CHƯƠNG 3 Thứ Sáu
THỨC TỈNH
Tiếng thét của cô lại cất lên và Harry Hole bừng mở mắt.
Ánh nắng yếu ớt len lỏi qua tấm rèm đang nhè nhẹ đung đưa khi âm thanh chói tai của đoàn tàu điện chầm chậm chạy trên phố Pilestredet dần lùi xa. Harry gắng gượng xác định lại vị trí của bản thân ngay lúc này. Anh đang nằm trên sàn phòng khách chính nhà mình. Quần áo vẫn còn nguyên, dù không chỉn chu lắm. Vẫn ở miền đất sống, dù không thực sự còn sức sống.
Mồ hôi xăm xắp trên mặt anh hệt như lớp trang điểm dính dớp, cảm giác tim nhẹ tênh nhưng thân thể nặng trịch, chẳng khác gì trái bóng bàn trên sàn bê tông. Đầu anh còn tệ hơn thế nhiều.
Harry do dự trong giây lát trước khi quyết định tiếp tục hít thở. Trần nhà và bốn bức tường quay mòng mòng, cả căn hộ không có tranh ảnh hay chiếc đèn trần nào để mắt anh có thể lấy đó làm điểm tựa. Những thứ phụ kiện duy nhất đang quay cuồng trong tầm mắt của anh chính là cái giá sách hiệu IKEA, lưng một chiếc ghế và cái bàn uống nước màu xanh lục mua ở Elevator. Nhưng ít nhất anh đã thoát được khỏi cơn mơ.
Vẫn là cơn ác mộng cũ. Chịu cảnh chôn chân tại chỗ, không sao nhúc nhích nổi, anh đã cố nhắm mắt trong tuyệt vọng để khỏi phải trông thấy miệng cô, cái miệng méo mó đang mở lớn trong tiếng thét câm lặng. Cặp mắt trợn tròn vô cảm đầy vẻ oán trách không lời. Khi anh còn trẻ, cô gái trong cơn ác mộng là hiện thân của Sis, em gái anh. Còn bây giờ người đó là Ellen Gjelten. Lúc đầu chỉ có những tiếng thét câm lặng, nay chúng lại hóa thành âm thanh như tiếng phanh xe bằng thép rít lên the thé. Anh không biết trường hợp nào mới là tồi tệ hơn.
Harry bất động nằm đó, đăm đăm nhìn qua khe hở ở giữa những tấm rèm, hướng ánh mắt về phía mặt trời tỏa nắng lung linh trên những con phố và sân sau những ngôi nhà trên đường Bislett. Chỉ còn tiếng tàu điện là âm thanh duy nhất phá vỡ sự tĩnh lặng của ngày hè. Thậm chí anh chẳng thèm chớp mắt. Cứ nhìn chằm chằm vầng mặt trời cho tới khi nó hóa thành một trái tim bằng vàng rung lên từng nhịp đập, được bọc trong lớp màng mỏng màu xanh dương nhạt, đưa hơi nóng lan tỏa đi muôn nơi. Hồi anh còn nhỏ, mẹ anh từng bảo rằng trẻ con nhìn thẳng vào mặt trời là mắt sẽ bị thiêu cháy ngay, trong đầu chỉ toàn ánh nắng và sẽ mãi như thế cho đến cuối ngày lẫn cuối đời. Ánh nắng trong đầu ấy sẽ lấn át tất cả những thứ khác trong tâm trí. Giống như hình ảnh sọ của Ellen bị đập vỡ trên nền tuyết gần sông Akerselva với một hình bóng thấp thoáng đứng bên trên. Đã ba năm nay anh miệt mài săn tìm cái bóng ấy. Nhưng đến giờ vẫn chưa bắt được nó.
Rakel…
Harry thận trọng nhỏm đầu dậy, nhìn con mắt đen ngòm vô hồn của máy trả lời tự động. Cái máy không còn sự sống chẳng rõ đã bao nhiêu tuần nay, kể từ sau buổi gặp mặt ở quán Boxer giữa anh và người đứng đầu Kripos, cơ quan điều tra tội phạm của Na Uy. Mà có thể nó cũng đã bị mặt trời thiêu cháy rồi.
Chết tiệt, trong này nóng thế không biết!
Rakel…
Giờ anh nhớ ra rồi. Trong mơ, đã có lúc khuôn mặt đó hóa thành mặt Rakel. Sis, Ellen, mẹ anh, Rakel. Những khuôn mặt phụ nữ. Cứ như chỉ trong một nhịp đập không ngừng, chúng có thể biến đổi rồi hòa vào nhau như cũ vậy.
Harry rên lên một tiếng và lại ngả đầu xuống sàn. Anh nhác thấy cái chai đặt chênh vênh ở mép bàn phía trên. Jim Beam, sản xuất ở Clermont, tiểu bang Kentucky. Rượu trong chai đã hết. Tan biến, bốc hơi cả rồi. Rakel. Anh nhắm mắt. Chẳng còn lại gì nữa.
