← Quay lại trang sách

Chương 17

“Con có nhớ hồi chúng ta sống trong ngôi nhà nhỏ khi bà Henderson nhà bên nhận được một thùng cam con trai bà ấy gửi từ California không?” Mẹ chúng tôi sẽ bắt chuyện khi ngồi bên giường bệnh của Maeve tại phòng riêng mà chị mới chuyển đến. “Bà ấy đã cho nhà mình ba quả.”

Maeve đang mặc chiếc áo choàng tắm vải chenille màu hồng phấn mà May chọn cho chị mấy năm trước, bên cạnh đặt bó hồng nhỏ của ông Otterson. Hai má chị ửng hồng. “Nhà ta chia hai quả cam ra làm ba phần cho ba người, còn quả thứ ba mẹ gọt vỏ và lấy nước làm bánh. Khi bánh ra lò, mẹ đã bảo con đến gọi bà Henderson sang ăn bánh với chúng ta.”

“Những ngày đầu tiên đó,” mẹ cảm thán.

Mẹ tôi và Maeve thi nhau liệt kê những thứ tuyệt vời trong căn nhà nhỏ: Chiếc ghế nâu dài rộng rãi có chân làm từ gỗ thích, chiếc ghế màu vàng mềm mại với một bên tay ghế vương vãi những vết ố cà phê. Kìa khung tranh vẽ một tiệm rèn (họ tự hỏi không biết nó từ đâu đến và giờ đã đi về đâu?) rồi bộ bàn ghế nhỏ trong nhà bếp cùng chiếc tủ kim loại màu trắng duy nhất được bắt chặt vào bức tường phía trên bồn rửa, trên đó có bốn cái đĩa, bốn cái bát, bốn cái cốc và bốn cái ly.

“Sao lại là bốn?” Tôi đang nhìn vào máy monitor, nghĩ rằng đáng lẽ nhịp tim của chị phải ổn định hơn.

“Lúc đó cả nhà đang chờ đợi sự xuất hiện của con,” mẹ âu yếm đáp.

Ở cạnh Maeve khiến mẹ cảm thấy an toàn hơn khi phải nói chuyện với tôi.

“Giường của chị đặt ở góc phòng khách,” Maeve nói.

“Hằng đêm, cha sẽ mở bức bình phong cạnh giường và thủ thỉ: ‘Cha đang xây phòng cho Maeve yêu của cha đấy.’”

Hồi sống trong ngôi nhà nhỏ, họ mua sắm ở PX[1] trên căn cứ và mang đồ về nhà trong một chiếc túi tinh xảo mà mẹ tôi tự đan. Họ thu thập hộp thiếc cho xe chở thiếc, trông giúp trẻ con nhà hàng xóm, làm việc tại bếp ăn từ thiện của nhà thờ vào thứ Hai và thứ Sáu. Họ bao gồm Maeve và mẹ chúng tôi, luôn là hai người họ. Vào mùa đông, mẹ sẽ tháo chiếc áo len mà một người phụ nữ trong nhà thờ tặng để đan nó thành mũ, khăn quàng cổ và găng tay cho chị gái tôi. Đến mùa hè, họ làm cỏ cho khu vườn mà cả khu phố trồng đủ loại tử cà chua, cà tím, khoai tây, ngô, đậu que và rau bina. Họ tự làm những lọ gia vị, những hộp dưa bao tử ngâm và mứt. Họ kể lại mọi thứ trong lúc tôi đọc báo bên góc tường.

“Con có nhớ hàng rào bẫy thỏ đã nhốt lũ thỏ ở trong vườn không?” Mẹ hỏi.

“Con nhớ hết.” Lúc đó Maeve đã ra khỏi giường. Chị đang ngồi trên ghế bên cửa sổ, phủ tấm chăn qua đùi. “Con nhớ hồi đó, cứ đến đêm là hai mẹ con mình phải tắt hết đèn đóm rồi mang một chiếc đèn nhỏ vào tủ quần áo trong phòng ngủ để đọc sách. Mẹ con mình phải cởi cả giày cả dép ra để lót trên sàn mẹ nhỉ! Lúc đó cha đang bận tuần tra không kích. Mẹ phải co đầu gối lên mới có thể ngồi vừa chỗ đó, con sẽ vòng ra phía sau rồi ngồi vào lòng mẹ.”

“Cô gái này có thể đọc sách từ hồi bốn tuổi,” mẹ kể lại với tôi. “Chị con là đứa trẻ thông minh nhất mẹ từng thấy.”

“Mẹ sẽ lót một chiếc khăn dưới cửa để ánh sáng không lọt ra ngoài,” Maeve mơ màng nhớ lại. “Buồn cười thật. Hồi đó con cứ nghĩ rằng mọi thứ đều được chia đều, ánh sáng cũng được chia đều nên không được để ánh sáng không sử dụng tràn ra sàn nhà gây lãng phí được. Mình phải cất ánh sáng vào tủ để nó sáng vừa đủ cho hai mẹ con.”

Họ nhớ căn nhà nằm ở chỗ nào trong căn cứ, cụ thể là ở góc nào, dưới gốc cây nào nhưng họ không thể nhớ chính xác những gì cha tôi làm hồi đó. “Mẹ nghĩ là cha con đại loại như kiểu tiếp tế,” mẹ nói như thể chuyện đó chẳng quan trọng lắm. Họ nhớ rõ mái hiên nhỏ lợp bằng măng trước nhà với bậc tam cấp, những cây phong lữ nhà bên nở đỏ rực trong chậu đất nung. Cửa nhà dẫn thẳng đến phòng khách, phòng ngủ nhỏ của cha mẹ tôi nằm bên phải, nhà bếp nằm bên trái, còn phòng tắm thì nằm giữa.

“Ngôi nhà nhỏ xíu như bao diêm vậy,” Maeve nói.

