← Quay lại trang sách

- 34 -

Đợt sương giá đầu tiên sẽ tàn phá hết những gì còn lại trong khu vườn. Sương giá thường xuất hiện khoảng giữa tháng Mười dù theo lịch vạn niên cha thường đọc với vẻ thành kính như khi đọc Kinh Thánh đã quên ngày dự đoán đến hai lần. Không chịu khuất phục, cha tiếp tục xem lại cuốn lịch mỗi sáng khi dùng tách cà phê đầu tiên. Nó gây ra nỗi lo lắng vô tận.

Bởi không thể hái bông, khu vườn trở thành tâm điểm chú ý. Tất cả năm người trong gia đình kéo nhau ra vườn ngay sau bữa sáng. Mẹ cho rằng sương giá sẽ xuất hiện vào ban đêm, nếu không chắc chắn sẽ vào đêm sau. Và sau đó nữa.

Trong suốt một giờ khốn khổ, tôi lôi lũ đậu đen khỏi đám dây leo. Pappy, người còn ghét làm vườn hơn cả tôi, đang hái đậu bơ ở bên cạnh và làm việc hết sức chăm chỉ. Gran đang giúp mẹ hái những quả cà chua cuối cùng. Cha xách làn chạy tới chạy lui, dưới sự giám sát của mẹ. Khi cha tới gần chỗ tôi, tôi xin phép.

-Con thật sự muốn sơn.

-Hỏi mẹ con đi. - Cha nói.

Tôi làm theo lời cha và mẹ nói, tôi có thể làm việc đó sau khi hái được hai làn đậu. Khu vườn được thu hoạch sạch sẽ hơn bao giờ hết. Vào khoảng giữa trưa thì không còn một hạt đậu nào sót lại.

Sau đó tôi quay lại việc sơn nhà một mình. Ngoài việc điều khiển máy ủi thì đây là công việc tôi thích làm hơn cả. Sự khác nhau giữa hai việc là tôi thực sự không thể điều khiển máy ủi và phải mất nhiều năm tôi mới làm được. Nhưng chắc chắn tôi có thể sơn nhà sau khi quan sát những người Mexico, tôi học hỏi được nhiều hơn và nâng cao kỹ thuật của mình. Tôi miết lớp sơn mỏng nhất có thể, cố hết sức tiết kiệm sơn.

Khoảng giữa sáng đã hết một thùng. Mẹ và Gran đang ở trong bếp, rửa sạch và đóng hộp rau củ.

Tôi không nghe thấy tiếng động đằng sau. Nhưng tiếng ho thu hút sự chú ý vang lên khiến tôi giật mình, đánh rơi chổi sơn.

Ông Latcher đứng đó, người ướt át và dính đầy bùn từ chân đến thắt lưng. Chân đất, áo rách rưới, rõ ràng ông ta đã đi bộ từ trang trại tới đây.

-Ông Chandler đâu?

Tôi không rõ ông ta muốn hỏi ông Chandler nào. Tôi nhặt chổi sơn và chạy về phía đông. Tôi hét to gọi cha và cha ló đầu qua đám dây leo. Khi thấy ông Latcher sau lưng tôi, cha vội đứng lên.

-Gì thế? - Cha bước đến chỗ chúng tôi.

Gran nghe thấy giọng nói lạ và cũng xuất hiện ở hành lang trước, mẹ đứng ngay sau lưng bà. Nhìn ánh mắt ông Latcher, chúng tôi biết có chuyện không hay.

-Nhà tôi bị ngập rồi. - Ông ta nói, không nhìn vào mắt cha. - Chúng tôi phải rời đi.

Cha nhìn tôi rồi quay sang nhìn hai phụ nữ trên hành lang.

-Anh có thể giúp chúng tôi không? - Ông Latcher hỏi.

- Chúng tôi không còn nơi nào để đi nữa.

Tôi nghĩ, ông ta sắp khóc đến nơi và tôi cảm thấy mình cũng vậy.

-Dĩ nhiên chúng tôi sẽ giúp, - Gran ngay lập tức nhận trách nhiệm. Vì thế cha sẽ làm theo lời bà nội. Và tất cả chúng tôi cũng vậy.