Anh không rõ lúc này là mấy giờ, chỉ biết là đã muộn. Hoặc vẫn còn sớm. Bất luận thế nào, thật sai lầm khi chọn lúc này để thức dậy. Hay nói chính xác hơn là, đi ngủ. Thời điểm này trong ngày nên dành để làm việc khác. Uống rượu chẳng hạn.
Harry ngồi dậy ở tư thế quỳ.
Có thứ gì đó đang rung lên trong túi quần anh. Giờ anh mới biết hóa ra chính nó đã đánh thức mình dậy. Một con ngài mắc kẹt và đang đập cánh trong tuyệt vọng. Anh thọc tay vào túi và lôi ra chiếc điện thoại di động.
Harry chậm rãi đi về phía phố St Hanshaugen. Cơn đau đầu đang dậy lên nhức nhối sau hai hốc mắt anh. Địa chỉ Møller cho anh chỉ cần đi bộ một đoạn ngắn là tới. Anh đã vã chút nước lên mặt, tìm thấy một giọt whisky trong tủ đồ bên dưới bồn rửa, sau đó rời khỏi nhà với hy vọng chuyến tản bộ sẽ giúp đầu óc mình tỉnh táo lại. Harry đi qua quán Underwater: mở cửa từ bốn giờ chiều tới ba giờ sáng, riêng thứ Hai là từ bốn giờ chiều tới một giờ sáng và nghỉ Chủ nhật. Nơi này không phải chốn anh thường xuyên lui tới, vì quán quen của anh, Schrøder, nằm ngay phố bên cạnh, nhưng cũng như phần lớn những tay bợm nhậu khác, Harry luôn dành một chỗ trong đầu để tự động lưu giữ giờ mở cửa của các quán rượu.
Anh mỉm cười với hình ảnh phản chiếu của mình trong những ô cửa sổ đầy bụi bẩn. Hẹn lúc khác nhé.
Đến góc đường, anh rẽ phải, xuôi theo phố Ullevålsveien. Harry không thích đi bộ ở Ullevålsveien. Con phố này toàn xe cộ, không dành cho khách bộ hành. Điều tốt đẹp nhất ở Ullevålsveien đối với anh là vỉa hè phía bên phải mang đến chút bóng râm trong những ngày như thế này.
Harry dừng chân trước số nhà được bảo, liếc nhanh tổng thể ngôi nhà một lượt.
Tầng trệt là tiệm giặt với những cái máy giặt màu đỏ. Tờ giấy dán ở cửa sổ có ghi giờ mở cửa là từ tám đến hai mươi mốt giờ hằng ngày và có dịch vụ giặt khô trong vòng hai mươi phút với giá ưu đãi ba mươi krone. Một người phụ nữ quàng khăn với nước da sẫm màu đang ngồi bên cạnh cái lồng giặt quay tròn, mắt nhìn xa xăm. Cạnh tiệm giặt có cửa hiệu bán bia mộ, sâu bên trong là tấm biển neon màu xanh lục đề chữ QUÁN KEBAB treo trên cửa hàng ăn uống kiêm cửa hàng tạp hóa. Harry nhìn lướt qua mặt tiền nhếch nhác của ngôi nhà. Lớp sơn trên ô cửa sổ cũ đã rạn nhưng cửa sổ ở mái cho thấy tầng áp mái mới được chuyển đổi thành phòng ở phía trên bốn tầng nhà nguyên bản. Một chiếc camera gắn trên hệ thống điện thoại nội bộ mới lắp bên cạnh cánh cổng sắt han gỉ. Dòng tiền của khu Tây Oslo đang chảy về khu Đông theo kiểu chậm mà chắc. Harry nhấn chuông cửa trên cùng, cạnh cái tên Camilla Loen.
“Ai đấy?” tiếng nói trong loa vang lên.
Dẫu đã được Møller báo trước mà anh vẫn cứ sửng sốt như thường khi nghe thấy giọng của Tom Waaler.
Harry gắng gượng đáp, nhưng không thể vắt ra được một thanh âm nào từ dây thanh quản của mình. Sau khi ho hắng, anh thử lại lần nữa.
“Hole đây. Mở cửa đi.”
Tiếng rung rì rì vang lên và anh cầm lấy cái tay nắm cửa bằng sắt đen sì, thô lạnh.
“Chào anh.”
Harry ngoái lại.
“Chào Beate.”
Beate Lønn chỉ cao dưới trung bình một chút, với mái tóc vàng sậm và đôi mắt xanh dương, trông không hẳn ưa nhìn nhưng chẳng đến nỗi xấu. Nói tóm lại, ở Beate Lønn không có điểm nào nổi bật, ngoại trừ trang phục. Cô đang mặc bộ đồ bảo hộ màu trắng trông hơi giống trang phục của phi hành gia.
Harry giữ cửa mở để cô mang hai chiếc hộp kim loại cỡ lớn vào trong.
“Cô vừa đến à?”
