← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 4 Thứ Sáu
SỐ LIỆU

Ngôi nhà quả nhiên có đến hai căn hộ ở trên tầng áp mái. Cửa ra vào một căn đang để ngỏ nhưng bị hạn chế ra vào bởi dải băng màu vàng của cảnh sát. Harry cúi người để thân hình cao 1m92 của anh chui lọt qua dải băng, sau đó anh vội tiến thêm một bước để lấy lại thăng bằng khi sang đến bên kia. Anh đang đứng ở chính giữa căn phòng có sàn ốp gỗ sồi, trần phòng dốc và mấy ô cửa sổ đầu hồi. Trong này ấm áp như thể phòng tắm vậy. Căn hộ có diện tích nhỏ và được bài trí theo phong cách tối giản, tương tự như nhà anh, nhưng nét tương đồng giữa chúng chỉ dừng lại ở đó. Căn hộ này có một bộ sofa hiệu Hilmers Hus đời mới nhất, bàn uống nước của r.o.o.m. và chiếc ti vi Philips cỡ nhỏ khoảng mười lăm inch với lớp vỏ nhựa trong suốt màu xanh dương nhạt rất ăn nhập với hệ thống loa stereo. Harry đứng ở cửa ngó qua phòng bếp và phòng ngủ. Tất cả chỉ có bấy nhiêu thôi. Nơi đây yên ắng đến lạ kỳ. Một sĩ quan cảnh sát mặc đồng phục đang đứng khoanh tay ở cửa bếp, nhấp nhỉnh gót chân. Người nhễ nhại mồ hôi, anh ta nhìn Harry bằng cặp mắt dò xét dưới hai hàng lông mày đang nhướn lên. Viên sĩ quan lắc lắc đầu và nhếch miệng cười khẩy khi Harry chìa thẻ cảnh sát cho anh ta.

Hóa ra con khỉ này ai cũng biết, Harry thầm nghĩ. Còn con khỉ kia thì chẳng biết ai cả. Anh đưa tay xoa mặt.

“Đội Khám nghiệm Hiện trường đâu?”

“Trong phòng tắm,” viên sĩ quan đáp và hất hàm về phía đó. “Có Lønn và Weber.”

“Weber ư? Giờ cả người về hưu cũng bị gọi đi làm à?”

Viên cảnh sát nhún vai. “Thì đang kỳ nghỉ mà.”

Harry đưa mắt nhìn quanh một vòng.

“Được rồi, ừm, anh đi phong tỏa cổng chính và cửa ra vào đi. Nơi này kẻ ra người vào khá tùy tiện.”

“Nhưng…”

“Nghe này. Tất cả những chỗ đó đều là hiện trường án mạng. Hiểu chứ?”

“Tôi hiểu,” anh ta đáp bằng giọng hơi đanh lại, vậy là Harry nhận ra rằng chỉ bằng hai câu ngắn ngủi, anh đã kịp kết nạp thêm cho mình một kẻ thù nữa trong số các đồng nghiệp. Dòng người ấy bây giờ đã dài đến mấy dặm rồi.

“Nhưng tôi đã được giao chỉ thị rất rõ…” viên cảnh sát nói tiếp.

“… là phải để mắt đến mọi việc xảy ra tại đây,” một giọng nói khác cất lên từ trong phòng ngủ.

Tom Waaler xuất hiện ở ngưỡng cửa.

Dù anh ta đang khoác trên mình một bộ vét tối màu, nhưng chẳng có lấy giọt mồ hôi nào rịn ra ở đường chân tóc đen dày của anh ta cả. Tom Waaler là một gã ưa nhìn. Có lẽ không phải típ người quyến rũ, nhưng các đường nét cơ thể của anh ta đều cân đối và hài hòa. Anh ta không cao bằng Harry, song nhiều người lại không thấy vậy. Có lẽ là vì dáng người Waaler luôn thẳng tắp. Hoặc là nhờ thần thái tự tin toát ra từ anh ta dù chẳng tốn chút công sức nào. Phần lớn đồng nghiệp không chỉ bị ấn tượng mà còn cảm thấy sự điềm tĩnh của Waaler đã ảnh hưởng tới mình, khiến họ trở nên thoải mái và cư xử tự nhiên hơn. Ấn tượng ưa nhìn cũng toát lên từ vóc dáng hình thể của anh ta - chẳng bộ vét nào có thể che giấu được thành quả của việc luyện tập karate và nâng tạ năm ngày mỗi tuần cả.