Bà bảo tôi đi tìm Pappy. Ông đang ở kho công cụ, đang cố bận rộn lăng xăng với ắc quy điện của chiếc máy kéo cũ. Mọi người tập trung ngay bên máy kéo để bàn bạc kế hoạch.

-Chúng tôi có thể lái xe đến thẳng nhà anh không? - Pappy hỏí.

-Không, - ông Latcher nói. - Nước đã ngập đến thắt lưng trên đoạn đường nhà chúng tôi. Hiện nay nước lên đến hành lang, vào nhà sáu insơ rồi.

Tôi không thể tưởng tượng cảnh đám trẻ nhà Latcher trong ngôi nhà ngập đầy nước.

-Libby và đứa trẻ thế nào? - Gran hỏi, như không thể kìm nén.

-Libby vẫn khoẻ, đứa trẻ bị ốm.

-Chúng ta cần thuyền, - cha nói. - Jeter có một cái neo ở Cockleburn Slough.

-Ông ấy sẽ không phiền nếu chúng ta mượn nó đâu. - Pappy khẳng định.

Trong vài phút cánh đàn ông bàn về chuyện cứu nguy - bằng cách nào lấy được chiếc thuyền, xe tải có thể đi được đọan đường nào, bao xa, và sẽ mất bao nhiêu chuyến. Điều không được đề cập chính xác là gia đình Latcher sẽ đi về đâu sau khi được cứu khỏi chỗ ngập lụt.

Một lần nữa Gran lại sốt sắng nhận trách nhiệm.

-Mọi người nhà anh có thể ở đây. - Bà nói với ông Latcher - Gác xép của chúng tôi rất sạch sẽ, đám người Mexico vừa rời khỏi. Anh chị sẽ có giường ấm áp và đầy đủ thức ăn.

Tôi nhìn bà nội. Pappy cũng nhìn bà. Cha liếc qua và sau đó nhìn xuống chân. Lũ người đói khát nhà Latcher sẽ sống trong chuồng bò nhà chúng tôi! Đứa trẻ bệnh tật khóc suốt đêm. Thức ăn của chúng tôi sẽ bị phân phát. Tôi khiếp sợ với suy nghĩ đó, và tôi thấy giận dữ vì Gran đã đưa ra lời đề nghị không thèm bàn bạc trước với chúng tôi.

Sau đó tôi nhìn ông Latcher. Hai môi ông ta run run, và mắt ướt nhoèn. Hai tay ôm chặt cái mũ rơm vào thắt lưng, ông ta rất bối rối nên chỉ nhìn xuống đất. Tôi chưa bao giờ thấy một con người khốn khổ, bẩn thỉu và tuyệt vọng hơn.

Tôi nhìn sang mẹ. Hai mắt mẹ cũng rơm rớm. Tôi liếc nhìn cha. Tôi chưa bao giờ thấy cha khóc, và cha không định khóc vào lúc này, nhưng rõ ràng cha cũng mủi lòng vì nỗi khổ của ông Latcher. Trái tim khô cứng của tôi tan ra trong nháy mắt.

-Chúng ta tiến hành thôi, - Gran nói có vẻ ra lệnh. - Chúng tôi sẽ chuẩn bị gác xép.

Chúng tôi bắt tay vào việc, cánh đàn ông nhảy lên xe tải, cảnh phụ nữ hướng tới chuồng bò. Trước khi bước đi Gran lôi tay Pappy và thầm thì.

-Ông đón Libby và đứa trẻ trước nhé.

Một mệnh lệnh rõ ràng và Pappy gật đầu.

Tôi nhảy lên thùng xe cùng ông Latcher. Ông ta ngồi xổm trên đôi chân gầy trơ xương và im lặng. Chúng tôi dừng lại tại cầu. Cha ra khỏi xe và bước dọc bờ sông. Nhiệm vụ của cha là đi tìm chiếc thuyền của ông Jeter ở Cockleburn Slough, sau đó thả nó trôi theo dòng sông tới nơi chúng tôi đang đợi trên cầu. Chúng tôi đi tiếp và rẽ vào con đường tới nhà Latcher, và đi gần một trăm bộ trước khi đến gần một bãi lầy. Phía trước mặt không có gì khác ngoài nước…

-Tôi sẽ bảo với họ là mọi người đang tới. - Ông Latcher nhảy khỏi thuyền.