“Nhỏ hơn nhà chị sao?” Tôi ngạc nhiên vì trong mắt tôi, Maeve sống trong ngôi nhà nhỏ xíu như nhà búp bê.

Mẹ và chị gái tôi chỉ nhìn nhau cười.

Tôi có một người mẹ đã bỏ đi từ khi tôi còn rất nhỏ. Tôi không nhớ nổi mặt bà. Còn Maeve thì luôn xuất hiện, với chiếc áo khoác đỏ và mái tóc đen, đứng ở chân cầu thang nơi sàn nhà được lát đá cẩm thạch trắng xen kẽ những ô vuông nhỏ màu đen. Tuyết rơi lấp lánh ngoài khung cửa phía sau lưng chị, những ô cửa sổ rộng như màn ảnh ở rạp chiếu phim, con tàu gỗ trong chiếc đồng hồ của ông cứ nhấp nhô theo làn sóng từng phút từng phút một. “Danny à!” Chị gọi với tôi từ dưới lầu. “Đến giờ ăn sáng rồi! Xuống thôi.” Vào những sáng mùa đông, khi trời quá lạnh, chị thường mặc áo khoác trong nhà. Bởi chị quá cao và gầy nên ăn bao nhiêu cũng để phát triển hết chứ chẳng ấm tẹo nào. “Trông con lúc nào cũng như thể sắp ra ngoài ấy,” cha nói khi đi ngang qua chị như thể đến áo khoác của chị cũng khiến cha khó chịu.

“Danny à!” Chị hét lên. “Chị không hầu tận răng đâu nhé!”

Giường tôi được phủ kín những chăn, chính sức nặng đó đã ghim tôi lại. Không một buổi sáng mùa đông nào trong Ngôi nhà của Người Hà Lan mà tôi không nghĩ đến việc nằm ườn cả ngày trên giường thì cảm giác sẽ như thế nào? Nhưng giọng nói của Maeve ở cầu thang, cùng mùi cà phê, thức uống mà tôi chưa đủ tuổi để thưởng thức đã kéo tôi dậy. Jocelyn sẽ nói: “Ăn uống đủ chất, đủ bữa thì mới phát triển tốt được. Cậu không muốn cao giống chị gái mình sao?” Tôi tìm dép đi trong nhà và áo choàng tắm bằng len dưới chân giường rồi loạng choạng bước xuống cầu thang, toàn thân lạnh cóng.

“Hoàng tử, dậy đi thôi!” Maeve nói, mặt chị hếch lên dưới ánh đèn. “Nào, chúng ta có bánh kếp đấy. Đừng bắt chị phải đợi.”

Niềm vui thời thơ ấu của tôi vụt tắt không phải lúc mẹ bỏ đi mà là khi Maeve rời khỏi nhà, năm cha kết hôn với Andrea.

Mẹ chúng tôi đã ở đâu suốt thời gian qua? Tôi thật sự chẳng quan tâm. Bà và Maeve ngồi trên giường của chị khi Maeve về nhà, hai đôi chân gầy guộc duỗi thẳng đặt cạnh nhau. Thỉnh thoảng tôi bắt được vài câu, vài từ khi đi xung quanh ngôi nhà: Ấn Độ, cô nhi viện, San Francisco, 1966. Tôi tốt nghiệp Choate năm 1966, khởi nghiệp tại Columbia, trong khi mẹ tôi chăm sóc những đứa trẻ của một gia đình Ấn Độ giàu có trên chuyến tàu đến San Francisco để nhận một khoản đóng góp lớn cho trại trẻ mồ côi nơi mẹ làm việc. Hay đó là trại phong? Bà không bao giờ trở lại Ấn Độ nữa. Bà ở lại San Francisco. Bà đến Los Angeles, sau đó là Durango rồi đến Mississippi. Bà thấy người nghèo ở khắp nơi. Tôi ra ngoài ga ra và tìm thấy máy cắt cỏ của Maeve. Tôi lái xe ra cây xăng để mua một can xăng và khởi động máy cắt cỏ. Tôi vô cùng hài lòng về việc mình làm nên sau khi cắt xong cỏ, tôi lại đi tới để chăm sóc những bồn hoa và vỉa hè. Chủ tòa nhà ở Manhattan không bao giờ tự cắt cỏ cả.

Đêm Maeve xuất viện, tôi không đến khách sạn mà nằm thao thức trên chiếc ghế dài nhà chị. Tôi chỉ muốn ở đó phòng trường hợp trái tim chị ngưng đập nhưng lại không thể chịu đựng nổi nếu có điều gì xảy ra với chị. Sáng hôm sau, tôi chuyển đến căn phòng cũ của Celeste tại nhà Norcross. Fluffy đã về nhà nhưng mẹ tôi cứ ở lại đó mãi. Những người bạn của Maeve mang thịt hầm để trước hiên nhà chị, cả gà quay, táo và bánh mì bí đỏ nữa. Thức ăn nhiều đến nỗi Sandy và Jocelyn phải mang một nửa về nhà. Maeve và mẹ tôi ăn ỏn ẻn như mèo - có lần tôi còn trông thấy họ chia nhau đĩa trứng bác. Maeve vừa hạnh phúc vừa mệt mỏi trông chẳng giống chị chút nào. Chị không nói về công việc ở Otterson, hay công việc chị làm giúp tôi, hoặc bất kỳ điều gì xảy ra khi tôi không có đó. Chị chỉ ngồi đó, trên đi văng, đợi mẹ đem bánh mì nướng ra cho. Không khoảng cách, không trách móc. Họ sống cùng nhau trong thiên đường ký ức của riêng mình.