“Và anh ta vẫn sẽ tiếp tục để mắt đến mọi việc,” Waaler nói. “Tôi vừa cử người đi thang máy xuống dưới nhà để phong tỏa nốt những vị trí cần thiết rồi. Mọi việc đã đâu vào đó, Hole ạ.”

Câu cuối được thốt ra bằng ngữ điệu đều đều đến nỗi chẳng rõ đó là câu hỏi hay trần thuật. Harry hắng giọng.

“Cô ta đâu?”

“Trong này.”

Waaler vờ tỏ ra lo lắng khi anh ta dịch sang một bên để nhường lối cho Harry.

“Va vào đâu à, Hole?”

Phòng ngủ được bài trí đơn giản song vẫn toát lên sự tinh tế xen lẫn chút lãng mạn. Chiếc giường chăn đơn gối chiếc - nhưng đủ rộng cho hai người nằm - được đẩy sát vào cây cột chống có khắc hình thù gì đó giống như hình tam giác lồng trong một trái tim. Chắc là dấu ấn của tình nhân, Harry nghĩ thầm. Trên đầu giường có treo ba khung ảnh đàn ông khỏa thân, trong tư thế khêu gợi một cách có chừng mực, thuộc loại trung gian giữa khiêu dâm dạng nhẹ và nghệ thuật tế nhị. Theo như những gì anh thấy thì căn phòng này chẳng có ảnh hoặc vật dụng riêng tư gì cả.

Phòng tắm được tích hợp ngay trong phòng ngủ. Nó chỉ đủ rộng để chứa được chậu rửa, bồn cầu, vòi hoa sen không có rèm che và Camilla Loen. Cô ta nằm trên sàn lát gạch vuông, mặt quay về phía cửa và ngước lên nhìn vòi sen như thể đang chờ nước chảy tiếp.

Thi thể lõa lồ bên dưới chiếc áo choàng tắm màu trắng ướt nhẹp, mở toang và che lấp cả miệng phễu thoát nước. Beate đang đứng chụp ảnh ở ngưỡng cửa.

“Đã ai kiểm tra xem cô ta chết được bao lâu chưa?”

“Chuyên gia pháp y đang trên đường tới đây,” Beate đáp. “Nhưng thi thể vẫn chưa bị co cứng và lạnh hẳn. Tôi đoán cùng lắm mới chỉ vài giờ thôi.”

“Vòi sen vẫn đang mở lúc anh chàng hàng xóm và người quản lý nhà tìm thấy cô ta đúng không?”

“Đúng.”

“Có lẽ nước nóng đã duy trì thân nhiệt của cô ta và làm chậm quá trình co cứng tử thi.”

Harry xem đồng hồ đeo tay: sáu giờ mười lăm phút.

“Cứ cho rằng cô ta chết vào lúc năm giờ đi.”

Giọng nói đó là của Waaler.

“Tại sao?” Harry hỏi mà không buồn ngoái lại.

“Không có dấu hiệu nào cho thấy thi thể bị dịch chuyển, bởi vậy có thể phỏng đoán là cô ta bị giết lúc đang tắm. Như anh có thể thấy đấy, xác cô ta và chiếc áo choàng đã chặn mất miệng phễu thoát nước, vì thế căn phòng mới bị ngập. Chính người quản lý đã tắt vòi sen và cho biết lúc ông ta đến thì vòi đang mở hết cỡ, tôi cũng đã kiểm tra áp lực nước rồi. Khá mạnh cho một căn hộ áp mái thế này đấy. Phòng tắm quá nhỏ nên cùng lắm chỉ vài phút sau là nước đã có thể tràn qua ngưỡng cửa và lan vào phòng ngủ. Và rồi chẳng mấy chốc, nước sẽ chảy xuống căn hộ tầng dưới. Người phụ nữ sống dưới đó nói rằng cô ta phát hiện nhà mình bị dột đúng vào lúc năm giờ hai mươi phút.”