Ông ta lội qua vũng bùn và sau đó là nước mênh mông. Ngay lập tức nước lên đến đầu gối.

-Coi chừng rắn nhé! - ông ta hét to lại phía sau, - chúng ở mọi nơi đấy.

Ông ta nặng nhọc lê bước qua dòng nước, với hai bên là những cánh đồng ngập úng.

Hai ông cháu nhìn theo cho đến khi ông ta biến mất, sau đó chúng tôi trở lại bên sông và chờ cha.

Chúng tôi ngồi trên một khúc gỗ gần cầu, nước ầm ầm phía dưới. Vì thấy không có gì để nói nên tôi quyết định đây là lúc kể cho Pappy một bí mật. Trước tiên, tôi đề nghị ông phải thề giữ kín.

Tôi bắt đầu câu chuyện, từ lúc những giọng nói trong đêm khuya ở sân trước. Gia đình Spruill cãi nhau, rồi Hank bỏ đi. Tôi lần theo sau trong bóng tối và trước khi biết chuyện gì xảy ra, tôi đang đi theo dấu không chỉ Hank mà theo sau cả Cowboy.

-Bọn họ đánh nhau ngay chỗ kia. - Tôi chỉ ra giữa cầu.

Tâm trí Pappy không còn bận tâm đến lũ lụt, trồng bông hay việc cứu gia đình Latcher. Ông nhìn tôi chăm chăm, tin vào lời nói của tôi nhưng tỏ ra rất kinh ngạc. Tôi kể lại trận ấu đả với mọi chi tiết hết sức sinh động sau đó lại chỉ.

-Hank rơi xuống chỗ kia, ngay giữa sông. Chưa thấy nổi lên.

Pappy lầm bầm nhưng không nói gì. Tôi ngồi xổm ngay trước mặt ông, lo lắng và kể nhanh. Khi tôi nói đến cuộc chạm trán giữa tôi với Cowboy vài phút sau trên con đường gần nhà, Pappy thầm chửi rủa.

-Nhẽ ra, cháu nên kể cho ông nghe ngay sau đó.

-Cháu không thể, cháu quá sợ hãi.

Ông đứng lên và bước qua bước lại quanh khúc gỗ.

-Hắn đã giết con trai của họ và đánh cắp luôn cô con gái, - ông tự nói với mình. - Ôi, Lạy Chúa!

-Chúng ta sẽ làm gì, Pappy?

-Để ông suy nghĩ.

-Ông nghĩ, Hank sẽ nổi lên ở chỗ nào đó không?

-Không. Thằng Mexico đó đã moi ruột nó. Nó chìm thẳng xuống đáy sông, có lẽ bị lũ cá rỉa xác rồi, không còn gì nữa.

Chuyện thật ghê tởm, nhưng tôi cảm thấy nhẹ bớt khi nghe nói vậy. Tôi không muốn thấy lại Hank. Tôi đã nghĩ về gã mỗi khi qua cầu. Tôi đã mơ thấy cái xác trương phềnh của gã thình lình xuất hiện dưới sông và kinh hãi khi trời sập tối.

-Cháu đã làm gì sai sao? - Tôi hỏi.

-Không.

-Ông định kể cho mọi người không?

-Không, ông không nghĩ vậy. Chúng ta sẽ giữ bí mật chuyện này, chúng ta sẽ nói đến nó sau.

Chúng tôi lại ngồi xuống khúc gỗ và nhìn làn nước, Pappy đăm chiêu suy nghĩ. Tôi cố thuyết phục mình là bây giờ nên cảm thấy dễ chịu hơn vì cuối cùng tôi cũng đã kể được cho một người lớn về cái chết của Hank.

Sau một lúc Pappy nói.

