← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 5 Thứ Sáu
UNDERWATER

Harry vốn ghét những quán rượu theo chủ đề nào đó, chẳng hạn như: quán mang phong vị Ireland, quán “đã vào thì đừng mặc áo”, quán độc và lạ, nhưng tệ hại hơn hết thảy là kiểu quán “người nổi tiếng” với những bức tường treo đầy ảnh chân dung của khách quen là những nhân vật tiếng tăm nào đó. Quán Underwater là sự pha trộn mang hơi thở đại dương không mấy nổi bật của những món đồ lặn và vẻ lãng mạn của những con tàu gỗ cũ kỹ. Nhưng tới một lúc nào đó, sau khi đã nốc đến cốc bia thứ tư thì Harry chẳng buồn để tâm đến đám bể thủy sinh chứa thứ nước xanh biếc róc rách chảy, mấy cái mũ thợ lặn và phong cách bài trí mộc mạc với những vật dụng bằng gỗ kẽo cà kẽo kẹt ấy nữa. Nhưng thế này đã là gì. Lần trước đến đây, dân tình trong quán còn tự nhiên hò nhau hát ông ổng một tràng những ca khúc opera nổi tiếng; trong giây phút ngắn ngủi, anh cứ tưởng thể loại nhạc kịch cuối cùng cũng bắt kịp với thực tại. Anh đưa mắt nhìn quanh và thở phào nhận ra không ai trong bốn vị khách ở đây có vẻ gì là sắp cất giọng oanh vàng đến nơi.

“Mọi người đi nghỉ hết rồi à?” anh hỏi cô gái phục vụ quầy bar khi cô ta đặt cốc bia trước mặt anh.

“Mới bảy giờ thôi mà.” Cô ta trả lại anh tiền thừa của tờ một trăm krone dù trước đấy anh đưa cho cô ta tờ hai trăm.

Nếu được thì anh đã đến quán Schrøder rồi, nhưng theo như trí nhớ mơ hồ của mình thì hình như anh đã bị cấm cửa ở đó, mà anh lại chẳng có gan đến tận nơi xem có đúng vậy không. Không phải hôm nay. Trong anh chỉ là những mảnh ký ức rời rạc của sự việc nào đó xảy ra hôm thứ Ba. Hay là thứ Tư nhỉ? Có kẻ đã đào bới lại cái lần anh lên truyền hình và được tôn vinh là “Người hùng Cảnh sát Na Uy” vì bắn chết gã tội phạm có súng ở Sydney. Rồi gã nào đó xỉa xói anh mấy câu, gọi anh bằng những từ ngữ chẳng mấy tốt đẹp. Vài điều hắn nói cũng đúng lắm chứ bộ. Hai bên lời qua tiếng lại rồi kết thúc bằng nắm đấm chăng? Cũng không phải là không có khả năng, nhưng biết đâu vết thương trên đốt ngón tay và mũi mà anh phát hiện ra lúc tỉnh dậy rất có thể chỉ là do anh vấp ngã trên vỉa hè đá cuội ở phố Dovregata thôi.

Di động của Harry bỗng réo vang. Anh nhìn số máy chằm chằm và nhận thấy lần này người gọi vẫn không phải Rakel.

“Chào sếp.”

“Harry? Cậu đang ở đâu vậy?” Giọng Bjarne Møller có phần lo lắng.

“UnderwaterỞ dưới nước. Có chuyện gì thế sếp?”

“Nước ư?”

“Nước. Nước ngọt. Nước mặn. Nước tonic. Nghe giọng sếp có vẻ… Nói thế nào nhỉ? Có vẻ rệu rã quá.”

“Cậu say rượu đấy à?”

“Say thế chưa đủ đâu.”

“Cái gì?”

“Không có gì. Máy sắp hết pin rồi sếp ơi.”

“Một sĩ quan ở hiện trường đã đe dọa tố cáo cậu. Anh ta nói lúc đến nơi, trông cậu xỉn quắc cần câu.”

“Sao lại là ‘đã’ mà không phải là ‘đang’?”

“Tôi đã phải nói khéo để cậu ta thôi đấy. Có đúng là lúc đó cậu đang say rượu không, Harry?”

“Tất nhiên là không rồi, sếp.”

“Cậu thực sự chắc chắn mình đang nói sự thật chứ, Harry?”

“Sếp thực sự chắc chắn muốn biết chứ?”

Harry nghe thấy Møller rên lên một tiếng ở đầu dây bên kia.

“Không thể cứ như thế mãi được, Harry. Rồi tôi sẽ bị ép phải ngăn chuyện này tiếp diễn thôi.”

“Được. Vậy sếp bắt đầu bằng cách loại tôi ra khỏi vụ này đi.”

“Cái gì?”

“Sếp nghe rồi đấy. Tôi không muốn làm việc với tên khốn đó. Sếp cử người khác đi mà làm.”