“Kệ họ đi,” Celeste nói với tôi qua điện thoại. “Mọi chuyện đã khép lại. Mẹ đã quay về và giúp đỡ còn gì. Vả lại những gì Maeve cần là được nghỉ ngơi. Chẳng phải bác sĩ luôn nói vậy sao? Chị ấy không cần thêm ai khác.”

Tôi nói với em rằng tôi không phải là “ai khác” nhưng sau khi thốt ra điều đó, tôi thấy em nói đúng. Họ đang đợi tôi rời đi để có thể ở riêng với nhau.

“Sớm muộn gì anh cũng phải quay lại New York. Có cả một danh sách dài những lý do khiến anh phải về đó.”

“Anh sẽ về sớm thôi,” tôi nói với vợ. “Anh chỉ muốn chắc rằng mọi thứ đều ổn.”

“Mọi thứ ổn chứ?” Celeste hỏi. Em chưa bao giờ gặp mẹ nhưng bản năng ngờ vực của em còn mạnh hơn tôi.

Tôi đang đứng trong phòng bếp nhà Maeve, chiêm ngưỡng những đơn thuốc của chị được mẹ gắn lên tủ lạnh. Những chai thuốc nhựa cũng được mẹ xếp thẳng hàng ngay ngắn trong hộp đựng và ghi rõ thời gian uống. Bà đã cẩn thận hạn chế lượng khách đến thăm và thời gian thăm bệnh, chỉ ông Otterson là ngoại lệ. Bà đặc biệt khoản đãi ông. Ông Otterson cũng không bao giờ từ chối sự đón tiếp nồng hậu đó, và nếu hôm nào đẹp trời, ông sẽ cùng Maeve đi dạo trên phố rồi đưa chị về. Nếu không, mẹ tôi sẽ bắt Maeve đi bộ hai vòng quanh sân hai tiếng một lần. Giờ họ đang ở trong phòng khách nói về cuốn tiểu thuyết họ cùng đọc có tên Người dọn phòng[2]. Hai người đều khẳng định đấy là cuốn sách yêu thích của họ.

“Sao cơ?” Celeste hỏi, sau đó quay ra nói: “Không. Đợi mẹ một lát. Cha con này.” Em quay lại nói với tôi: “Chào con gái anh đi.”

“Con chào cha,” May nói. “Nếu cha không về nhà sớm, con sẽ tìm một con chó ít gây dị ứng về nuôi đấy. Con đang nghĩ đến một con poodle. Con sẽ đặt tên cô nàng là Stella. Con muốn nuôi một chú mèo nhưng mẹ bảo là chẳng có con mèo nào ít gây dị ứng cả. Mẹ nói rằng Kevin bị dị ứng với lông mèo nhưng sao mẹ biết chứ? Thằng bé có bao giờ đến gần mèo đâu.”

“Con đang nói gì vậy?”

“Cha chờ chút,” May thì thầm rồi tôi nghe thấy tiếng đóng cửa. “Bất cứ khi nào con nói về việc kiếm một con chó mẹ đều rời khỏi phòng. Kiểu như trò ảo thuật vậy. Con sẽ đến Jenkintown để gặp bác Maeve.”

“Mẹ con đưa con đi sao?”

May tạo ra thứ âm thanh mà con bé hay dùng khi thấy những hành động ngốc nghếch của người lớn. “Con tự đi. Cha phải ra đón con ở ga tàu đấy.”

“Con không được đi tàu một mình đến đây đâu.” Chúng tôi không để May đi tàu điện ngầm một mình. Con bé được phép đi xe buýt và taxi nhưng tàu hỏa thì không đời nào.

“Cha nghe này, bác Maeve bị đau tim,” con bé nói như thể tôi chưa biết tin này. “Cha biết đấy, bác sẽ thắc mắc rằng sao con vẫn chưa đến thăm bác. Mẹ còn kể chuyện người bà Ấn Độ của bọn con đã trở về và con muốn gặp bà. Đó là một chuyện lớn đấy, xuất hiện một người bà mới trong màn này của vở kịch.”

Màn nào của vở kịch chứ? “Bà không phải là người Ấn Độ.” Tôi ngó ra ngoài bếp nhìn người mẹ Ireland xanh xao đang ngồi trên chiếc ghế dài cạnh Maeve, rồi ngoảnh mặt đi. “Bà từng sống ở Ấn Độ nhưng đã rất lâu rồi.”

“Dù thế nào đi nữa thì con cũng sẽ đi tàu. Cha đã một mình đi tàu từ New York về nhà khi cha mười hai tuổi, sau khi cha thăm bác Maeve vào Lễ Phục sinh; và vì Chúa đấy cha ơi, con mười bốn tuổi đầu rồi!”

“Cha ghét mỗi khi con nói vì Chúa. Nghe hệt ông nội con.”

“Con gái thường trưởng thành sớm hơn con trai, mà giờ con còn lớn hơn cha hồi đó hai tuổi.”

Tôi đã kể cho con gái mình nghe chuyện đó chưa? Tất nhiên là giờ May lớn hơn tôi hồi đó, nhưng không đời nào tôi chịu cho con bé một mình đi tàu hỏa đến đây. “Con biết không, cha thấy đó không phải là ý kiến tệ đâu. Nhưng có điều cha sẽ về nhà vào ngày mai, sau khi đưa bác Maeve đi khám.”

“Cha là bác sĩ mà,” con bé nói, cười khúc khích với trò đùa của mình.

“Nghe này, May. Ở nhà với mẹ ngoan đi con.”

“Con vẫn vậy mà,” con bé phụng phịu. “Nhưng mẹ cứ lái con vòng vòng ấy. Con sẽ viết một cuốn sách mang tên Sáu triệu lý do không nên đến Pennsylvania. Cho con chào bà một câu với ạ.”

