← Quay lại trang sách

Chương 3 Bản sơ đồ trong ký ức
Ngôi nhà đối xứng

Katabuchi: Khi ấy là tháng 8 năm 2006. Cả gia đình đến ngủ ở nhà ông bà nội ở tỉnh OO (xin được phép giấu vì lý do không tiện nói). Đó là một ngôi nhà cổ nằm trơ trọi trên mảnh đất rộng lớn mà người xưa đã khoét vào sườn núi. Xung quanh chỉ có lác đác vài căn nhà nghỉ dưỡng, tôi nghĩ hầu như chẳng mấy ai sống ở đó.

Về quê vào dịp nghỉ hè là truyền thống hằng năm của gia đình tôi, nhưng tôi không thích đến đó cho lắm. Bởi ngôi nhà đó khiến tôi thấy vô cùng khó chịu. Bằng lời thôi thì khó mà giải thích, để tôi cho hai người xem.

Nói rồi, Katabuchi mở túi xách, lấy ra một tờ giấy. Trên đó là sơ đồ mặt bằng nhà được vẽ bằng bút chì.

Tác giả: Đây là cô Katabuchi vẽ sao?

Katabuchi: Vâng. Tôi vừa nghiên cứu cách vẽ sơ đồ mặt bằng trên mạng vừa lần lại theo ký ức hồi còn bé. Kích thước các phòng chỉ là ước lượng thôi, chưa kể tôi còn là tay mơ nữa nên có lẽ trông hơi xấu một chút.

Katabuchi rụt rè nói. Bác Kurihara cầm tờ giấy lên, nhìn chăm chú.

Bác Kurihara: Không hề nhé, bản vẽ mặt bằng thế này là quá ổn rồi. Cháu nhớ chi tiết đến mức này kể ra cũng giỏi lắm đấy.

Katabuchi: Trí nhớ của cháu không phải quá tốt đâu, nhưng vì cách bố trí của ngôi nhà này rất đặc trưng nên vẫn còn ấn tượng trong đầu.

Một ngôi nhà đối xứng trái phải với đường hành lang chạy dọc ngay trung tâm. Quả thật rất đặc trưng. Thực ra, ngôi nhà có kết cấu như vậy là có nguyên do cả, nhưng chuyện đó phải lát nữa tôi mới biết được. Katabuchi vừa nhìn bản vẽ vừa giải thích về bố trí bên trong ngôi nhà như thể đang lần dò lại ký ức.

Katabuchi: Sau khi bước vào từ cửa chính, trước mặt sẽ là một hành lang dài âm u, có thể thấy bàn thờ ở phía tận cùng. Nếu kể theo thứ tự từ ngoài vào, các phòng lần lượt là nhà kho, nhà vệ sinh, phòng tắm bồn, nhà bếp, và ở sâu trong cùng là những căn phòng kiểu Nhật trải chiếu Tatami.

Gian phòng khách ở phía bên trái là nơi mọi người tụ tập ăn uống, bên cạnh là phòng ông bà nội. Ông tôi tên Shigeharu, bà là Fumino, phần lớn thời gian trong ngày ông bà đều ở căn phòng này.

Gian bên phải được chia làm bốn, mỗi phòng rộng khoảng mười mét vuông. Những con số gắn với tên phòng là do tôi tự ghi chú để dễ giải thích.

Phòng số 1 dành cho bố, phòng số 3 dành cho tôi, mẹ và chị ngủ lại. Phòng số 2 để không, còn phòng số 4 là của bác gái Miki và con bác là bé Yo.

Tác giả: Bé Yo có phải là người em họ đã qua đời vì tai nạn không?

Katabuchi: Vâng. Cậu bé nhỏ hơn tôi ba tuổi, tên thật là “Yoichi”.

Tôi chợt nhận ra trong bản sơ đồ không có phòng cho bố của bé Yo.

Tác giả: Vậy còn bố của bé Yo?

Katabuchi: Đã mất nửa năm trước đó vì bệnh. Bác trai tên là Kimihiko, là con trai trưởng của gia đình này. Sau khi kết hôn, bác vẫn ở lại đây để chăm sóc ông bà nội, nhưng bệnh tim của bác luôn trong tình trạng xấu… Ở thời điểm con mình sắp chào đời, hẳn là bác đã phiền muộn rất nhiều.

Tác giả: Đứa con…

Katabuchi: Thật ra khi đó bác gái tôi đang mang thai. Cái thai cũng khá lớn rồi nên có thể chuyển dạ bất cứ lúc nào.

Tác giả: Vậy đứa bé đó là dấu ấn cuối cùng mà bác Shigeharu để lại cho đời nhỉ?

Katabuchi: Vâng. Mất chồng trong lúc mang thai như thế, chắc bác gái đã đau đớn rất nhiều. Vậy mà cả bé Yo cũng gặp chuyện …

Nửa năm sau khi người bố chết vì bạo bệnh, con trai lớn gặp tai nạn qua đời. Dù chỉ là ngẫu nhiên, nhưng tôi vẫn cảm thấy dường như có mối oan nghiệt gì đó ở đây.

Khi đó, bác Kurihara chỉ ra một điểm.

Bác Kurihara: Katabuchi này, phòng của bé Yo không có cửa sổ à?

Tác giả: Ô?

Nhìn lại thì quả thật là không có ký hiệu cửa sổ nào được vẽ ở phòng số 4. Khoan đã, đâu chỉ có vậy.

Tác giả: Cả bốn căn phòng truyền thống ở bên phải, không căn nào có cửa sổ hết nhỉ?

Katabuchi: Vâng. Lúc vẽ lại sơ đồ này tôi mới nhớ ra. Thảo nào, dù là ban ngày nhưng chỉ cần tắt đèn một cái là cả phòng tối đen như mực. Hồi nhỏ tôi không nghĩ việc này có gì lạ lùng nên quên bẵng đi mất…

Bác Kurihara: Nghe tới “phòng không có cửa sổ”, kiểu gì cũng liên tưởng đến hai ngôi nhà kia ha. Không biết có liên quan gì không nhỉ

Katabuchi: Cháu cũng thấy thế. Nhưng nghĩ di nghĩ lại thì ngoài vụ cửa sổ ra, cháu không thấy chỗ nào lạ như… kẽ hở, không gian đóng kín, và đương nhiên là chẳng có dấu hiệu gì chứng tỏ có ai đó đang bị giam cầm cả. Duy chỉ có…

Tác giả: Duy chỉ có…?