“Vậy là mới một tiếng đồng hồ trước,” Harry nói. “Và anh đã ở đây được nửa tiếng rồi kia đấy. Xem ra mọi người có mặt nhanh chóng đến bất thường.”

“Ừm, không phải mọi người đều thế đâu,” Waaler nói.

Harry im lặng không đáp.

“Ý tôi muốn nói đến chuyên gia pháp y kia,” Waaler mỉm cười. “Đáng lẽ giờ này ông ta phải đến rồi chứ.”

Beate đã hoàn tất việc chụp ảnh và trao đổi ánh mắt với Harry.

Waaler chạm vào cánh tay cô.

“Có vấn đề gì thì gọi tôi nhé. Tôi xuống tầng hai nói chuyện với người quản lý.”

“Được thôi.”

Harry chờ cho đến khi Waaler đi khuất rồi mới nói.

“Tôi xin phép nhé…?”

Beate gật đầu và tránh sang một bên.

Đôi giày của anh lội bì bõm trên sàn phòng ướt sũng. Hơi nước ngưng tụ phủ khắp các bề mặt trong phòng và đang chảy thành dòng. Tấm gương trông như đang khóc than. Harry ngồi thụp xuống và phải vịn vào tường cho khỏi ngã. Anh hít một hơi qua đằng mũi nhưng chỉ ngửi thấy mùi xà phòng, ngoài ra không phát hiện được bất cứ mùi gì khác mà anh biết chắc chắn đang hiện diện ở đây. Theo như những gì đọc được trong cuốn sách mượn của Aune, chuyên gia tâm lý thực tập thuộc Đội Hình sự, thì anh mắc chứng rối loạn khứu giác. Một hội chứng mà não bộ từ chối nhận biết một số mùi, sách viết vậy; thường là kết quả của sang chấn tâm lý. Harry không chắc lắm về điều đó. Anh chỉ biết là mình không thể ngửi thấy mùi tử thi mà thôi.

Camilla Loen vẫn còn trẻ. Harry áng chừng cô ta chỉ khoảng hai mươi bảy đến ba mươi tuổi. Ưa nhìn. Thân hình đầy đặn. Cô ta có làn da rám nắng và mịn màng nhưng bên dưới nước da ấy đã bắt đầu hiện lên sắc nhợt nhạt vốn xuất hiện rất nhanh ở người chết. Tóc cô ta sẫm màu nhưng dĩ nhiên sẽ sáng hơn khi khô lại, cái lỗ nhỏ trên trán rồi sẽ chẳng mấy chốc mà biến mất khi người trang điểm tử thi hoàn tất phần việc của mình. Và công việc đó chắc cũng không vất vả cho lắm, chỉ cần hóa trang đôi chút để che đi thứ trông như vết sưng ở mắt phải của cô ta thôi.

Harry tập trung quan sát cái lỗ tròn màu đen trên trán nạn nhân. Nó chẳng to hơn lỗ trên đồng xu một krone là mấy. Anh luôn cảm thấy thật khó tin khi những cái lỗ nhỏ xíu nhường ấy lại có thể cướp đi sinh mạng của một người. Đôi khi chúng còn dễ bị nhầm lẫn vì da trên miệng vết thương dần khép lại. Harry cho rằng với trường hợp này, viên đạn có kích thước lớn hơn cái lỗ nó để lại.

“Tiếc là xác bị ngâm trong nước,” Beate nói. “Chứ nếu không, biết đâu chúng ta có thể tìm được dấu vân tay, vài sợi vải hoặc ADN hung thủ để lại trên người cô ta.”

“Ừm. Nhưng dù sao trán cô ta cũng ở vị trí cao hơn so với mặt nước, và không bị dính quá nhiều nước trong lúc tắm.”

“Vậy sao?”