Mẹ tôi không hỏi lời nào về các con tôi. Không một lời. Fluffy nói rằng đó là vì cô đã kể hết cho bà nghe, điểm môn khoa học của May và Kevin, việc múa ba lê của May. Fluffy nói rằng mẹ tôi rất muốn biết và nếu bà không hỏi là lỗi do tôi đã tỏ ra lạnh nhạt với bà. “Bà ngủ rồi,” tôi nói với con bé.

“Sao bà lại ngủ giờ này ạ? Bây giờ là hai giờ mà. Bà có phải người ốm đâu.”

“Bà già rồi con ạ,” tôi nói, quay lại nhìn mẹ. Bà đang cười. Với mái tóc ngắn, làn da nhăn nhúm điểm những nét đồi mồi, bà có thể làm mẹ của bất cứ ai nhưng bà lại là mẹ tôi. “Khi bà dậy cha sẽ nói với bà là con gọi điện.”

Chẳng có bằng chứng nào chứng tỏ mẹ tôi đã sống ở những nơi bà kể. Tôi tự hỏi không biết bà có định sống ở nhà Maeve không vì va li của bà ở trong tủ của Maeve. Tôi đã dấy lên nỗi nghi ngờ trong khi trở về nhà, phá vỡ chuỗi hai tuần đầy ắp những sự kiện bất ngờ.

“Ý anh là bà ấy là người vô gia cư sao?” Celeste hỏi. Chúng tôi đứng trong bếp. Em đang chuẩn bị bữa tối: cá hồi cho tôi và May - chúng tôi không thích ăn cá nhưng đã đọc một nghiên cứu ăn cá giúp thông minh hơn. Hai chiếc bánh mì kẹp thịt cho Kevin - nó chẳng mấy quan tâm đến việc đó. Lũ trẻ rất vui khi được gặp lại tôi nhưng ngay ngày hôm sau, chúng thấy tôi vẫn là người cha mà chúng hằng biết và chẳng còn gì thú vị cả.

“Vô gia cư kiểu không có nhà chứ không phải kiểu ngủ gầm cầu, đúng không?” Sao tôi biết được chứ?

“Có khi nào cha mẹ anh chưa ly hôn không? Fluffy nghĩ vậy đó. Cô ấy nghĩ mẹ anh vẫn là chủ ngôi nhà mà không hay biết điều đó.”

Tôi tưởng tượng cảnh Fluffy thì thào vào tai em một câu chuyện mang tính phỏng đoán. “Họ ly hôn rồi. Cha anh đã trả tiền cho một người ở Lãnh sự quán Mỹ để ông ta gặp mẹ trên con tàu chở bà ở Bombay. Cha đã gửi đơn ly hôn qua đường bưu điện đến Lãnh sự quán rồi người đàn ông kia đưa mẹ thẳng đến đó và yêu cầu bà ký ngay trước mặt công chứng viên. Tất cả đều hợp pháp. Người đàn ông đem giấy tờ ly hôn cũng đem theo một bức thư cha gửi đến mẹ, nói rằng bà đừng bao giờ quay lại nữa. Anh nghĩ cha đã lo liệu mọi thứ.” Đây là một trong số những câu chuyện mà tôi nghe loáng thoáng được khi Maeve và mẹ nói chuyện với nhau chứ bà không kể với tôi. Maeve biện minh rằng nếu bức thư là minh chứng cho tình yêu và lòng trắc ẩn thì mẹ sẽ lên tàu và về nhà ngay lập tức. Mẹ bảo cũng có thể nếu trường hợp đó xảy ra.

“Thế nên mẹ không phải giàu ngầm nhở?”

Tôi lắc đầu. “Mẹ nghèo công khai luôn ấy chứ.”

“Giờ hai người phải chăm sóc bà ấy sao?” Celeste chuẩn bị xử lý những củ khoai tây hồng nhỏ trong bồn rửa, em chà sạch sẽ từng củ trong lúc tôi mở tủ lạnh tìm chai vang đã khui.

“Anh sẽ không chăm sóc bà ấy đâu.”

“Nhưng anh đang chăm sóc Maeve mà Maeve thì phải chăm sóc bà ấy.”

Tôi đã nghĩ đến điều này. Tôi nếm một ngụm rượu. “Chà, hiện tại thì mẹ đang chăm sóc Maeve.” Từ chuyện đồ ăn, thuốc uống rồi việc ủi quần áo và tiếp khách đến thăm.

“Việc của anh là gì?”

Tôi quan sát, đó là việc của tôi. Tôi chường bộ mặt khó coi của mình giữa hai người ấy mọi lúc. “Anh chỉ muốn đảm bảo rằng Maeve vẫn ổn.”

“Anh sợ Maeve sẽ lại lên cơn đau tim hay sợ Maeve sẽ yêu mẹ hơn anh?”

Tôi định rót cho mỗi người một ly rượu nhưng cuộc trò chuyện cứ tiến triển theo hướng thế này nên tôi chỉ rót một ly cho mình. “Đấy đâu phải cuộc thi.”

“Được rồi, vậy thì tốt. Nếu anh không coi đó là một cuộc thi thì hãy kệ họ đi. Anh có vẻ chẳng quan tâm bà ấy cho lắm, còn Maeve thì chẳng buồn để mắt đến ai khác ngoài bà.”

Nói thêm là Celeste đã trở nên cực kỳ hiểu chuyện từ khi Maeve ốm. Cứ vài ngày em lại gửi thiệp thăm hỏi mang tình yêu của lũ trẻ đến và khi Maeve về nhà, một thùng hoa mẫu đơn khổng lồ nằm trước hiên nhà chị. Chúng nhiều như thể em mua hết số mẫu đơn còn sót lại ở miền Đông Pennsylvania.

“Em nói với Celeste là chị thích hoa mẫu đơn à?” Maeve hỏi, nhìn vào tấm thiệp.

Nhưng thực sự tôi chẳng biết gì về việc Maeve thích hoa mẫu đơn.