Katabuchi: Một khúc mắc nhỏ thôi. Có một tấm cửa kéo không mở được .

Katabuchi chỉ tay vào vách ngăn giữa phòng số 1 và 2.

Katabuchi: Tấm cửa này dù cố gắng kéo mạnh cỡ nào cũng không mảy may suy suyển. Tôi cứ tưởng là nó bị khóa, nhưng lại không thấy chỗ nào trông có vẻ như là lỗ khóa cả.

Tác giả: Vậy còn những tấm cửa khác?

Katabuchi: Tất cả những tấm cửa còn lại đều đóng mở dễ dàng.

Tác giả: Thế thì không có chỗ nào tương tự như một căn phòng không thể tiếp cận nhỉ.

Katabuchi: Vâng. Chỉ là, nếu muốn vào phòng số 2 thì phải đi qua phòng số 3 và 4, hơi bất tiện một chút. Chắc vì vậy nên phòng số 2 luôn luôn trong tình trạng không được sử dụng.

Bác Kurihara: “Luôn luôn” tức là tấm cửa này từ xưa đã không thể mở được rồi à?

Katabuchi: Hình như là thế ạ. Nhưng ngôi nhà này cổ lắm rồi nên cháu không rõ nó bị như vậy từ khi nào.

Tác giả: Nhân tiện thì, ngôi nhà này được xây vào thời kỳ nào thế?

Katabuchi: Nghe đâu là đầu thời kỳ Showa*.

Thời kỳ Showa (Chiêu Hòa) tương ứng với thời gian tại vị của Thiên hoàng Chiêu Hòa, từ ngày 25 tháng 12 năm 1926 đến 7 tháng 1 năm 1989. Đây là một giai đoạn đấy những biến động vì cuộc Chiến tranh thế giới thứ 2.

Tác giả: Cổ xưa phết nhỉ.

Katabuchi: Vâng… Thực ra, căn nhà này vốn là một phần của biệt phủ ngày xưa.

Tác giả: Biệt phủ!

“Chuyện này hơi lạc đề một chút.” Sau khi mào đầu, Katabuchi bắt đầu kể lại lịch sử xây dựng ngôi nhà này.

Katabuchi: Đây là chuyện tôi nghe ông nội kể. Trước chiến tranh, nhà Katabuchi gây dựng được khối tài sản kếch xù nhờ kinh doanh đa đạng. Vào thời hưng thịnh nhất, nhà Katabuchi giàu có tới mức thuê không biết bao nhiều kẻ hầu người hạ trong khu biệt phủ rộng lớn của mình.

Thế nhưng, tới một đời nọ, người chủ dòng tộc đột nhiên nhường lại quyền điều hành việc kinh doanh cho người khác, còn bản thân ông thì cho xây dựng một khu nhà biệt lập ở tít một góc trong khuôn viên biệt phủ rồi tự nhốt mình ở đó. Kể từ đó, nhà Katabuchi dần dần lụn bại. Đến giữa thời kỳ Showa, biệt phủ phá hủy gần hết.

Về sau, con cháu nhà Katabuchi sửa chữa lại khu nhà biệt lập và cũng là phần duy nhất còn sót lại của biệt phủ, rồi tằn tiện sống qua ngày.

Tác giả: Khu nhà biệt lập đó là ngôi nhà này sao?

Katabuchi: Vâng. Nghe đâu người chủ dòng tộc ấy sa vào một loại tôn giáo kỳ lạ nào đó, việc thiết kế đối xứng cũng là do thuận theo điều răn của tôn giáo đó.

Bác Kurihara: Tự nhốt mình, rồi còn sa vào tôn giáo… Ông ấy gặp phải chuyện gì chăng?

Katabuchi: Nghe đâu việc vợ mất sớm là nguyên nhân tâm bệnh của ông ấy. Có lẽ khu nhà biệt lập là nơi ông xây lên để thờ vợ mình.

Ở phía trong cùng có bàn thờ mà, đúng không?

Nghe nói bàn thờ này là để thờ cúng vợ ông ấy. Chiều rộng bàn thờ bằng đúng với bề rộng của hành lang, nên trám vừa khít vào vị trí này, không hở ra một chút nào. Không rõ là người ta dựng nên bàn thờ này theo kích thước của ngôi nhà, hay là người ta xây ngôi nhà sao cho vừa với bàn thờ, nhưng tôi có cảm giác dường như ngôi nhà này chính là một gian phòng thờ khổng lồ.

Gian phòng thờ khổng lồ… Quả thật, bàn thờ này án ngữ ở vị trí trung tâm cứ như thể là chủ nhân của cả gia đình vậy.

Katabuchi: Sở dĩ tôi không thích đến nhà ông nội là vì sợ bàn thờ này. Cái bàn thờ khiến tôi rợn cả người. Nó cao đến mức tôi phải ngước nhìn, hắt ra màu đen bóng lạ thường, trông cứ như là dị vật duy nhất tồn tại trong ngôi nhà. Ông tôi chân yếu, hầu như chỉ nằm một chỗ, vậy mà riêng việc chăm sóc bàn thờ mỗi ngày, ông tuyệt nhiên không bỏ sót một bữa nào. Có lần ông nhờ tôi giúp lau dọn bàn thờ, đó là lần đầu tiên tôi được nhìn thấy “bên trong” bàn thờ.

Đằng sau hai cánh cửa thường ngày luôn khép chặt là những vật dụng thờ cúng tôi chưa từng thấy bao giờ, cùng một bức tranh khổ to vẽ biểu tượng Mạn-đà-la. Đó là ký ức đáng sợ không lời nào diễn tả nổi. Thật ra…

Đến đó tự nhiên Katabuchi ngập ngừng. Sau vài giây im lặng trôi qua, cô tiếp tục kể với giọng u ám nặng nề.

Katabuchi: Thật ra, bé Yo đã chết ngay trước bàn thờ này .

Nơi bé Yo chết

Tác giả: Trước bàn thờ sao?

Katabuchi: Vâng. Hôm đó là sáng ngày thứ ba kể từ hôm chúng tôi đến tá túc tại nhà ông nội. Nếu không nhầm thì khoảng 5 giờ sáng, bác gái Miki gọi cả nhà dậy trong trạng thái hoảng loạn. Mọi người bước ra hành lang theo lời bác thì thấy bé Yo nằm ngửa trước bàn thờ. Mặt trắng bệch, máu bết trên đầu đã khô đen lại. Khi chạm vào thì cơ thể thằng bé đã lạnh ngắt… Trực giác mách bảo tôi rằng “Bé Yo đã không còn sống nữa” .