“Chỗ đầu đạn đi vào có máu đen khô lại. Trên da cũng có những vết bỏng do súng bắn. Có lẽ cái lỗ nhỏ kia sẽ tiết lộ cho chúng ta đôi điều ngay lúc này luôn đấy. Cô có kính lúp không?”

Mắt vẫn không rời Camilla Loen, Harry chìa tay ra, cảm thấy sức nặng rắn chắc từ dụng cụ quang học của Đức trên tay mình và bắt đầu quan sát vùng da quanh vết thương.

“Anh phát hiện được gì rồi?”

Giọng Beate khe khẽ vang lên sát bên tai anh. Cô vốn luôn là người ham học hỏi. Harry biết rằng không lâu nữa, anh sẽ chẳng còn gì để chỉ dạy cho cô.

“Từ màu xám của vết bỏng có thể suy đoán viên đạn được bắn ra từ khoảng cách gần, nhưng không phải phát bắn thẳng,” anh nói. “Tôi đoán cự li bắn là khoảng nửa mét.”

“Phải rồi.”

“Vết bỏng không cân xứng cho thấy hung thủ cao hơn nạn nhân, và hắn đã chúc họng súng xuống khi bắn.”

Harry thận trọng xoay đầu người chết lại. Trán cô ta vẫn chưa lạnh hẳn.

“Không có vết thương đầu ra,” anh nói. “Điều đó củng cố cho giả thuyết đường đạn bắn xiên từ trên xuống. Có thể lúc ấy cô ta đang quỳ gối trước mặt hung thủ.”

“Anh có xác định được là loại súng nào không?”

Harry lắc đầu. “Việc đó thì phải hỏi chuyên gia pháp y, và mấy cậu bên đạn đạo. Nhưng màu sắc của những vết bỏng biến đổi từ đậm sang nhạt, có thể là do một loại vũ khí nòng ngắn gây ra, như súng ngắn chẳng hạn.”

Harry chăm chú quan sát thi thể một lượt; dù anh cố gắng nắm bắt được tất cả, nhưng cảm giác váng vất cơn say để lại đang tước mất những chi tiết hữu ích anh có thể dùng đến. Không, là bọn họ có thể dùng đến mới đúng. Đây đâu phải vụ án của anh. Khi nhìn đến bàn tay, anh chợt phát hiện ở đó đang khuyết mất một phần.

“Vịt Donald,” anh khẽ lẩm nhẩm và cúi thấp hơn.

Beate nhìn anh ngơ ngác.

“Các họa sĩ truyện tranh hay vẽ theo kiểu này,” Harry nói. “Bàn tay bốn ngón.”

“Tôi có đọc truyện tranh đâu.”

Ngón tay trỏ đã bị chặt mất. Tất cả những gì còn lại chỉ là những sợi máu đông đen sì và đầu gân óng ánh. Vết cắt có vẻ bằng phẳng và rất ngọt. Harry dè dặt chạm đầu ngón tay lên vùng màu trắng sáng bóng nằm giữa lớp thịt hồng hào. Đoạn xương bị chặt đứt có bề mặt nhẵn nhụi và thẳng thớm.

“Hẳn là do kìm,” anh nói. “Hoặc lưỡi dao cực sắc. Đã tìm thấy ngón tay chưa?”

“Chưa.”

Cảm giác nôn nao bất chợt dậy lên, Harry nhắm mắt lại. Anh hít thở sâu vài lần. Sau đó anh mở mắt ra. Ngón tay nạn nhân có thể bị lấy mất vì rất nhiều nguyên nhân. Không có lý do gì để suy luận theo những chiều hướng mà anh vừa có cả.

“Có thể là kẻ tống tiền,” Beate nói. “Bọn này hay dùng kìm.”

“Ừ, cũng có thể,” Harry lẩm bẩm, khi đứng dậy anh phát hiện ra hai khoảng trắng dưới đế giày của chính mình trên mặt sàn gạch mà anh cứ ngỡ là màu hồng. Beate cúi xuống nhìn kỹ khuôn mặt người chết.