-Hank phải nhận những gì nó đã gây ra. Chúng ta không kể cho ai về chuyện này. Cháu là nhân chứng duy nhất, và không việc gì cháu phải lo lắng. Và đây sẽ là bí mật của chúng ta, một bí mật chúng ta sẽ mang theo xuống mồ.

-Còn ông bà Spruill?

-Không biết sẽ không làm họ bị tổn thương.

-Ông sẽ kể cho Gran?

-Không, không ai cả. Chỉ ông và cháu thôi.

Ông là người cùng hội mà tôi hoàn toàn tin tưởng. Tôi cảm thấy dễ chịu hơn. Tôi đã chia sẻ bí mật với một người chắc chắn có thể gánh vác được phần của mình. Và chúng tôi quyết định là chuyện của Hank và Cowboy sẽ được giữ kín mãi mãi.

Cuối cùng, cha cũng đến trên chiếc thuyền có đáy bằng của ông Jeter. Thuyền có máy gắn ngoài đang chệch hướng nhưng việc đi lại rất thuận lợi nhờ dòng nước mạnh. Cha sử dụng một mái chèo làm bánh lái và tấp vào bờ dưới cầu, ngay dưới chỗ chúng tôi. Cha và Pappy sau đó lôi thuyền lên bờ và kéo nó đến chỗ xe tải. Chúng tôi quay trở lại con đường dẫn đến nhà Latcher và dỡ thuyền xuống, đẩy nó ra bờ nước ngập. Tất cả ba chúng tôi nhảy lên thuyền, chân dính đầy bùn. Cha và ông chèo thuyền, chúng tôi di chuyển dọc theo con đường hẹp, hai bộ phía trên mặt đất, ngang qua những luống bông ngập nước.

Chúng tôi càng đi xa, nước càng sâu. Gió nổi lên và thổi dạt chúng tôi vào đám bông. Cả Pappy và cha nhìn lên trời rối lắc đầu.

Tất cả gia đình Latcher đứng trên hành lang trước, chờ đợi trong nỗi sợ hãi, đang quan sát mọi cử động của chúng tôi khi con thuyền cắt ngang hồ nước bao quanh ngôi nhà. Bậc thang trước đã ngập, ít nhất khoảng một bộ. Chúng tôi ghé thuyền tới trước nhà, ông Latcher túm lấy nó và lôi vào. Nước ngập tới ngực ông ta.

Tôi nhìn những khuôn mặt sợ hãi và buồn bã trên hành lang. Quần áo của họ thậm chí còn rách rưới hơn lần cuối tôi đến đây. Tất cả đều gày gò và hốc hác, có lẽ đang đói. Tôi thấy nụ cười trên mặt hai đứa bé và tôi bỗng thấy mình rất quan trọng. Bước ra khỏi đám đông là Libby

Latcher, tay ôm đứa bé quấn trong cái chăn cũ. Trước đó, tôi chưa bao giờ gặp Libby, và tôi không thể tin được là chị ấy lại xinh đẹp đến vậy. Mái tóc nâu nhạt dài buộc đuôi ngựa. Đôi mắt màu xanh nhạt và sáng rực. Libby cao và gầy như những người kia. Khi chị bước lên thuyền, cả Pappy và cha đưa tay đỡ. Chị và đứa bé ngồi cạnh tôi, và bỗng nhiên tôi phải đối mặt với đứa em họ mới nhất:

-Em là Luke, - tôi nói, mặc dù đây là thời điểm kỳ cục để giới thiệu.

-Chị là Libby, - chị nở nụ cười khiến trái tim tôi đập rộn ràng.

Đứa trẻ đang ngủ. Nó không lớn thêm tý nào so với khi tôi thấy qua cửa sổ vào đêm nó ra đời. Nó bé tý, nhăn nheo và chắc là đói, nhưng Gran đang đợi nó.

Rayford Latcher bước lên thuyền và ngồi cách xa chỗ tôi. Nó là một trong ba đứa đã đánh tôi lần trước. Percy, thằng lớn nhất và là kẻ đầu sỏ trong vụ tấn công đó, đang trốn trên hành lang. Thêm hai đứa nữa lên thuyền, sau đó ông Latcher nhảy lên.