Sau khi bác sĩ riêng đến nhà, chúng tôi chính thức nhận được kết luận tử vong. Hình ảnh bác gái Miki gục khóc tự trách mình “Phải chi mẹ phát hiện ra sớm hơn” đến giờ vẫn rõ như in trong tâm trí tôi.

Tác giả: Xét tình huống đó thì chắc là… Bé Yo chết vì té từ bàn thờ xuống chăng?

Katabuchi: Anh cũng nghĩ như thế nhỉ? Mọi người trong nhà đều nói giống nhau, rằng “Chắc là thằng bé định leo lên bàn thờ phá phách, nhưng chẳng may lại hụt chân té giữa chừng” .

Thế nhưng, tôi cảm thấy chuyện đó quá đỗi phi lý. Bởi vì độ cao của bàn thờ này không phải là độ cao mà trẻ con có thể tự mình trèo lên được.

Nói rồi Katabuchi lấy bút chì vẽ thêm vào ngoài rìa bản sơ đồ.

Katabuchi: Nếu không nhầm thì phần bục bên dưới bàn thờ cao đến tầm vai tôi lúc bấy giờ, vậy nên tôi nghĩ là chừng hơn một mét. Bên dưới không có chỗ nào để kê chân, nên không có cách nào leo lên được, ít ra là đối với tôi. Bé Yo thấp hơn tôi, lại không giỏi thể thao, tôi nghĩ thằng bé không thể tự leo lên đó được đâu.

Tác giả: Ra là vậy.

Katabuchi: Hơn nữa, bé Yo cực kỳ sợ bàn thờ. Bản thân tôi cũng thế, nhưng cách bé Yo sợ hãi hơi lạ thường một chút. Thằng bé sợ đến mức luôn cố gắng không nhìn về hướng đó mỗi khi bước ra hành lang. Một đứa bé như vậy mà lại tự mình trèo lên bàn thờ ư…? Tôi không cho là vậy.

Bác Kurihara: Trong nhà không có ai chỉ ra chuyện đó sao?

Katabuchi: Vâng. Mọi người hình như chẳng nghi ngờ gì, ai cũng tin là tai nạn. Không chỉ thế, khi tôi cố nói ra điều mình thắc mắc thì còn bị quát rằng “con nít biết gì mà nói” , và không ai thèm nghe.

Bác Kurihara: Nhân tiện hỏi chút, vị bác sĩ kia đã nói gì?

Katabuchi: Cháu không nhớ chi tiết, nhưng đại loại là tổn thương não do bị chấn động vùng đầu.

Tác giả: Nôm na là chấn thương sọ não nhỉ?

Bác Kurihara: Vậy có nhận định gì kiểu như nghi ngờ về nguyên nhân cái chết không?

Katabuchi: Tuyệt nhiên không. Ông tôi chân đi không còn vững, bác sĩ đó vốn dĩ là bác sĩ riêng của ông, vả lại lời bác sĩ nói cũng có phần lúng túng… Thật lòng thì không biết tin được bao nhiêu.

Bác Kurihara: Thế còn cảnh sát?

Katabuchi: Họ không xuất hiện. Chỉ đúng một lần duy nhất, bác gái Miki đã đề xuất rằng: “Chúng ta có nên gọi cảnh sát tới khám nghiệm hiện trường không?” , nhưng lại bị mọi người phản đối. Cuối cùng bác ấy đành bỏ cuộc. Có lẽ chỉ mình bác gái cảm thấy sự đáng ngờ trong nguyên nhân cái chết của bé Yo.

Tác giả: Khi xảy ra tai nạn chết người, dù là trong nhà đi chăng nữa, thì việc gọi cảnh sát là bình thường mà. Tại sao mọi người lại phản đối chứ

Katabuchi: Tôi không biết… Nhưng không hiểu sao, bầu không khí khi ấy khiến tôi có cảm giác như mọi người trong nhà đang che giấu chuyện gì đó.

Bác Kurihara: Có nguyên nhân gì khiến cả nhà khó xử khi cảnh sát xuất hiện chăng?

Katabuchi: ……..

Tác giả: ……..

Dù không nói ra thành lời, nhưng rõ ràng là cả ba đều đang nghĩ tới khả năng đó . Nếu không phải là chết do tai nạn, thì chỉ có thể là tự sát, hoặc giết người . Dựa theo câu chuyện nghe được từ Katabuchi, thái độ của cả gia đình thật sự đáng ngờ. Họ bao che cho ai chăng? Nếu thế, rốt cuộc kẻ đó là ai? Có mục đích gì.?

Câu đố thời gian

Bác Kurihara: Bác sĩ không đáng tin, công tác khám nghiệm hiện trường cũng không được triển khai, vậy chỉ còn manh mối duy nhất là ký ức của cô Katabuchi. Katabuchi này, cháu có thể kể cho bác nghe về ngày hôm trước khi bé Yo mất được không?

Katabuchi: Được ạ. Ngày hôm đó, cả nhà đi viếng mộ bác trai Kimihiko từ sáng. Nói là cả nhà vậy thôi chứ ông nội vẫn ở nhà. Trên đường về, chúng tôi đi mua sắm rồi ghé qua công viên, nên khi về tới nhà thì trời đã sập tối.

Sau đó chúng tôi ăn tối, thay phiên nhau đi tắm, rồi ai nấy về phòng mình. Tôi, chị gái và bé Yo chơi game trong phòng số 3. Được một lúc, có lẽ bé Yo buồn ngủ nên trở về phòng mình là phòng số 4. Bây giờ ngẫm lại thì đó là lần cuối cùng tôi nhìn thấy bé Yo.

Bác Kurihara: Cháu có nhớ khi đó khoảng mấy giờ không?

Katabuchi: Hình như là… Vì trên TV đang phát thời sự buổi tối của đài NHK, nên cháu đoán là khoảng 9 giờ kém. Sau đó, cháu và chị tiếp tục chơi game thêm 30 phút nữa, rồi bị mẹ nhắc đi ngủ nên mới miễn cưỡng chui vào chăn. Chị vào giấc ngay, ấy vậy mà cháu lại tỉnh táo một cách lạ lùng, không sao ngủ được. Kết cục là cháu nằm trong chăn thức tới 4 giờ sáng.

Bác Kurihara: Trong khoảng thời gian đó có chuyện gì bất thường xảy ra không? Ví dụ như ai đó bước vào phòng chẳng hạn?