“Bây giờ chúng ta không có đủ nhân sự…”

“Thế thì sếp cứ việc sa thải tôi. Tôi cóc quan tâm.”

Harry cất điện thoại vào túi áo trong. Anh nghe thấy giọng Møller khẽ rung lên nơi ngực mình. Thực ra, cảm giác ấy cũng khá dễ chịu. Anh uống cạn cốc bia rồi đứng dậy, lảo đảo bước ra ngoài không gian ấm áp của buổi tối mùa hè. Vẫy đến lần thứ ba mới có chiếc taxi trên phố Ullevålsveien chịu dừng lại đón anh.

“Đến Holmenkollveien,” anh nói, tựa cái gáy nhễ nhại mồ hôi lên lớp da bọc ghế mát rượi phía sau. Trong lúc xe chạy, anh đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ ngắm bầy chim én phá tan bầu trời xanh nhàn nhạt để bay đi tìm mồi. Lúc này lũ côn trùng đã bắt đầu bò ra khỏi tổ. Cánh cửa cơ hội đã mở ra với bầy én, cơ hội để chúng sinh tồn. Kể từ giờ cho tới lúc mặt trời lặn 3 .

Chiếc taxi đỗ lại dưới chân một ngôi nhà đồ sộ ốp gỗ tối màu.

“Tôi đánh xe lên nhà nhé?” người lái xe taxi nói.

“Đừng, cứ chờ ở đây một lát đi,” Harry đáp.

Anh ngước nhìn ngôi nhà. Hình như anh nhác thấy bóng Rakel ở cửa sổ. Chắc cũng sắp đến giờ Oleg đi ngủ rồi. Có lẽ lúc này nó đang nằng nặc đòi mẹ cho thức khuya hơn chút vì hôm nay là…

“Hôm nay là thứ Sáu đúng không nhỉ?”

Người tài xế taxi nghi hoặc liếc vào gương một cái rồi khẽ gật đầu.

Đã bao nhiêu ngày, bao nhiêu tuần trôi qua. Trời ạ, mấy cậu nhóc lớn nhanh quá đi mất. Harry xoa mặt, cố gắng mát xa để truyền chút sinh khí vào cái mặt nạ người chết nhờn nhợt một màu được anh tha đi muôn nơi. Mùa đông năm ngoái đâu đến nỗi nào. Anh không chỉ phá được vài vụ án tương đối tầm cỡ, xuất hiện với tư cách nhân chứng trong vụ sát hại Ellen Gjelten, mà còn tuyệt giao được với con ma men, mối quan hệ giữa anh và Rakel cũng chuyển từ mới yêu sang giai đoạn gắn bó như một gia đình. Và anh thích điều đó, thích những chuyến đi nghỉ cuối tuần với lũ trẻ bên cạnh. Harry là người phụ trách màn tiệc nướng. Anh thích mời bố anh và Sis ghé nhà dùng bữa vào Chủ nhật, thích nhìn cô em gái mắc hội chứng Down và cậu nhóc Oleg mới lên chín cùng nhau vui đùa. Điều tuyệt vời hơn cả là: tình yêu của họ đang độ thắm thiết nhất. Rakel thậm chí còn bắt đầu bóng gió về việc Harry có thể xem xét việc chuyển đến sống cùng hai mẹ con. Lý do cô đưa ra là ngôi nhà quá rộng mà lại chỉ có mỗi cô và Oleg ở. Harry chẳng tội gì mất công phản đối.

“Để anh giải quyết xong vụ Ellen Gjelten rồi mình tính tiếp nhé,” anh đã nói với cô như vậy. Chuyến du lịch Normandy mà họ đã đặt trước - ba tuần nghỉ ngơi ở một nông trại xưa và một tuần chu du sông nước - sẽ giống như phép thử để xem họ đã sẵn sàng cho việc đó hay chưa.

Nhưng rồi mọi chuyện xảy ra.