“Cô ta chảy nhiều máu quá.”

“Vì bàn tay cô ta bị ngâm trong nước mà,” Harry nói. “Nước khiến máu không đông lại được.”

“Mất ngần ấy máu chỉ vì một ngón tay bị chặt ư?”

“Phải. Và cô biết chi tiết đó nói lên điều gì không?”

“Không, nhưng tôi có cảm giác mình sẽ biết ngay thôi.”

“Điều đó có nghĩa, ngón tay Camilla Loen có thể đã bị chặt trong khi tim vẫn đang còn đập. Nói cách khác là trước khi cô ta bị bắn chết.”

Beate nhăn mặt.

“Tôi xuống nói chuyện với mấy người ở tầng dưới đây,” Harry nói.

“Camilla sống ở đây từ trước khi chúng tôi chuyển đến,” Vibeke Knutsen nói, mắt liếc nhanh về phía bạn trai. “Chúng tôi không mấy khi qua lại với cô ta.”

Bọn họ ngồi cùng Harry trong phòng khách ở tầng bốn, ngay dưới căn hộ áp mái. Người ngoài nhìn vào dễ tưởng Harry mới là chủ nhân của nó mất. Đôi nam nữ ngồi ngay ngắn trên mép sofa, trong khi cả người Harry lún sâu trên một trong mấy chiếc ghế bành.

Harry nhận thấy cặp đôi này có gì đó thật lạ lùng. Cả hai đều đã đâu đó ngoài ba mươi, nhưng Anders Nygård có dáng người thon gọn, săn chắc như vận động viên marathon. Anh ta mặc chiếc sơ mi xanh dương nhạt mới ủi, mái tóc cắt ngắn gọn gàng. Cặp môi mỏng, ngôn ngữ cử chỉ lộ vẻ bất an. Dẫu khuôn mặt có vẻ thành thật và trẻ con, thậm chí gần như ngây thơ, thì ở anh ta vẫn toát ra phong thái của một con người khổ hạnh, khắc kỷ. Cô nàng Vibeke Knutsen tóc đỏ có hai lúm đồng tiền lõm sâu, thân hình với những đường cong bốc lửa được tôn lên nhờ chiếc áo bó sát in họa tiết da báo. Diện mạo của cô ta mang lại ấn tượng về một người phụ nữ ít nhiều đã nếm trải mùi đời. Những nếp nhăn quanh môi có lẽ là kết quả của việc hút thuốc triền miên, còn vết chân chim trên đôi mắt là dấu ấn của những cuộc vui bất tận.

“Cô ta làm nghề gì?” Harry hỏi.

Vibeke đưa mắt liếc bạn trai, nhưng khi thấy anh ta không nói gì, cô ta bèn đáp, “Theo tôi biết thì cô ta làm cho một công ty quảng cáo. Hoặc thiết kế. Hay đại loại thế.”

“Hay đại loại thế,” Harry nói, viết bừa vài dòng vào cuốn sổ tay trước mặt.

Đó là mánh khóe anh dùng khi thẩm vấn. Nếu không bị ai nhìn, đối tượng sẽ cư xử tự nhiên hơn. Còn nếu người thẩm vấn tạo ấn tượng cho thấy thông tin đối tượng cung cấp không thú vị cho lắm, họ sẽ cố nghĩ ra thông tin nào đó gây chú ý. Đáng lẽ anh nên làm nhà báo mới phải. Anh cảm thấy người đời thường dễ cảm thông hơn với những tay nhà báo vác bộ dạng say xỉn đi làm.

“Bạn trai thì sao?”

Vibeke lắc đầu.

“Người tình?”

Vibeke bật ra tiếng cười gượng gạo và quay mặt đi.

“Chúng tôi đâu rảnh mà đi hóng chuyện thiên hạ,” Anders Nygård nói. “Anh cho rằng thủ phạm là người tình ư?”

“Tôi không biết,” Harry đáp.

“Tôi có thể thấy là anh không biết thật.”

Harry nghe ra hàm ý bực bội trong giọng anh ta.