Katabuchi: Dạ không. Chẳng có gì xảy ra trong thời gian cháu thức hết.

Bác Kurihara: Vậy à…

Bác Kurihara nghĩ ngợi một lát rồi vừa dùng bút chỉ vào bản sơ đồ mặt bằng vừa nói.

Bác Kurihara: Katabuchi này, vách ngăn giữa phòng số 1 và 2 không thể mở ra được, đúng không?

Katabuchi: Dạ đúng.

Bác Kurihara: Vậy tức là, nếu bé Yo muốn ra hành lang thì phải băng qua phòng của Katabuchi. Nhưng trong khoảng thời gian Katabuchi vẫn còn thức, không có ai bước vào phòng hết. Nói cách khác, thời điểm bé Yo chết là sau khi Katabuchi đã ngủ, tức sau 4 giờ sáng. Thi thể được phát hiện vào lúc 5 giờ, như vậy có thể khẳng định rằng thời điểm tử vong ước tính nằm trong khoảng từ 4 đến 5 giờ.

Lời bác Kurihara nói khiến tôi cảm thấy kỳ lạ. Có gì đó mâu thuẫn trước sau. Sau khi lần lại ký ức của vài phút vừa qua, tôi mới nhận ra điều đó là gì.

Tác giả: Xin lỗi một chút, cô Katabuchi. Trong câu chuyện cô kể, khi phát hiện ra thi thể bé Yo, cô đã nói là “khi chạm vào thì cơ thể thằng bé đã lạnh ngắt” , phải không?

Katabuchi: Vâng.

Tác giả: Trước đây tôi từng phỏng vấn một bác sĩ ngoại khoa và biết được một điều thế này. Sau khi chết, thi thể người phải mất một khoảng thời gian nhất định mới lạnh hoàn toàn. Trong trường hợp không mất quá nhiều máu, nghe nói hơi ấm của cơ thể có thể lưu lại khoảng hai tiếng đồng hồ. Bé Yo chảy máu nhiều cỡ nào?

Katabuchi: Một ít chảy ra từ vết thương trên đầu, nhưng mức độ không … Ơ? Thế tức là…

Tác giả: Thời điểm bé Yo chết là hơn hai tiếng trước khi phát hiện ra thi thể, nói cách khác, là khoảng trước 3 giờ.

Katabuchi: Nhưng…

Bác Kurihara: Vào thời điểm đó đáng lẽ ra bé Yo phải ở trong phòng, hơi mâu thuẫn nhỉ

Tức là bé Yo đã ra hành lang, nơi đặt bàn thờ, mà không cần thông qua phòng của Katabuchi. Bằng cách nào? Tôi nhìn chằm chằm vào bản sơ đồ, trầm ngâm suy nghĩ hồi lâu.

Bác Kurihara: Chỉ có… một khả năng thôi.

Katabuchi: Hå?

Bác Kurihara: Quả thật, nếu nghĩ theo hướng bé Yo chết do ngã từ bàn thờ xuống thì sẽ mẫu thuẫn về mặt thời gian. Nhưng giả sử nơi bé Yo chết là ngay trong phòng thì sao?

Tác giả: Trong phòng ấy ạ?

Bác Kurihara: Trước 3 giờ sáng, bé Yo bị đập vào đầu và chết trong phòng mình. Tiếp đến, từ 4 giờ trở đi, ai đó đã mang xác bé Yo ra trước bàn thờ. Như thế thì hợp lý hơn.

Tác giả: Đúng là vậy… Nhưng ai đã làm thế, và để làm gì cơ chứ?

Bác Kurihara: Có lẽ là do thủ-phạm-muốn- ngụy-tạo-nguyên-nhân-tử-vong.

Thủ phạm… Như vậy có nghĩa là…

Tác giả: Theo ý bác, đây không phải là tai nạn mà là án mạng sao?

Bác Kurihara: Dù không có chứng cứ, nhưng chỉ có mỗi cách nghĩ đó là hợp lý thôi.

Bác Kurihara: Thủ phạm đã dùng vật cứng đập vào đầu bé Yo, sát hại cậu bé trong phòng số 4 và để yên như vậy. Sau đó, trong khoảng thời gian từ 4 đến 5 giờ, thủ phạm di chuyển thi thể đến trước bàn thờ hòng tạo hiện trường trông như tai nạn té từ trên cao.

Tác giả: Cháu hiểu ý bác…

Bác Kurihara: Bác rất muốn khẳng định thế, nhưng…

Tác giả: Ơ?

Bác Kurihara: Bác cũng phải nói trước, những suy luận vừa rồi không hề chặt chẽ. Bởi vì hai sơ hở. Thứ nhất là thủ phạm. Nếu đi theo suy luận này, thủ

phạm là người ở chung phòng với bé Yo, tức bác gái Miki. “Hổ dữ không ăn thịt con” - chuyện đó thì bác không dám khẳng định, nhưng bác gái là người duy nhất trong gia đình có ý định báo cảnh sát nên khả năng bác gái là hung thủ rất thấp.

Sơ hở còn lại là tiếng động. Nếu bé Yo bị đánh chết ở trong phòng, chắc chắn Katabuchi ở ngay gần đó phải nghe thấy tiếng động. Katabuchi này, cháu có nghe thấy tiếng động nào như thế không?

Katabuchi: Dạ không, yên tĩnh suốt đêm luôn bác ạ.

Tác giả: Vậy tức là…

Bác Kurihara: Tức nơi bé Yo chết không phải là trong phòng. Một nửa suy luận của bác là không chính xác. Nhưng về chi tiết đặt thi thể trước bàn thờ hòng ngụy tạo nguyên nhân tử vong, bác nghĩ là không sai đâu.

Tóm lại là thế này. Thủ phạm dẫn bé Yo ra khỏi phòng rồi sát hại cậu bé ở đâu đó trong nhà. Sau đó di chuyển thi thể ra trước bàn thờ. Vấn đề là, dẫn ra khỏi phòng bằng cách nào, và sát hại ở đâu.

Ngay lúc đó, Katabuchi có vẻ như vừa sực nhớ ra điều gì.

Katabuchi: Giờ cháu mới nhớ… Bà nội bảo là nửa đêm có nghe thấy tiếng động.

Tác giả: Tiếng động?