-Chúng tôi sẽ quay lại trong vài phút. - Ông nói với bà Latcher và đám trẻ đang còn đứng trên hành lang. Họ trông có vẻ như bị bỏ lại chết gí ở đó.

Gió tiếp tục thổi dạt thuyền vào đám bông vì thế cha nhảy xuống và bắt đầu đẩy thuyền từ phía sau.

-Coi chừng rắn, - ông Latcher lại cảnh báo. Cả hai người đều ngập dưới nước.

-Percy suýt bị rắn cắn đấy, - Libby nói với tôi. - Nó nổi lên trên hành lang.

Chị cúi xuống đứa bé, cố giữ cho nó được khô ráo.

-Tên nó là gì? - Tôi hỏi.

-Nó chưa có tên.

Tôi chưa bao giờ nghe câu nói nào vô nghĩa như vậy. Một đứa bé không có tên. Phần lớn trẻ con sinh ra tại nhà thờ Cơ đốc đều có hai hoặc ba cái tên trước khi chúng xuất hiện trên cõi đời.

-Khi nào Ricky về nhà? - Libby thầm thì.

-Em không biết.

-Anh ấy vẫn ổn chứ?

-Đúng.

Chị dường như rất mong ngóng tin tức chú Ricky, và điều này khiến tôi không thoải mái. Tuy nhiên, không phải là không dễ chịu khi được ngồi sát một cô gái dễ thương muốn thì thầm nói chuyện với mình. Đám trẻ trên thuyền hai mắt dại đi vì chuyến phiêu lưu.

Khi tới gần đường, mực nước nông hơn và cuối cùng thuyền cũng chạm vào lớp bùn. Tất cả chen nhau nhảy ra ngoài và đám con nhà Latcher chất đống lên xe tải. Pappy ngồi sau tay lái.

-Luke, con ở lại với cha. - Cha yêu cầu.

Khi xe tải đi khỏi, ông Latcher lại đẩy thuyền ra và bắt đầu hét to những lời chỉ dẫn cho bà vợ. Một đứa trẻ lò dò bước trên hành lang và suýt rơi xuống nước khi cơn gió mạnh đập vào thuyền và làm cho nó chòng chành. Percy đẩy mạnh cán chổi về phía trước và tôi túm chặt lấy để lôi thuyền quay lại hành lang. Cha la to gì đó, và ông Latcher cũng vậy. Còn lại bốn đứa trẻ và tất cả đều muốn lên thuyền ngay. Tôi giúp chúng lên thuyền.

-Nắm chắc vào Luke! - Cha nói hàng chục lần.

Khi đám trẻ đã ổn định, ông Latcher ném lên thuyền một bao bì căng phồng, có lẽ là quần áo. Tôi đoán đó là tất cả tài sản của họ. Cái bao hạ cánh ngay dưới chân tôi, và tôi giữ chặt lấy như thể nó rất giá trị. Ngồi cạnh tôi là cô bé chân đất, không phải chỉ một trong bọn họ không đi giầy, mặc áo sơ mi cộc tay. Nó đang lạnh cóng và bám chặt lấy chân tôi như sợ bị gió thổi bay. Nước mắt đầm đìa trên khuôn mặt nhưng khi thấy tôi nhìn, nó lí nhí.

-Cảm ơn.

Bà Latcher trèo lên thuyền, bước vào giữa đám con và hét to nói chuyện với ông chồng. Với con thuyền đầy người, chúng tôi quay lại và hướng về phía đường. Tất cả ngồi co rúm lại để che mặt tránh mưa.

Cha tôi và ông Latcher gắng hết sức đẩy thuyền trong cơn gió. Nhiều chỗ nước chỉ đến đầu gối, nhưng sau vài bước chân lại bị ngập đến ngực khiến họ rất khó đẩy thuyền. Họ cố giữ nó ở giữa đường, tránh xa đám bông.