“Sao chúng ta lại tranh cãi về chuyện này nhỉ?” Tôi hỏi Celeste. “Anh rất vui khi được về nhà.”

Em thả củ khoai cuối cùng vào rây và lau khô tay. “Từ khi biết Maeve là em biết chị ấy muốn mẹ quay về. Hai người đỗ xe trước ngôi nhà vì nó làm chị nhớ đến mẹ. Chị em anh sống gắn chặt nhau, không tách rời vì cả hai đều bị mẹ bỏ rơi. Rồi giờ mẹ anh quay lại và chị anh, Chúa phù hộ cho chị ấy, cuối cùng đã cảm thấy hạnh phúc, trong khi anh thì đau khổ. Kiểu như anh không muốn từ bỏ nỗi đau của mình vậy. Nếu anh lo lắng cho Maeve đến thế và chị ấy đang hạnh phúc thì sao không để chị ấy hạnh phúc? Chị ấy có thể tận hưởng cuộc sống cùng với mẹ, còn anh thì có cuộc sống cùng em và các con.”

“Tình cảm đâu phải thứ đem ra trao đổi đâu em.”

“Nhưng đó là điều anh sợ, phải không? Rằng mẹ anh không bị trừng phạt? Maeve ở cạnh bà sẽ hạnh phúc hơn ở cạnh anh?”

May từ trên lầu hét vọng xuống: “Cha mẹ có biết con ở trên này sẽ nghe thấy hết không? Nhà có lỗ thông hơi đấy. Nếu hai người muốn cãi nhau thì ra nhà hàng ấy.”

“Cha mẹ không cãi nhau,” tôi lớn giọng nói. Tôi nhìn vợ mình và chỉ trong một giây, tôi nhìn thấy em, cô gái có đôi mắt xanh tròn với mái tóc vàng óng. Người phụ nữ tôi quen hơn nửa cuộc đời như đang lơ lửng trước mắt tôi rồi lại nhanh chóng biến mất.

“Cha mẹ đang cãi nhau,” Celeste nói, mắt nhìn thẳng vào tôi, lớn giọng giống tôi. “Nhưng sẽ dừng ngay đây.”

Lẽ ra tôi có thể hưởng trọn mùa hè ở nhà mình tại New York, giám sát việc xây sửa ở nhiều căn hộ khác nhau, chơi bóng rổ với Kevin, giúp May ghi nhớ mấy vở độc diễn. Tôi không nghĩ ai sẽ quan tâm những chuyện đó trừ Celeste, điều đó khiến cô ấy hạnh phúc. Nhưng rồi tuần này qua tuần khác, tôi trở lại Jenkintown, như thể cách duy nhất biết Maeve có khỏe không là tận mắt nhìn thấy chị. Tôi được chào đón ngủ lại nhà Norcross. Chú chó Labrador già trước kia giờ đã được thay thế bởi một chú chó tên Ramona. Tôi lái xe từ thành phố về nhà Maeve vì tôi cần một chiếc ô tô để lui tới nhà Maeve, và vì tôi cần thực hiện những chuyến đi bất tận đến cửa hàng kim khí. Tôi tìm kiếm hết dự án này đến dự án khác nhằm biện minh cho sự hiện diện của mình ở nhà chị, không muốn hai người họ coi tôi như kẻ chỉ ngồi trong phòng khách để ý họ. Tôi khao khát được sửa công tắc đèn, sơn tủ và thay thế những bệ cửa sổ mục nát để mong họ đừng để ý đến tôi.

Tuần này qua tuần nọ, Kevin hoặc May, có khi cả hai nói với tôi chúng muốn đi cùng. Chúng hứng thú sắp xếp thời khóa biểu để dành thời gian với bố mẹ Celeste, dành thời gian với Maeve và dành hết thời gian còn lại dịp hè ở quê. Chúng gọi mẹ tôi là Người Thú Vị như thể bà là một điệp viên trở về từ vùng đất chết. Chúng muốn gặp bà và bà cũng muốn gặp chúng. Tôi và Celeste đều muốn bọn trẻ giữ khoảng cách với bà nhưng chỉ càng làm chúng thêm hứng thú và muốn đi cùng chúng tôi. Thực ra, chuyện đó cũng không quá tệ. Thậm chí vào lúc đó, tôi nhận ra chuyến đi sẽ tạo nên những kỷ niệm tuyệt vời. Trong xe, Kevin và tôi kể ra ưu điểm của Danny Tartabill[3] và quyết định xem liệu điều đó có khiến anh xứng đáng trở thành Yankee được trả lương cao nhất đội không, trong khi May hát vài bản nhạc phim làm nền cho cuộc trò chuyện của chúng tôi. Chúng tôi đưa con bé đi xem trình diễn lại vở Gypsy từ hai năm trước nhưng con bé vẫn thích đến mê mệt. “Ăn trứng đi, ông Goldstone. Đây có khăn ăn, có đũa, có ghế!” Con bé nhiệt tình tháo cả dây an toàn khiến chúng tôi phải bắt con bé xuống ghế sau. Con bé đã bỏ học ở Trường Ba lê Hoa Kỳ để dành thời gian tập trung cho ca hát.

Kevin nhận xét: “Còn tệ hơn cả ba lê.”