Katabuchi: Vâng. Bà bảo là: “Khoảng 1 giờ đêm, có tiếng ‘đùng’ vang lên ở phòng bên cạnh khiến bà giật mình tỉnh giấc. Bà ra xem nhưng không thấy có gì lạ. Lúc-đó-không-có-ai-ở-gần-bàn-thờ-cả” . Vì không có ai ở gần bàn thờ nên không liên quan đến vụ tai nạn của bé Yo, nghĩ vậy nên tôi không để tâm mấy.

Bác Kurihara: “Phòng bên cạnh” là phòng khách hả?

Katabuchi: Chắc là thế ạ.

Gì thế nhỉ? Tôi cảm thấy trong lời của người bà có điểm kỳ quái đáng chú ý. Tôi bèn nhìn vào sơ đồ mặt bằng. Và rồi chỗ đó đập vào mắt tôi.

Tác giả: Cho hỏi, tại sao bà nội qua phòng khách mà phải mất công đi vòng ra hành lang vậy?

Katabuchi: Hở?

Tác giả: Lúc bà nội sang phòng bên cạnh xem tình hình ấy, bà đã xác định là “không có ai ở gần bàn thờ”, đúng không? Như vậy có nghĩa là bà nội đã ra hành lang xem xét một chốc. Nhưng giữa phòng bà nội và phòng khách có cửa kéo mà.

Rõ ràng bà có thể trực tiếp đi từ phòng mình sang phòng khách, nhưng lại cất công băng qua lối hành lang, điều này khiến tôi cảm thấy khó hiểu.

Katabuchi: Anh nói có lý… Vậy có khi nào “phòng bên cạnh” theo ý bà là phòng kiểu Nhật ở bên phải không?

Tác giả: Nếu vậy thì phòng số 1, tức là phòng của bố cô, sẽ tương ứng với lời mô tả. Thế thì tôi nghĩ chắc chắn bố cô sẽ nói gì đó để đáp lại lời của bà nội.

Katabuchi: Cũng đúng.

Tác giả: Bác Kurihara… bác nghĩ sao?

Bác Kurihara không nói không rằng, chỉ nhìn chằm chằm như muốn dán mắt vào bản sơ đồ mặt bằng. Một lúc sau, bác ôn tồn nói thế này.

Bác Kurihara: Cháu phát hiện ra điểm rất hay đấy. Quả thật đúng là như thế. Nơi gọi là “phòng bên cạnh” không phải là phòng khách, cũng không phải là phòng kiểu Nhật bên phải.

Katabuchi: Nhưng, ngoài hai nơi đó ra thì trong nhà này đâu còn chỗ nào khác có thể gọi là “phòng bên cạnh” nữa…

Bác Kurihara: Có khi nào là một căn phòng không được vẽ trong bản sơ đồ này chăng?

Katabuchi: Cái gì?

Căn phòng bị che giấu

Tác giả: Không được vẽ ư? Ý bác là sao?

Bác Kurihara: Suy cho cùng thì đây chỉ là một “bản sơ đồ mặt bằng trong trí nhớ của cô Katabuchi” mà thôi. Vậy nên những thứ mà cô

Katabuchi không nhìn thấy, ví dụ như một căn phòng bị che giấu chẳng hạn, sẽ không được thể hiện trong đây.

Tác giả: Ý bác là… trong ngôi nhà này có phòng bí mật?

Bác Kurihara: Sau khi tổng hợp lại câu chuyện từ đầu đến giờ, bác chỉ có thể nghĩ được như thế.

Bác Kurihara cầm bút chì lên, vẽ thêm một đường thẳng vào bản sơ đồ.

Tác giả: Đây là…

Bác Kurihara: Có khi nào, bên cạnh phòng bà nội còn một căn phòng bí mật được ngăn cách bằng vách tường không?

Tác giả: Thế này thì đúng là “phòng kế bên” thật, nhưng tại sao lại ở vị trí này?

Bác Kurihara: Đơn giản thôi. Đối với một căn phòng vuông vức, chỉ có bốn “phòng bên cạnh”.

Tạm gọi là Đông • Tây • Nam • Bắc.

Với phòng của ông bà, trừ một phía ra, tất cả các phía còn lại đều có cửa kéo hoặc cửa sổ. Nếu có một căn phòng bí mật tồn tại thì nó chỉ có thể ở vị trí này thôi, vừa không có cửa kéo lại vừa không có cửa sổ.

Tác giả: Vậy thì đây là phòng gì nhỉ

Katabuchi: Phòng… giam chăng?

Tác giả: Hả?

Katabuchi: Nếu ngôi nhà này cũng được tạo ra với mục đích tương tự như ngôi nhà ở Tokyo và Saitama, thì nhất định phải có phòng giam giữ ở đâu đó.

Bác Kurihara: Cùng quan điểm. Nếu vậy thì hẳn là cũng có một đứa trẻ chịu cảnh ngộ tương tự như “bé A” bị nhốt ở đó rồi.

Bé A… Đứa bé được nuôi dạy để giết người. Vậy là ngôi nhà này cũng… Vừa mới nghĩ đến đó, bỗng nhiên hình ảnh của bé Yo và bé A chập vào nhau.

Tác giả: Không lẽ đứa bé ấy đã ra tay với bé Yo?

Bác Kurihara: À không, khả năng ấy thấp lắm. Đứa trẻ bị nhốt lẻn ra khỏi phòng, sát hại bé Yo và để xác trước bàn thờ ư…? Bác không nghĩ thế. Có lẽ là ai đó, vì một mục đích nào đó, đã dẫn bé Yo tới phòng giam giữ và ra tay giết thằng bé ở đó.

Tác giả: Nhưng làm cách nào để tới được căn phòng này?

Bác Kurihara: Để sang “phòng bên cạnh”, bà nội đã đi ra hành lang. Vậy tức là lối ra vào nằm ở đâu đó trên hành lang. Chỉ có một nơi duy nhất vừa tiếp giáp căn phòng bí mật, lại vừa khéo nằm trên hành lang. Đó chính là bàn thờ.

Katabuchi: Gì cơ!?

Bác Kurihara: Katabuchi này, lúc nãy cháu miêu tả bàn thờ như thế này: “Chiều rộng bàn thờ bằng đúng với bề rộng của hành lang, nên nó trám vừa khít vào vị trí này, không hở ra một chút nào” , phải không?

Có khi nào, đây mới là hình dáng thực sự của bàn thờ này chăng?

Bác Kurihara lại vẽ thêm vào sơ đồ.

Tác giả: Có khoảng trống… phía sau bàn thờ?