Pappy chưa thấy đâu. Ông không đủ thời gian để đưa chuyến đầu tiên và quay lại ngay. Khi chúng tôi xuống thuyền an toàn, cha buộc nó vào cột hàng rào.

-Không việc gì phải chờ đợi ở đây. - Cha quyết định.

Chúng tôi lội bì bõm qua lớp bùn, chịu đựng gió và mưa cho tới khi tới được đoạn sông. Đám trẻ nhà Latcher sợ đi qua cầu, và tôi chưa bao giờ nghe thấy những tiếng kêu khóc thảm thiết như vậy. Chúng túm chặt cha mẹ. Ông Latcher đang vác bao tải. Nửa đường trên sông St. Francis, tôi nhìn xuống những tấm ván phía dưới và nhận thấy, giống như đám con, bà Latcher cũng đi chân không.

Khi đã được an toàn ở bên này sông, tôi thấy Pappy lái xe tới gần.

Gran và mẹ đang đợi trên hành lang sau. Họ chào đón đoàn thứ hai của gia đình Latcher và chỉ họ tới cuối hành lang, nơi chất một đống quần áo. Đám trẻ nhà Latcher cởi trần, vài đứa cảm thấy bối rối, những đứa khác thì không, và mặc quần áo cũ từ rất lâu của nhà Chandler. Sau khi thay xong quần áo khô ráo ấm áp, chúng được đưa vào bếp, nơi có đầy đủ thức ăn. Gran đã chuẩn bị xúc xích, thịt hun khói và hai chảo bánh rán. Bàn ăn chất đầy bát to với đủ các loại rau mẹ trồng trong sáu tháng qua.

Gia đình Latcher ngồi quanh bàn, tất cả mười người - đứa bé đang ngủ ở đâu đó. Đa phần thời gian họ chỉ im lặng, và tôi không chắc đó là vì họ cảm thấy xấu hổ, an tâm hay chỉ vì quá đói khát. Họ cắm đầu vào bát và thỉnh thoảng nói lời cảm ơn. Mẹ với Gran rót trà và nói chuyện ồn ào xung quanh. Tôi quan sát họ từ khung cửa. Pappy và cha ở hành lang trước, đang nhấm nháp cà phê và nhìn mưa ngoài trời.

Khi bữa ăn vẫn đang tiếp tục, gia đình tôi chuyển sang phòng khách, nơi Gran đã đốt lò sưởi. Năm người chúng tôi ngồi gần lò sưởi và lắng nghe gia đình Latcher trong bếp một lúc lâu. Họ không nói năng gì, dĩa thìa khua lanh canh. Bọn họ được ấm áp và an toàn, không còn đói khát. Làm sao lại có những con người đáng thương như vậy?

Tôi nhận thấy mình không thể ghét bỏ gia đình Latcher. Họ cũng giống chúng tôi, bất hạnh khi sinh ra là người lĩnh canh. Tôi thật sai lầm khi tỏ vẻ khinh bỉ họ. Ngoài ra, tôi cũng khá quan tâm đến Libby.

Tôi hy vọng là có lẽ chị thích tôi.

Khi chúng tôi đang ngồi sưởi thì tiếng khóc của đứa bé vang lên từ nơi nào đó. Gran bật dậy và bỏ đi ngay.

-Tôi sẽ đi xem thằng bé, - tôi nghe bà nói trong bếp. - Mọi người cứ tiếp tục dùng bữa.

Tôi không thấy một người nào trong nhà Latcher rời bàn ăn. Đứa bé khóc từ đêm nó ra đời và họ đã quen với việc đó.

Tuy nhiên, gia đình Chandler chúng tôi lại không quen. Nó khóc suốt thời gian còn lại trong bữa trưa. Gran bế nó đi qua đi lại cả giờ đồng hồ khi cha mẹ đưa gia đình Latcher đến nơi ở mới trên gác xép. Libby quay lại kiểm tra đứa bé vẫn đang gào khóc. Mưa đã tạnh, vì vậy mẹ bê nó ra ngoài đi dạo nhưng nó cũng không hài lòng. Tôi chưa bao giờ nghe thấy thứ gì gào thét ầm ĩ không ngừng như vậy.