Mẹ tôi đã quen dần với sự hiện diện của tôi. Ngay cả khi không nói chuyện, mẹ cũng dần thoải mái hơn khi thấy tôi. Bà biết ơn lũ trẻ vì chúng không ghét bỏ mình. Bà và Kevin thảo luận về đội Dodger và đội Yankee, nơi bà từng sống, trong khi May nói tiếng Pháp với Maeve và chị tết tóc kiểu Pháp cho con bé. May đã học tiếng Pháp từ năm lớp sáu vì nghĩ rằng sẽ được nghỉ hè ở Paris. Thay vì nói những cô gái mười bốn tuổi không được nghỉ hè ở Pháp một mình, tôi bảo vì Maeve ốm nên không thể đưa con bé đi Paris được. Thế là con bé đã giải quyết được vô vàn dạng chia động từ: je chante, tu chantes, il chante, nous chantons, vous chantez, ils chantent. Trong lúc mọi người đang nói chuyện vui vẻ ở dưới nhà thì tôi dành chút thời gian để thay bộ ống khói. Dù đã trải báo trên thảm nhưng công việc đó tuầy huầy hơn tôi tưởng.

“Ta rất thích Frenchy Bordagaray,” mẹ tôi nói và nghĩ rằng chuyện về một cầu thủ bóng chày tên là Frenchy sẽ thu hút hai đứa cháu nội. “Cha ta đã mua vé cho ta và ông ấy ở sân vận động Ebbets Field ngay trước khi ta đến tu viện. Ta không biết ông kiếm tiền bằng cách nào nhưng ta được ngồi hàng ba, ngay sau Frenchy. Suốt thời gian đó, cha luôn nói với ta: ‘Hãy nhìn quanh mà xem, Elna, con sẽ không thấy bất kỳ nữ tu nào ở đây.’”

“Bà là nữ tu sao?” Kevin hỏi khi thấy bà mình chẳng có điểm gì giống các nữ tu mà nó biết.

Mẹ tôi lắc đầu. “Ta như du khách ghé qua ngôi nhà của Chúa mà thôi. Ta ở đó còn chưa đến hai tháng.”

“Pourquoi es-tu parti?” May hỏi.

“Sao bà không ở lại đấy nữa?” Maeve dịch.

Những ngày đó mẹ thường xuyên thể hiện sự ngạc nhiên bởi những gì chúng tôi không biết. “Cyril đến và đưa ta đi. Ông ấy đến Tennessee để làm việc cho TVA. Sau nhiều năm làm việc, ông trở về thì gặp anh trai ta. Ông ấy và James luôn là bạn tốt của nhau. James nói cho ông ấy biết ta đang ở đâu. Anh trai ta không thích việc ta trở thành nữ tu chút nào. Thế là Cyril đi bộ từ Brooklyn đến tu viện và khi đến nơi, ông nói với một nữ tu ở cửa rằng ông là anh trai ta, ông có tin tức rất xấu để báo cho ta, một bi kịch. Nữ tu ấy đã đến gặp ta mặc dù lúc đó chúng ta không được tiếp bất kỳ khách nào ghé thăm.”

“Ông đã nói gì ạ?” Trong một khoảnh khắc, bóng chày không còn ý nghĩa gì với Kevin nữa.

“Cyril nói: ‘Elna à, nơi này không dành cho em.’”

Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau, con trai tôi, chị gái tôi và con gái tôi với mái tóc được tết một nửa, cho đến khi Maeve nói: “Thế thôi ấy ạ?”

“Ta không hiểu sao giờ nó nghe có vẻ rất bình thường,” mẹ tôi đáp. “Nhưng lúc đó câu nói này đã làm thay đổi mọi thứ. Đấy là lý do khiến bốn người chúng ta có mặt ở đây, ta sẽ nói với các con như vậy. Ông ấy nói sẽ đợi ta ở bên ngoài thế là ta cầm chiếc túi nhỏ của mình rồi nói lời tạm biệt với mọi người. Thời đó người trẻ khác xa so với bây giờ. Chúng ta không quan tâm nhiều đến việc phải suy nghĩ thấu đáo mọi việc. Chiến tranh sắp nổ ra, mọi người đều biết điều đó. Trong cuộc đi bộ dài đằng đẵng từ tu viện về miền Tây, xuyên qua Manhattan, chúng ta dừng lại để uống cà phê, ăn bánh mì kẹp trước khi qua cầu và vào thời điểm quay lại Brooklyn, chúng ta đã giải quyết xong mọi việc. Chúng ta quyết định sẽ kết hôn và có một gia đình, đó là những gì chúng ta đã làm.”

“Bà có yêu ông không?” May hỏi Maeve và Maeve dịch: “L’aimais-tu.”

“L’aimais-tu?” May hỏi mẹ tôi vì một số câu hỏi tốt nhất nên giữ nguyên bằng tiếng Pháp.

“Tất nhiên là có,” bà nói, “hoặc ít nhất lúc chúng ta về Brooklyn thì ta yêu ông ấy vô cùng.”

Trước khi rời đi vào tối đó, May lấy từ túi ra một lọ sơn bóng màu hồng ánh kim sơn cho bà, sau đó cho bác rồi cuối cùng là cho chính mình, cố gắng tập trung vào từng lớp phủ. Khi con bé sơn lớp cuối, mẹ tôi không ngừng trầm trồ về thành quả. “Chúng giống như những chiếc vỏ sò nhỏ trên tay,” bà nói rồi cùng May và Maeve giơ bàn tay lóng lánh về phía ánh sáng.

“Bà chưa từng sơn móng tay sao ạ?” May hỏi.

Mẹ tôi lắc đầu.

“Ngay cả hồi bà giàu sao?”

Mẹ tôi nắm lấy tay May rồi đặt nó lên tay Maeve và tay bà để có thể nhìn thấy những ngón tay lấp lánh đặt cạnh nhau. “Ngay cả khi đó,” bà khẳng định.

Celeste cũng đã ở đó suốt mùa hè. Em sẽ đến thăm cha mẹ mình, đưa đón Kevin và May. Cũng vì thế mà dù đã giáp mặt mẹ tôi nhiều lần nhưng ngay cả khi họ ở cùng phòng, Celeste luôn tìm cách tránh né bà. “Con phải về nhà cha mẹ đây ạ,” em nói ngay khi bước vào cửa. “Con đã hứa sẽ giúp bà nấu bữa tối mất rồi.”