“Nhưng những người sống ở đây như chúng tôi đều muốn biết vụ việc này xuất phát từ ân oán cá nhân hay là liệu có kẻ sát nhân hàng loạt điên khùng nào đó đang lởn vởn quanh khu vực này không.”

“Có thể có kẻ sát nhân hàng loạt điên khùng nào đó đang lởn vởn quanh khu vực này đây,” Harry đáp, đặt bút xuống và chờ đợi.

Thấy Vibeke Knutsen giật mình thảng thốt, nhưng anh tập trung quan sát Anders Nygård.

Những người hoảng sợ thường dễ mất bình tĩnh hơn. Đó là điều anh học được hồi năm nhất ở Học viện Cảnh sát. Các sĩ quan tân binh cũng được dặn là không nên khiến đối tượng đang sợ hãi bị kích động một cách không cần thiết, nhưng Harry phát hiện ra rằng đi ngược lại lời khuyên đó sẽ cho hiệu quả tốt hơn nhiều. Cứ việc khiêu khích bọn họ. Khi nổi giận, người ta thường thốt ra những điều không chủ ý, hay nói đúng hơn là, những điều đáng lẽ không nên nói.

Anders Nygård chỉ nhìn anh bằng ánh mắt vô cảm.

“Nhưng nhiều khả năng hung thủ là người tình của nạn nhân,” Harry nói. “Người tình hoặc ai đó có quan hệ tình cảm với cô ta hoặc bị cô ta cự tuyệt.”

“Tại sao?” Anders Nygård quàng tay lên vai Vibeke.

Cử chỉ đó trông thật khôi hài vì tay anh ta ngắn tũn trong khi vai cô bạn gái thì rõ to.

Harry ngả người ra sau.

“Số liệu thống kê cho thấy thế. Tôi hút thuốc ở đây được chứ?”

“Chúng tôi đang cố gắng duy trì một môi trường không khói thuốc,” Anders Nygård đáp với một nụ cười nhạt.

Harry nhận thấy Vibeke cụp mắt xuống nhìn đúng lúc anh nhét lại bao thuốc vào túi quần.

“Anh nói số liệu thống kê cho thấy thế nghĩa là sao?” Anders Nygård hỏi. “Điều gì khiến anh nghĩ rằng những con số đó có thể áp dụng trong vụ này?”

“Ừm, trước khi trả lời hai thắc mắc của anh, xin hỏi anh có biết gì về thống kê không, anh Nygård? Chẳng hạn như phân phối Gauss, ý nghĩa thống kê, hay độ lệch chuẩn?”

“Không, nhưng tôi…”

“Cũng chẳng sao,” Harry ngắt lời. “Vì với vụ này, anh không cần phải biết gì cả. Những số liệu thống kê tội phạm thu thập được trên toàn thế giới trong hàng trăm năm qua đã chỉ ra một điều hết sức căn bản. Camilla là hình mẫu nạn nhân điển hình. Hoặc nếu không phải như vậy thì hung thủ là típ cho rằng cô ta nằm trong nhóm điển hình. Đó là đáp án cho câu hỏi thứ nhất. Câu thứ hai…”

Anders Nygård hừ mũi và buông vai Vibeke ra.

“Những lý luận của anh rõ là thiếu khoa học. Anh có biết gì về Camilla Loen đâu.”

“Đúng vậy,” Harry nói.

“Thế sao anh còn phát ngôn bừa?”

“Tại anh hỏi đấy chứ. Và nếu anh không còn thắc mắc nào nữa thì tôi xin phép được tiếp tục phần việc của mình?”

Nygård có vẻ muốn đáp lại câu gì đó, nhưng rồi anh ta lại đổi ý và cau có nhìn xuống bàn uống nước. Chẳng biết có nhầm không nhưng hình như Harry vừa thoáng thấy nụ cười bé xíu vẽ lên giữa hai bên lúm đồng tiền của Vibeke.

“Hai người có cho rằng Camilla Loen sử dụng ma túy không?” Harry nói.

Đầu Nygård ngẩng phắt lên. “Sao anh lại nghĩ thế?”