Khoảng giữa chiều chúng tôi cảm thấy lo lắng. Gran đã thử dùng vài loại thuốc của bà, nhưng loại thuốc pha chế lại chỉ làm cho mọi việc tồi tệ hơn. Libby đu đưa nó trên chiếc đu nhưng cũng không ăn thua. Gran vừa hát ru vừa nhảy quanh nhà, nhưng nó vẫn gào khóc, thậm chí còn to hơn, tôi nghĩ vậy. Mẹ bế nó đi qua đi lại. Pappy và cha bỏ đi chỗ khác. Tôi muốn bỏ chạy và trốn vào kho thóc.

-Trường hợp đau bụng tệ nhất tôi từng thấy, - tôi nghe Gran nói.

Sau đó Libby lại đu đưa đứa bé ở hành lang trước, và tôi nghe được cuộc nói chuyện khác. Dường như khi còn bé, tôi đã bị đau bụng dữ dội. Bà ngoại đã mất của tôi, người sống ở thị trấn trong một ngôi nhà sơn đẹp đẽ, cho tôi xơi vài miếng kem vani. Tôi nín khóc ngay, và chỉ vài ngày sau cơn đau bụng biến mất.

Vài lần sau đó tôi cũng bị đau bụng. Gran ít khi có sẵn kem trong tủ lạnh. Cha mẹ đã cho tôi lên xe tải và lái vào thị trấn. Dọc đường tôi đã nín khóc và lăn ra ngủ. Cha mẹ cho rằng sự chuyển động là mẹo chữa bệnh.

Mẹ bảo tôi tìm cha về. Mẹ đỡ đứa bé từ tay Libby, người đang mong thoát khỏi nó, và ngay sau đó chúng tôi đi về phía xe tải.

-Chúng ta vào thị trấn ạ? - Tôi hỏi.

-Ờ. - Mẹ nói.

-Còn nó thì sao? - Cha chỉ đứa bé. - Nó đang được coi là một bí mật mà.

Mẹ đã quên mất việc này. Nếu chúng tôi xuất hiện trong thị trấn với một đứa bé bí hiểm, tin đồn sẽ dày đặc.

-Chúng ta sẽ tính khi tới đó, - mẹ đóng sầm cánh cửa. - Chúng ta đi thôi.

Cha khởi động xe. Tôi ngồi giữa và đứa bé ở sát cạnh tôi. Nó chỉ nín được một lúc, sau đó lại tiếp tục gào. Khi tới gần sông tôi chỉ muốn ném đồ chết tiệt kia ra cửa sổ.

Tuy nhiên, cha mẹ lại thì thầm bàn bạc khi xe qua cầu. Họ quyết định là mẹ sẽ xuống xe khi chúng tôi đến gần nhà thờ, sau đó khẩn trương tới cửa hàng Pop & Pearl mua kem. Cha mẹ lo là bà Pop sẽ nghi ngờ tại sao mẹ lại mua kem và chỉ duy nhất món kem, bởi chúng tôi không cần bất cứ cái gì khác vào lúc này, và tại sao mẹ lại xuất hiện trong thị trấn vào chiều thứ tư. Cha mẹ kiên quyết là tính tò mò của bà Pop sẽ không được thoả mãn dưới bất cứ tình huống nào và sẽ khá thú vị khi bà phải khổ sở vì tính hiếu kỳ của chính mình. Dù bà Pearl rất thông minh nhưng cũng không thể đoán được món kem là dành cho đứa con hoang chúng tôi đang giấu trên xe.

Chúng tôi dừng xe gần nhà thờ. Nhìn quanh không thấy ai, mẹ liền trao đứa bé cho tôi và nghiêm khắc hướng dẫn cách bế ẵm cái sinh vật kia. Khi mẹ đóng cửa xe, mồm nó lại ngoạc ra, hai mắt sáng rực, lá phổi chứa đầy sự giận dữ. Nó rền rĩ khóc hai lần và suýt làm tôi chết khiếp trước khi cha vào số và chúng tôi lại khởi hành trên những con đường Black Oak. Đứa bé nhìn tôi và nín khóc.