Anh cố gắng không phả hơi thở vào cô khi cô đi ngang qua.
“Không. Tôi xuống lấy nốt đồ trong xe thôi. Bọn tôi đến được nửa tiếng rồi. Anh va vào đâu à?”
Harry xoa ngón tay lên vết máu đóng vảy trên mũi.
“Chắc vậy.”
Anh theo cô đi qua cánh cửa thứ hai, dẫn lên cầu thang.
“Trên ấy thế nào?”
Beate đặt hai cái hộp trước cửa thang máy màu xanh lục, mắt vẫn ngước nhìn anh.
“Tôi tưởng một trong những nguyên tắc của anh là quan sát trước rồi mới đặt câu hỏi,” cô nói và nhấn nút thang máy.
Harry gật. Beate Lønn nằm trong nhóm người có khả năng ghi nhớ mọi thứ trên đời. Cô có thể kể vanh vách chi tiết trong hồ sơ những vụ án mà anh đã quên từ lâu, những vụ xảy ra từ trước cả khi cô vào Học viện Cảnh sát. Ngoài ra, cô còn sở hữu hồi hình thoi đặc biệt phát triển, đó là bộ phận của não có chức năng ghi nhớ khuôn mặt. Cô đã đi kiểm tra và khiến các bác sĩ tâm lý vô cùng kinh ngạc. Thật xui cho anh khi cô vẫn nhớ những kỹ năng nhỏ mà anh từng chỉ dạy cho cô hồi hai người cộng tác điều tra một loạt vụ cướp ngân hàng càn quét khắp Oslo năm ngoái.
“Tôi muốn giữ đầu óc công minh nhất có thể trong lần đầu tiên có mặt tại hiện trường, đúng vậy,” Harry nói và giật bắn mình khi thang máy đột ngột chạy. Anh bắt đầu lục các túi để tìm thuốc lá. “Nhưng chắc tôi sẽ không nhận vụ này đâu.”
“Sao thế?”
Harry không trả lời. Anh rút từ trong túi quần bên trái ra bao Camel nhàu nát và rút ra một điếu thuốc nhăn nhúm.
“À phải, giờ tôi nhớ ra rồi,” Beate mỉm cười. “Hồi mùa xuân anh có kể là anh định đi nghỉ một chuyến. Đến Normandy đúng không nhỉ? Nhất anh đấy…”
Harry đưa điếu thuốc lên môi. Nó có vị thật kinh khủng. Đã vậy còn gần như vô dụng với cơn đau đầu của anh. Chỉ có một thứ giúp được anh thôi. Anh nhìn đồng hồ đeo tay. Các ngày thứ Hai, từ bốn giờ chiều đến một giờ sáng.
“Sẽ chẳng có Normandy nào cả,” anh đáp.
“Ồ?”
“Đúng vậy, thế nên đó không phải lý do. Mà lý do là vì hắn phụ trách vụ này.”
Harry rít một hơi thuốc dài và hất đầu lên tầng trên.
Cô nhìn anh thật lâu, cái nhìn đầy nghiêm khắc. “Cẩn thận, đừng để anh ta trở thành nỗi ám ảnh. Bỏ qua đi.”
“Bỏ qua ư?” Harry phả ra một bụm khói. “Hắn là kẻ hại người, Beate ạ. Cô biết mà.”
Mặt cô đỏ ửng lên. “Giữa Tom và tôi chẳng qua chỉ là cuộc tình gió thoảng thôi, Harry.”
“Chẳng phải có lần cô xuất hiện với cái cổ bầm tím đó sao?”
“Harry! Tom không bao giờ…”
Beate im bặt khi nhận ra mình đang cao giọng. Tiếng nói vọng lên lồng cầu thang nhưng bị nhấn chìm lúc thang máy dừng lại trước mặt họ với một tiếng thình trầm đục và đanh gọn.
“Anh không ưa anh ta,” cô nói. “Vì thế anh mới tưởng tượng ra đủ thứ chuyện. Thực sự thì Tom cũng có một số ưu điểm mà anh chưa biết đây thôi.”
“Ừmm.”
Harry dụi điếu thuốc lên tường trong lúc Beate mở cửa thang máy và bước vào.
“Anh không định lên à?” cô hỏi, nhìn Harry vẫn đứng ì ra ở bên ngoài, mắt dán vào thứ gì đó. Cái thang máy. Bên trong thang có một cánh cửa trượt, loại cửa mắt cáo bằng sắt đơn giản mà người dùng phải kéo ra rồi đóng lại để thang máy vận hành. Lại là tiếng thét ấy. Tiếng thét không lời. Harry cảm thấy mồ hôi đang túa ra khắp người. Một ngụm whisky thôi không đủ. Còn khuya mới đủ.
“Có vấn đề gì sao?” Beate hỏi.
“Không có,” Harry trả lời bằng giọng khàn đặc. “Chỉ là tôi không thích dùng loại thang máy cổ lỗ sĩ này thôi. Tôi sẽ đi cầu thang bộ.”