Bác Kurihara: Bàn thờ đã che đi cánh cửa dẫn tới phòng bí mật. Theo như lời mô tả, bàn thờ “cao đến mức phải ngước nhìn” đúng không? Katabuchi khi đó vẫn còn nhỏ nên không thể nào nhìn thấy được khoảng trống phía sau.

Katabuchi: Nhưng làm sao để đến được cửa ra vào? Leo lên bàn thờ để băng qua bên kia… cháu nghĩ bà nội không thể làm nổi đâu.

Bác Kurihara: Nhớ không nhầm thì cháu bảo là bên trong bàn thờ có trang trí một bức tranh

khổ to vẽ biểu tượng Mạn-đà-la nhỉ? Có khi nào ẩn sau bức tranh là cánh cửa bí mật không? Nếu lách người qua cánh cửa đó thì có thể ra phía sau bàn thờ, tới được phòng giam giữ. Người biết được cấu trúc trên đã dẫn bé Yo đến chỗ này và đánh chết cậu bé.

Tác giả: Tại sao lại cố tình chọn chỗ này chứ?

Bác Kurihara: Lý do đó chính là chìa khóa giải đáp bí ẩn của vụ án và của cả ngôi nhà này.

Chân tướng

Bác Kurihara: Thử suy nghĩ theo trình tự xem sao nhé.

Khoảng 1 giờ đêm, thủ phạm đem bé Yo, khi đó vẫn đang ngủ, ra khỏi phòng. Vấn đề là làm sao xâm nhập được vào phòng số 4 mà không cần phải băng qua phòng số 3. Thủ phạm đã lợi dụng cấu trúc của chính ngôi nhà này.

Cấu trúc của ngôi nhà này… cũng tức là cấu trúc của một ngôi nhà đoạt mạng. Trong ngôi nhà ở Tokyo và Saitama có lối đi bí mật thông từ phòng giam đến hiện trường án mạng. Ngôi nhà này cũng có lối đi tương tự. Nếu vậy thì “hiện trường gây án” trong ngôi nhà này nằm ở đâu?

Katabuchi, nhớ không nhầm thì cháu bảo là phòng số 2 luôn luôn trong tình trạng không được sử dụng nhỉ?

Katabuchi: Vâng.

Bác Kurihara: Bác cứ thắc mắc chuyện đó mãi. Bé Yo và bác gái sống trong phòng số 4. Bé Yo cũng lớn rồi, phải chỉ lấy căn phòng số 2 làm phòng học hay giải trí cho cậu bé thì hay biết mấy. Nhưng vì lý do nào đó, nó vẫn bị bỏ không. Sở dĩ như thế là vì căn phòng này được xây nên nhằm phục vụ một mục đích. Bác nghĩ căn phòng này có lẽ tương đương với phòng tắm bồn trong ngôi nhà ở Tokyo và Saitama, hay nói thẳng ra chính là hiện trường gây án.

Nếu vậy, áp dụng cùng công thức, chắc chắn phải có lối đi bí mật thông từ phòng giam giữ đến căn phòng này. Đương nhiên, hiện tại nó không được thể hiện trong bản sơ đồ này. Tuy nhiên, chúng ta vẫn có thể dễ dàng suy luận ra được.

Bác Kurihara lại hí hoáy chiếc bút chì.

Bác Kurihara: Thế này đây. Cả hai phía sau lưng bàn thờ đều có khoảng trống. Bên trái là phòng giam giữ, bên phải là lối đi dẫn đến hiện trường gây án. Bằng lối đi này, thủ phạm đã băng qua phòng số 2 để vào phòng của bé Yo.

Katabuchi: Nhưng làm sao để đi từ lối này vào phòng số 2 được chứ? Trong phòng số 2 không có cửa hay bất cứ thứ gì có vẻ dùng để ngụy trang.

Bác Kurihara: Có lẽ cánh cửa đã được che giấu bằng cách này chăng?

Đoạn, bác Kurihara dùng bút chì chỉ vào “tấm cửa không mở được”.

Bác Kurihara: Tấm cửa này, có thật sự là không mở được không?

Hay là do bị khóa từ bên trong?

Katabuchi: Bên trong?

Bác Kurihara: Katabuchi à, cháu đã mất công vẽ ra bản sơ đồ này, thế mà bác cứ thêm thắt không biết bao nhiêu lần, thật xin lỗi cháu nhé. Nhưng đây là lần chỉnh sửa cuối cùng rồi.

Nói rồi bác Kurihara vẽ lại chỗ tấm cửa không mở được như thế này.

Bác Kurihara: Đây chính là chân tướng của ngôi nhà này. Có hai tấm cửa kéo, và giữa chúng là một khoảng không.

Tấm cửa bị khóa từ bên trong. Nhìn ở ngoài thôi thì trông nó chỉ như “một tấm cửa không mở được”. Katabuchi đã bị mánh khóe này đánh lừa.

Katabuchi: ……

Bác Kurihara: Chúng ta hãy thử tưởng tượng chuyện đã xảy ra tại ngôi nhà này nhé. Người sống ở đây rủ rê mục tiêu của mình đến nhà, mời người đó vào phòng số 2. Khi nhắm chừng thời cơ đã chín muồi, chủ nhà ra hiệu cho đứa trẻ trong phòng giam. Đứa trẻ băng qua lối đi, di chuyển đến khoảng không kẹp giữa hai tấm cửa. Tiếp đến dùng chìa khóa mở cửa, rồi sát hại vị khách trong phòng.

Cách thức y hệt. Phải chăng hai căn nhà kia là phiên-bản-kế-thừa cấu trúc của ngôi nhà này?

Katabuchi: Không thể nào…

Bác Kurihara: Bác nghĩ thủ phạm đã lợi dụng cấu trúc này để sát hại bé Yo.

Sau khi ra khu vực hành lang, thủ phạm đã chui qua bàn thờ để vào lối đi phía sau, tiếp đến thông qua căn phòng số 2 xâm nhập vào phòng số 4. Sau đó, hắn mang bé Yo đang say ngủ đi, quaylại lối ban đầu, sang tận phòng giam, rồi đánh chết bé Yo.

Tác giả: Sao phải sang tận phòng giam

Bác Kurihara: Có hai lý do.

Thứ nhất là để không đánh thức bé Yo. Nếu bé Yo tỉnh dậy, cậu bé sẽ la hét hoặc vùng vẫy, thế thì bể kế hoạch mất. Chính vì thế nên thủ phạm không có nhiều thời gian đem cậu bé đi xa hơn. Ít ra thì cũng không thư thả tới mức có thể mang cậu bé qua khe cửa hẹp nơi bàn thờ.