-Chúng ta không được dừng lại. - Tôi nói.

Chúng tôi lái xe tới gần trạm tách hạt, một quang cảnh ảm đạm, máy móc không làm việc. Chúng tôi lại vòng ra sau nhà thờ Melodist và trường học, sau đó rẽ sang phía nam vào phố Main. Mẹ rời cửa hàng Pop & Pearl với một túi giấy nhỏ. Không có gì ngạc nhiên khi bà Pop đi ngay sau mẹ, và đang nói chuyện. Khi chúng tôi đi ngang qua, cha vẫy tay như không có gì bất thường.

Tôi chỉ biết, suýt chút nữa chúng tôi bị bắt gặp với đứa trẻ nhà Latcher. Tiếng gào lớn và cả thị trấn sẽ biết được bí mật của chúng tôi.

Chúng tôi vòng qua trạm tách hạt lần nữa, và khi đi về phía nhà thờ, mẹ đang đứng đợi. Khi xe dừng lại, mắt thằng bé lại nhấp nháy, môi dưới run run. Nó lại chuẩn bị gào khi tôi trả nó cho mẹ.

-Đây này, mẹ bế nó đi.

Tôi chuồn ra khỏi xe trước lúc mẹ lên. Thái độ vội vàng của tôi khiến cha mẹ ngạc nhiên.

-Con đi đâu, Luke? - Cha hỏi.

-Cha lái xe vòng vòng một chút nữa đi, con cần mua thêm sơn.

-Vào xe tải ngay, - cha quát nhỏ.

Đứa bé khóc và mẹ lại vội trèo lên.

Tôi nghe thấy tiếng khóc đằng sau, không to lắm và xe tải chuyển bánh.

Tôi rẽ vào cửa hàng ngũ kim, tới quầy sơn, và đề nghị chú bán hàng lấy cho ba thùng sơn trắng.

-Chỉ còn hai thùng thôi.

Tôi quá ngạc nhiên nên không thể nói gì. Tại sao cửa hàng ngũ kim có thể hết sơn được nhỉ?

-Khoảng thứ hai tuần sau hàng sẽ về.

-Lấy cho cháu hai thùng vậy.

Tôi chắc là hai thùng không thể hoàn thành phía trước nhà. Tôi đưa cho chú 6 đôla và lấy lại tiền lẻ.

-Để chú xách giúp.

-Không, cháu làm được.

Tôi gồng mình xách hai thùng sơn, người như vẹo đi. Tôi kéo lê chúng ra lề đường, và nghe văng vẳng tiếng gào của đứa trẻ. May mắn là thị trấn khá yên tĩnh.

Bà Pop lại xuất hiện trước cửa hàng, hai mắt nhìn ngược xuôi các hướng. Tôi nấp sau một chiếc xe đang đỗ. Sau đó tôi phát hiện xe tải nhà mình ở hướng nam, rõ ràng đang di chuyển, trông rất đáng nghi. Cha thấy tôi và chạy tới điểm dừng bên đường. Lấy hết sức, tôi xách hai thùng sơn và chạy về phía xe tải. Cha nhảy xuống giúp tôi lên thùng xe và đón hai thùng sơn. Tôi thích ngồi phía sau, tránh xa thằng nhỏ nhà Latcher. Khi cha ngồi sau tay lái, nó lại kêu ư ử.

Xe lắc lư chuyển bánh và đứa bé chợt im lặng. Tôi hét to chào bà Pop khi ngang qua cửa hàng.

Libby đang ngồi cùng Gran và chờ đợi chúng tôi. Khi xe dừng lại, đứa bé bắt đầu gào. Cánh phụ nữ vội đưa nó vào bếp và dụ nó bằng món kem. Rất may, kem làm nó dịu bớt. Nó ngủ trong vòng tay người mẹ trẻ.

Kem đã có tác dụng khi tôi bị đau bụng. Cách chữa trị này là một bằng chứng rõ hơn đối với đứa bé nhà Chandler. Tôi thấy không thật sự yên tâm về chuyện này.