“Tất nhiên rồi, con đi đi!” Mẹ tôi nói, còn Maeve ra ngoài sân cắt một bó thục quỳ tím để Celeste mang về nhà, cả hai dường như không để ý rằng Celeste đang trực chờ phía cửa. Sau cơn đau tim và sự trở về của mẹ, ngọn lửa tức tối mà Maeve luôn giữ đã bị đập tắt và rơi vào quên lãng. Chị hạnh phúc vô cùng khi Celeste có mặt và vẫn vui vẻ khi em rời đi. Tôi đang ngồi trên sàn nhà bếp, vặn một loạt các miếng gỗ mà tôi đã chêm vào các rãnh dưới cùng của mỗi tủ để việc lấy xoong nồi dễ dàng hơn. Kevin ngồi kế bên tôi, đưa cho tôi những chiếc đinh vít khi tôi cần, và Celeste, người đi lại suốt mùa hè năm đó, đã dừng lại một phút để nhìn tôi với những bông hoa bung nở trên tay.

“Em luôn muốn đóng một thứ như vậy,” em nói, như thể ngạc nhiên khi tôi để ý đến những mong cầu của những bà nội trợ.

Tôi đặt máy khoan điện xuống. “Thật chứ? Em nói với anh điều đó chưa nhỉ?”

Em lắc đầu, nhìn đồng hồ và nói với lũ trẻ đã đến lúc phải về.

Ngày tháng trôi qua, Maeve trở lại làm việc ở Otterson như thường lệ. Tôi khuyên chị đừng quá hao tâm tổn trí vào công việc nhưng lại nghĩ chắc mẩm là công việc này đối với chị chắc cũng chẳng khó khăn gì. Kevin và May bắt đầu quay lại trường học khiến những chuyến đi của tôi đến Jenkintown ngày càng thưa thớt. Giờ mẹ ở lại cùng chị. Bà đã vứt chiếc áo len màu xanh lá cây đậm bị rút sợi ở cổ tay. Thay vào đó, Maeve mua cho bà quần áo mới, ga trải giường và rèm mới cho phòng khách, nơi họ không gọi là phòng khách nữa. Họ cùng nhau lái xe đến Philadelphia để tái khám và cùng nhau đọc sách ở Thư viện Cộng đồng Philadelphia. Mẹ tình nguyện làm việc cho một cửa hàng thực phẩm do Hội Từ thiện Công giáo điều hành, và sau vài tuần, bà lên gặp trực tiếp giám đốc. Bà nói rằng cộng đồng có nhu cầu lớn hơn và bà có kế hoạch để đáp ứng điều đó.

Maeve và mẹ cùng nhau làm gà và bánh bao vào một ngày thứ Sáu cuối thu. Hóa ra mẹ biết nấu ăn. Họ di chuyển dễ dàng trong căn bếp chật chội nhưng ấm áp. “Con nên ở lại,” mẹ nói khi tôi nhấc nắp lò kiểu Hà Lan, gí mặt vào hơi nước đang bốc lên cuồn cuộn.

Tôi lắc đầu. “Kevin có một trận bóng. Đáng lẽ con phải đi từ hai mươi phút trước.”

Maeve lau bàn tay dính bột mì lên khăn lau bát đĩa mà chị buộc quanh eo. “Em ra đây với chị một chút. Chị muốn hỏi em một chút về rãnh nước trước khi em đi.”

Chị khoác một chiếc áo sọc đen đỏ mà chị gọi là áo khoác nông trang dù chưa một lần đến trang trại. Chúng tôi lê bước trong ánh sáng cuối chiều lạnh lẽo, những chiếc lá vàng và đỏ mà tôi dự định sẽ dọn trong chuyến thăm sắp tới chất đống quanh chân tôi. Chúng tôi đứng ở góc nhà để xem chỗ nào thì tiện kéo máng xối khỏi mái tôn.

“Vậy chuyện này khi nào thì kết thúc đây?” Maeve ngước lên hỏi tôi.

Tôi nghĩ rằng chị đang hỏi về mái nhà nên ngước lên nhìn. “Khi nào cái gì kết thúc?”

“Sự trả thù, sự trừng phạt.” Maeve thọc tay vào túi áo khoác. “Chị biết điều này khiến em khó chịu nhưng chị phát chán khi nghĩ về nó nếu em muốn biết sự thật - rằng cơn đau tim của chị khiến em khổ sở. Rằng việc mẹ trở về khiến em cảm thấy khó chịu.”

Tôi đã rất ngạc nhiên, sau đó nhanh chóng thu mình lại. Suốt sáu tháng qua tôi đã dành toàn bộ cuộc sống của mình cho Maeve và bằng một nỗ lực đáng kể, tôi đã giữ những cảm xúc về mẹ cho riêng mình. Nếu để mà nói có gì đó khác thì đó chính là tôi đang cố tỏ ra tử tế hơn bình thường. “Em lo cho chị, chỉ có vậy. Em muốn đảm bảo rằng chị vẫn ổn.”

“Thì chị ổn.”

Tôi với Maeve chia sẻ với nhau mọi thứ, thế mà kỳ lạ là chúng tôi chưa từng nói chuyện về điều này trước đây. Nhưng chúng tôi không bao giờ cô đơn nữa. Người mẹ từng bỏ đi của chúng tôi quay lại và tìm thấy vị trí đặc biệt giữa chúng tôi, biến cuộc nói chuyện của chúng tôi thành chuyện về công thức nấu xúp và hoài niệm về cuộc sống nghèo khổ đã qua. “Chị thấy mọi thứ đều ổn chứ?”

