, Danny! Mở cửa và nhặt nó lên.” Chị vỗ nhẹ vào vai tôi. “Đó là sân nhà bà Buchsbaum.”

Chú thích:

[1] Sari: một loại trang phục truyền thống của phụ nữ Ấn Độ.