Harry nhắm mắt và chờ đợi.

“Không,” Vibeke đáp. Giọng nói dịu dàng và khe khẽ. “Chúng tôi không nghĩ vậy.”

Harry mở mắt ra và trao cho Vibeke nụ cười hàm ơn. Anders Nygård liếc cô ta bằng ánh nhìn có phần ngỡ ngàng.

“Cửa ra vào nhà cô ta không khóa, phải không?”

Anders Nygård gật đầu.

“Hai người không thấy điều đó thật lạ sao?” Harry hỏi.

“Không hẳn thế. Dù gì cô ta cũng đang ở nhà mà.”

“Ừm. Cửa căn hộ này có lắp một loại khóa đơn giản, và tôi nhận thấy cô” - anh hất đầu về phía Vibeke - “đã khóa lại sau khi tôi vào phòng.”

“Lúc này cô ấy đang có chút lo lắng,” Nygård nói và vỗ nhẹ lên đầu gối bạn gái.

“Oslo bây giờ không còn như xưa nữa,” Vibeke nói.

Ánh mắt cô ta và Harry giao nhau trong giây lát.

“Cô nói phải,” Harry nói. “Và xem ra Camilla Loen cũng nghĩ giống cô. Căn hộ của cô ta có lắp khóa đôi và xích an toàn ở mặt trong. Tôi cảm thấy cô ta không phải típ phụ nữ đi tắm mà không khóa cửa.”

Nygård nhún vai. “Biết đâu hung thủ đã phá khóa.”

Harry lắc đầu. “Trò đó chỉ có trên phim thôi.”

“Có thể có người đã rình sẵn ở trong nhà cô ta rồi,” Vibeke nói.

“Ai cơ?”

Harry im lặng chờ đợi. Sau khi cho rằng chẳng ai muốn phá vỡ bầu không khí im lặng này, anh đứng dậy.

“Chúng tôi sẽ cho mời hai người đến Sở để thẩm vấn. Còn tạm thời, xin cảm ơn hai người đã giúp đỡ.”

Khi ra đến hành lang, Harry bỗng ngoái lại.

“Nhân tiện cho tôi hỏi, ai là người đã báo cảnh sát?”

“Là tôi,” Vibeke nói. “Tôi gọi cho cảnh sát trong lúc Anders đi tìm người quản lý nhà.”

“Trước cả khi tìm thấy nạn nhân ư? Sao cô biết mà gọi…?”

“Có máu rơi vào trong nồi.”

“Ồ? Làm thế nào cô biết hay vậy?”

Anders Nygård thở hắt ra một cái rõ to vẻ cường điệu và áp tay lên cổ Vibeke: “Nó có màu đỏ chứ sao nữa.”

“Ừm,” Harry nói, “còn nhiều thứ khác cũng có màu đỏ chứ đâu riêng gì máu.”

“Đúng vậy,” Vibeke nói. “Nhưng tôi không chỉ căn cứ vào màu sắc.”

Anders Nygård ném cho cô ta ánh nhìn đầy sửng sốt. Vibeke mỉm cười, có điều Harry nhận thấy cô ta đã né người khỏi bàn tay bạn trai mình.

“Trước đây tôi sống cùng nhà với một đầu bếp, bọn tôi đã chung tay mở một quán ăn nhỏ. Nhờ vậy tôi học được đôi điều về thực phẩm. Một trong số đó là trong máu có chứa albumin, và nếu cho máu vào nồi nước nóng từ sáu mươi lăm độ trở lên, máu sẽ vón thành cục. Cũng giống như quả trứng luộc bị nứt vỏ vậy. Lúc Anders nếm thử mấy cục nhỏ nhỏ trong nồi nước và bảo chúng có vị như trứng, tôi biết ngay rằng đó là máu. Và có chuyện chẳng lành đã xảy ra.”

Miệng Anders Nygård há hốc. Sắc mặt anh ta đột nhiên tái nhợt dưới nước da rám nắng.

“Chúc ngon miệng,” Harry khẽ lẩm bẩm rồi quay người rời đi.