Và thứ hai, để che đậy tiếng đánh.

Vì lối đi bí mật này tiếp giáp với nhiều phòng khác nhau nên nhất định sẽ có ai đó nghe thấy tiếng động, dù hắn ra tay ở bất cứ đâu. Điều mà hắn phải tránh bằng mọi giá chính là để bác Miki nghe thấy. Bởi vì nếu thức giấc, bác gái sẽ nhận ra bé Yo đã biến mất ngay.

Vậy nên hắn đã chọn nơi cách xa phòng bác gái Miki nhất, chính là bên trong phòng giam giữ. Mà làm vậy thì cũng có rủi ro bị đứa bé trong phòng giam nhìn thấy, nên có thể là hắn đã ra tay ngay trước cửa.

Dù sao đi chăng nữa, bà nội đã nghe thấy tiếng động và tỉnh giấc. Dựa theo phương hướng, suy nghĩ của bà là “có biến xảy đến với đứa trẻ trong phòng giam” . Bà băng qua cánh cửa ở bàn thờ để đến phòng giam kiểm tra tình hình. Hẳn là thủ phạm cũng đã tính đến trường hợp đó. Trước khi bà nội đến, hắn đã bế thi thể bé Yo vòng về lối đi, rồi ẩn mình trong căn phòng số 2. Sau khi bà nội đã chắc chắn là không có gì bất thường và quay về phòng mình, thủ phạm mới trở lại hành lang thông qua cánh cửa ở bàn thờ. Tiếp đến, hắn đặt thi thể trước bàn thờ rồi trở về phòng mình. Sau đó chỉ cần chờ tới khi ai đó phát hiện ra thi thể.

Tác giả: Cháu hiểu được suy luận của bác, nhưng như thế không phải là hơi vô lý sao? Một tội ác đầy sơ hở đến vậy… Cháu nghĩ nếu cảnh sát vào cuộc, họ sẽ tìm thấy rất nhiều sạn cho mà xem.

Bác Kurihara: Ừ. Chính vì thế nên thủ phạm mới đặt-thi-thể-bé Yo-trước-bàn-thờ, để-cảnh-sát-không-nhúng-tay-vào-vụ-này .

Tác giả: Ý bác là sao?

Bác Kurihara: Cháu thử nghĩ mà xem. Nếu cảnh sát xuất hiện, họ sẽ điều tra triệt để khu vực xung quanh hiện trường tai nạn. Đương nhiên là cả bàn thờ. Nếu vậy, lối đi bí mật, phòng giam, sự tồn tại của đứa trẻ, tất cả những sự thật gây bất lợi cho nhà Katabuchi sẽ bị phơi bày ra ánh sáng. Đối với người nhà Katabuchi, đó là chuyện phải tránh bằng mọi giá.

Nói cách khác, thủ phạm tin rằng nếu hắn ngụy tạo ra câu chuyện “bé Yo chết do ngã từ trên bàn thờ xuống” những người trong gia đình này sẽ không báo cảnh sát.

Katabuchi: Ra thế. Vì vậy nên khi bác gái Miki định báo cảnh sát, mọi người đều ra sức can ngăn.

Bác Kurihara: Có lẽ cả nhà ai cũng nhận ra cái chết của bé Yo không phải là tai nạn. Tuy nhiên, để bảo vệ bí mật của ngôi nhà này, họ quyết định xem đây là “cái chết do tai nạn”. Nhưng bác gái Miki, tức mẹ của bé Yo, không thể chấp nhận được thỏa thuận ngầm ấy. Nếu đứng trên phương diện của hung thủ, cho dù như vậy cũng chẳng sao. Hắn tin là chừng nào hắn còn nắm giữ “bí mật của ngôi nhà này” làm con tin, mọi người sẽ tìm mọi cách ngăn cản bác gái giúp mình.

Tác giả: Nhưng, rốt cuộc thì ai là người đã…

Bác Kurihara: Cùng làm phép loại trừ nhé.

Trước hết, người mẹ ở chung phòng với Katabuchi không có khả năng gây án. Ông nội chân yếu, và người ở chung phòng với ông là bà nội cũng không phải. Cũng có khả năng hai người thông đồng với nhau, nhưng nếu thế thì việc bà nội nói ra lời dư thừa như “giữa đêm nghe thấy tiếng động” lại không hợp lý. Tóm lại là…

Katabuchi: Là bố cháu… phải không ạ?

Katabuchi thốt lên. Bỗng nhiên bị ném vào mặt hiện thực rằng bố mình là kẻ giết người, chắc chắn là chẳng ai giữ nổi bình tĩnh. Ấy vậy mà nét mặt cô trông điềm tĩnh một cách bất ngờ.

Katabuchi: Đúng là từ sau vụ này, bố cháu càng lúc càng trở nên kỳ lạ. Ông chỉ nhốt mình trong phòng và uống rượu… Thú thật là một góc nào đó trong tim cháu vẫn luôn hoài nghi không biết liệu ông có liên quan gì đến cái chết của bé Yo hay không.

Tác giả: Thế nhưng, động cơ là gì?

Katabuchi: Ngẫm lại thì tôi hầu như chưa từng nhìn thấy hai người họ nói chuyện riêng với nhau bao giờ. Dù vậy, tôi vẫn không cho là bố tôi ghét bé Yo. Tôi… không thể tưởng tượng nổi.

Bác Kurihara: Có khi nào liên quan đến vấn đề nối dõi không?

Katabuchi: Vấn đề nối dõi?

Bác Kurihara: Mặc dù đã suy tàn, nhưng nhà Katabuchi vốn là danh gia vọng tộc. Rất có khả năng vẫn còn nặng nề tư tưởng “thừa kể”. Nhà Katabuchi có ba người cháu. Bé Yo, chị cháu và cháu. Ai đó trong số này sẽ là người tiếp quản nhà Katabuchi.

Vì là con trai nên bé Yo là ứng cử viên có lợi thế nhất. Tuy nhiên, nếu bé Yo mất đi, vai trò ấy sẽ được chuyển sang chị gái cháu hoặc Katabuchi. Theo thứ bậc thì đó sẽ là trưởng nữ, tức chị cháu. Liệu có phải vì lý do nào đó mà bố cháu muốn chị cháu tiếp quản gia tộc Katabuchi chăng?