Maeve nhìn xuống đường. Vì không biết chị gọi tôi ra để nói chuyện về cuộc sống hiện tại của chúng tôi nên tôi không nghĩ đến việc mặc áo khoác, giờ tôi thấy lạnh. “Cuộc đời ngắn lắm,” Maeve nói. “Có lẽ giờ đây chị đã hiểu hơn về điều đó. Chị đã muốn mẹ trở lại từ năm chị mười tuổi và giờ thì mẹ ở đây. Chị có thể dành khoảng thời gian đó để tức giận, hoặc cũng có thể cảm thấy mình là người may mắn nhất thế gian.”

“Đấy là hai sự lựa chọn sao?” Tôi ước chúng tôi có thể lên xe và đến Ngôi nhà của Người Hà Lan, chỉ một phút thôi, dù giờ chúng tôi không còn làm điều đó nữa.

Maeve nhìn lên máng nước và gật đầu. “Gần như vậy.”

Ngoại trừ sự tinh trí của ông Otterson và sự hồi phục của Maeve, tôi không thể tưởng tượng trong việc này có điều gì may mắn. Tha thứ cho mẹ tôi khiến tôi nhức nhối. “Bà ấy có biết chuyện gì đã xảy ra với chúng ta sau khi bà rời đi không? Chị đã kể cho bà nghe chuyện của Andrea và cách dì ta ném chúng ta ra đường như thế nào chưa?”

“Chúa ơi, tất nhiên là mẹ biết chuyện về Andrea. Em nghĩ rằng mẹ với chị chơi bài với nhau cả mùa hè hay sao? Chị kể cho bà nghe mọi chuyện xảy ra và chị biết mọi chuyện về bà. Thật tuyệt khi em có thể tìm hiểu mọi việc về một người mà em quý mến. Nhân tiện, những cuộc trò chuyện đều hoan nghênh em tham gia. Đừng nghĩ rằng em ra rìa. Chỉ là mỗi lúc bà mở lời, em sẽ tìm lý do để rời khỏi phòng.”

“Bà ấy không quan tâm đến em.”

Maeve lắc đầu. “Trưởng thành lên nào.”

Thật nực cười khi nói “Trưởng thành lên nào” với một người đàn ông bốn mươi lăm tuổi, đến nỗi tôi bật cười rồi kìm lại. Đã lâu rồi chúng tôi không cãi nhau. “Được rồi, nếu chị biết nhiều về bà ấy, hãy nói cho em nghe vì sao bà ấy lại bỏ đi. Đừng nói với em là bà ấy không thích giấy dán tường nhà nhé.”

“Mẹ muốn...” Maeve dừng lại, thở dài. Hơi thở đông cứng của chị làm tôi nghĩ đến làn khói thuốc. “Bà muốn giúp đỡ mọi người.”

“Mọi người ngoại trừ gia đình bà.”

“Bà đã mắc sai lầm. Em không hiểu điều đó sao? Bà kể chuyện trong sự xấu hổ. Đó là lý do tại sao bà không bao giờ liên lạc với chúng ta, em biết đấy, sau khi trở về từ Ấn Độ. Bà sợ rằng chúng ta sẽ đối xử với bà như cách mà em đang đối xử với bà. Bà tin rằng sự tàn nhẫn của em là điều bà đáng phải nhận.”

“Em không hề tàn nhẫn, tin em đi, nhưng đó là điều bà ấy xứng đáng phải nhận. Không cố định ván sàn trước khi dán chúng - đấy được gọi là sai lầm. Việc từ bỏ con cái để giúp đỡ người nghèo ở Ấn Độ có nghĩa bà ấy là người ái kỷ và muốn nhận được sự công nhận từ người lạ. Em luôn nhìn Kevin, May và nghĩ, sao có thể làm thế với chúng? Loại người nào bỏ con mà đi chứ?” Tôi cảm thấy như mình đã giữ những lời này trong miệng kể từ lúc tôi bước vào phòng chờ của khoa Tim mạch và nhìn thấy mẹ chúng tôi ngồi đó.

“Đàn ông!” Maeve hét lên. “Đàn ông thường xuyên bỏ rơi con mình và thế giới tôn vinh họ về điều đó. Đức Phật và Odysseus đã rời đi mà không quan tâm gì đến con trai của mình. Họ bắt đầu cuộc hành trình cao cả để làm những điều họ muốn và hàng nghìn năm sau, chúng ta vẫn ngợi ca về điều đó. Mẹ chúng ta rời đi, rồi bà quay lại và chúng ta vẫn sống ổn. Chúng ta không ưa điều đó nhưng chúng ta vẫn vượt qua nó. Chị không quan tâm việc em có yêu hay quý mẹ không nhưng em phải đối xử đàng hoàng với bà, không vì lý do gì ngoại trừ việc chị muốn vậy. Em nợ chị điều đó.”

Đôi má chị đỏ ửng, có lẽ do lạnh, nhưng tôi không thể không lo lắng cho trái tim của chị nên không nói thêm lời nào.

“Cho em biết, chị phát bệnh vì đau khổ,” chị nói rồi bỏ vào trong nhà, để lại tôi đứng giữa đám lá và nghĩ về những gì tôi nợ chị. Dù tính như thế nào đi chăng nữa, tôi nợ chị mọi thứ.

Vì vậy tôi quyết định thay đổi. Có vẻ như điều đó là không thể do bản chất và tuổi tác của tôi nhưng tôi hiểu chính xác mình cần bỏ cái gì. Những bài học của môn Hóa lại được lặp lại. Vấn đề không phải do tôi có thích nó hay không. Vấn đề là tôi phải làm được điều đó.

Chú thích:

[1] PX: cửa hàng bán đồ cạnh doanh trại quân đội Mỹ.

[2] Tên trong nguyên tác là Housekeeping.

[3] Danny Tartabill: vận động viên bóng chày chuyên nghiệp.