Quả thật là khi kết hôn, chị vẫn chọn giữ lại họ Katabuchi chứ không theo họ chồng. Như vậy cũng có ý nghĩa là “thu nạp con rể” và “kế tục dòng tộc”. Nhưng…

Tác giả: Chỉ vì thế mà giết cháu trai của mình… Trên đời có chuyện đó sao?

Bác Kurihara: Gia đình Katabuchi không phải là gia đình bình thường. Vậy nên cũng chẳng có gì lạ nếu nội tình trong nhà họ phức tạp đến mức chúng ta không thể tưởng tượng nổi.

Tác giả: Nội tình phức tạp à…

Bác Kurihara: Nếu nghĩ theo hướng đó, bác có thể đoán được lý do vì sao chị cháu đột nhiên biến mất khỏi nhà. Phải chăng là chị cháu đã bị tẩy não ở ngôi nhà đó?

Tác giả: Tẩy não?

Bác Kurihara: Nhiều đời gia tộc Katabuchi đã ra tay giết người tại căn nhà đó. Vì lý do gì thì bác không rõ, nhưng đó là phong tục của họ. Chị cháu bị buộc phải gánh lấy trọng trách đó.

Tuy nhiên, nếu được nuôi dạy trong môi trường bình thường, dù có cố gắng thuyết phục rằng “từ hôm nay, ngươi phải lợi dụng trẻ con để giết người” đến thế nào đi nữa thì người ta cũng không thể làm được chuyện đó. Chính vì thế, người nối dõi gia tộc Katabuchi từ bé đã bị giam lỏng trong ngôi nhà đó, tiếp thu những bài huấn luyện tẩy não về việc “giết người” dù muốn hay không. Mà này, đây cũng chỉ là bác đoán mò thôi nhé.

Đúng lúc ấy, chúng tôi nghe thấy một giọng nói vang lên từ ngoài cửa báo rằng: “Sắp đến giờ rồi ạ. Xem ra đã sắp đến giờ trả phòng họp rồi. Nhìn lại đồng hồ thì đã quá 6 giờ tối. Chúng tôi nhanh chóng kết thúc cuộc trò chuyện rồi vội vàng sửa soạn ra về.

⚝ ⚝ ⚝

Khi bước ra bên ngoài, đường phố đã bắt đầu lên đèn. Ba chúng tôi cùng đi bộ về phía nhà ga.

Tác giả: Nhân tiện thì Katabuchi này, ông nội cô bây giờ vẫn khỏe chứ?

Katabuchi: Chuyện đó thì tôi không rõ. Kể từ khi bé Yo mất, tôi chưa quay lại đó lần nào. Tôi ra riêng nhưng cũng không khác gì bỏ nhà đi, nên ngoài chị ra, mọi liên lạc với họ hàng thân thích đều bị cắt đứt.

Tác giả: Vậy à..

Katabuchi: Nhưng sau buổi nói chuyện hôm nay, tôi đã quyết tâm đến nhà ông bà một chuyến.

Tác giả: Cô có biết địa chỉ không?

Katabuchi: Không, nhưng chắc chắn là mẹ tôi biết. Tôi cũng muốn gặp lại mẹ một lần.

Và lần này bà sẽ phải nói cho tôi biết chuyện về chị… về sự thật. Hẳn là bây giờ chị tôi đang phải chịu đau khổ ở đâu đó. Nhất định tôi sẽ cứu được chị ấy.

Sau một lúc đi bộ, chúng tôi tới nhà ga.

Dòng người thưa thớt, có lẽ cũng là vì tối Chủ nhật.

Chúng tôi chào tạm biệt nhau trước cổng soát vé.

Cuộc gọi bất ngờ

Khi tôi về tới nhà đã là 8 giờ hơn. Tóm lại, hôm nay quả là một ngày đầy mệt mỏi. Vì không có hứng ăn nên tôi định ngâm mình trong bồn tắm xong sẽ đi ngủ luôn. Nhưng đúng lúc đó, chuông điện thoại reo lên. Là cuộc gọi từ Katabuchi.

Tác giả: A lô, có chuyện gì sao?

Katabuchi: Ờm. thật ra thì…

Giọng nói nghe có vẻ hơi căng thẳng một chút.

Katabuchi: Ban nãy, sau khi chia tay hai người, tôi nhận được điện thoại từ mẹ. Mẹ tôi nói rằng: “Có chuyện liên quan đến chị mà mẹ muốn nói với con. Mẹ muốn gặp con sớm. Càng sớm càng tốt” … Tôi định tối mai sẽ đến nhà mẹ.

Tác giả: Thế thì gấp quá nhỉ.

Katabuchi: Vâng. Vậy nên… mong anh thứ lỗi vì lời nhờ vả đường đột này, nhưng nếu có thể, anh đi cùng tôi được không?

Tác giả: Hả? Tôi… đến nhà mẹ cô sao?

Katabuchi: Vâng. Tôi cũng biết anh rất bận, nên đương nhiên là tôi không ép anh đâu.

Tôi kiểm tra lại lịch của mình. Tối mai tôi không có kế hoạch gì cả.

Tác giả: Đi thì tôi không ngại… Nhưng tôi đi cùng cô liệu có ổn không? Chẳng phải mẹ cô muốn hai mẹ con nói chuyện riêng với nhau sao?

Katabuchi: Chuyện đó thì không thành vấn đề. Tôi đã báo trước với mẹ rồi. Hơn nữa… bản thân tôi cũng mong anh đi cùng. Trước giờ mối quan hệ giữa chúng tôi luôn ngột ngạt, mẹ còn chẳng cho tôi bước chân vào nhà, vậy mà tự nhiên lại nói là “mẹ muốn gặp con” nên tôi thấy kỳ lạ lắm. Nói ra thì thật xấu hổ, nhưng đi một mình tôi không yên tâm…

Tác giả: … Tôi hiểu rồi. Bác Kurihara đi chung có được không?

Katabuchi: Nếu bác ấy không thấy phiền.

Sau đó, chúng tôi thống nhất kế hoạch gặp mặt rồi cúp máy.

Khi tôi liên lạc với bác Kurihara, bác lại từ chối: “Bác muốn đi lắm nhưng công việc đang lu bu quá” . Ngày mai là thứ Hai, quá khó đối với người phải làm việc ở công ty như bác Kurihara. Lòng tôi hơi bất an, nhưng chẳng có cách nào khác.

Cuối cùng, bác còn thòng thêm một câu: “Bữa sau nhớ kể cho bác nghe đấy nhé.