Harry đã dành trọn mấy tháng mùa đông để điều tra vụ án Ellen Gjelten. Anh làm việc cật lực, quá mức cật lực, nhưng đó là cách làm việc duy nhất anh từng biết. Ellen Gjelten không chỉ là cộng sự, mà còn là một người bạn thân thiết và tâm giao của anh. Đã ba năm trôi qua kể từ khi hai người sát cánh truy tìm tay buôn lậu vũ khí có mật danh Hoàng Tử, kể từ khi mạng sống của cô bị tước đoạt bởi một cây gậy bóng chày. Những bằng chứng thu thập được ở hiện trường gần sông Akerselva đều buộc tội Sverre Olsen, kẻ theo chủ nghĩa Quốc xã mới mà cảnh sát đã nhẵn mặt. Nhưng thật không may, họ không có cơ hội nghe lời khai của Olsen vì hắn đã bị bắn thủng sọ do được cho là đã nổ súng vào Tom Waaler trong quá trình bắt giữ. Bất luận thế nào, Harry vẫn tin rằng kẻ thực sự đứng sau vụ giết người là tên Hoàng Tử kia, và anh đã cố thuyết phục Møller cho phép mình được độc lập điều tra. Vì mang tính chất cá nhân, nên chuyện này đi ngược với mọi nguyên tắc của Đội Hình sự, nhưng Møller vẫn đồng ý để anh điều tra trong thời gian ngắn, coi như một phần thưởng cho những thành tích Harry đã đạt được trong những vụ án khác. Mùa đông vừa qua, cuối cùng tình hình cũng đã có tiến triển. Vào đêm xảy ra án mạng, có người đã trông thấy Sverre Olsen ngồi trong chiếc xe hơi màu đỏ cùng với một người nữa ở Grünerløkka, chỉ cách hiện trường vụ án vài trăm mét. Nhân chứng đó là Roy Kvinsvik, một cựu thành viên của chủ nghĩa Quốc xã mới đã có tiền án, gần đây từ giáo phái Tin Lành Ngũ tuần chuyển sang theo giáo phái Tin Lành Philadelphia. Kvinsvik không hẳn là một nhân chứng mẫu mực, tuy nhiên hắn đã xem rất lâu, rất kỹ tấm ảnh Harry đưa và nói, Đúng, đây chính là người hắn nhìn thấy ngồi cùng với Sverre trong xe. Người trong ảnh là Tom Waaler.

Dẫu đã nghi ngờ Waaler từ lâu mà Harry vẫn bị sốc khi nghe lời xác nhận. Chủ yếu vì điều đó đồng nghĩa với việc chắc chắn hắn còn nhiều chân rết ngầm trong nội bộ Sở. Hoàng Tử không thể hoạt động trên một mạng lưới rộng đến thế nếu không được giúp sức. Và ngược lại, như vậy cũng có nghĩa Harry không thể tin tưởng bất kỳ ai. Vậy là anh giữ kín những lời Roy Kvinsvik nói, vì anh biết mình sẽ chỉ có một cơ hội duy nhất, toàn bộ sự thật đen tối này phải được phanh phui một lần và mãi mãi. Và bằng mọi giá phải diệt cỏ tận gốc, nếu không làm được thì coi như anh chết chắc.

Đó là lý do bấy lâu nay Harry bắt đầu âm thầm thu thập những bằng chứng không thể chối cãi nhằm chống lại Waaler. Tuy nhiên, anh không biết có thể tin cậy ai để hỏi, vì thế việc điều tra thành ra khó khăn hơn nhiều so với dự tính. Anh bắt đầu lục lọi kho hồ sơ lưu trữ sau khi ai nấy đã ra về, khai thác mạng máy tính nội bộ, in ra những e-mail cùng danh sách các cuộc gọi đi và đến của những người anh biết là có mối liên hệ với Waaler. Chiều chiều anh đỗ xe gần đường Youngstorget và ngồi quan sát động tĩnh ở quán pizza Herbert. Giả thuyết Harry đưa ra là những phần tử Quốc xã mới thường xuyên ghé quán cũng tham gia vào đường dây buôn lậu vũ khí. Khi giả thuyết này không mang lại được manh mối nào, anh bắt đầu chuyển sang theo dõi Waaler cùng một số cộng sự của hắn. Harry tập trung vào những người mà anh biết là thường xuyên tiếp xúc với súng ở trường bắn tại Økern. Anh bám theo họ ở khoảng cách hợp lý, đỗ xe bên ngoài nhà họ, ngồi đó run rẩy vì lạnh trong khi họ đang ngon giấc trên giường, để rồi tận sáng tinh mơ hôm sau mới lết thân xác về nhà với Rakel, hoàn toàn rã rời. Sau khi chợp mắt được vài tiếng, anh lại dậy đi làm. Được một thời gian thì Rakel bảo anh về căn hộ của anh mà ngủ nếu hôm nào phải làm hai ca. Anh đã giấu cô việc mình làm đêm là không chính thức, không công, không thượng cấp nào biết, nói chung gần như cái gì cũng “không”.

Sau đó anh bắt đầu đổi sang chiến thuật “tay ngang”.

Đầu tiên, anh ghé quán pizza Herbert vào một buổi tối nọ, rồi hôm khác anh lại đến, tán gẫu với mấy gã, đãi họ vài chầu bia. Dĩ nhiên bọn họ thừa biết anh là ai, nhưng của trời cho tội gì không hưởng, họ uống bia, cười đùa và khóa kín miệng. Dần dần anh nhận ra những người này chẳng biết điều gì cả, nhưng anh vẫn tiếp tục quay lại quán, vì sao thì anh không rõ lắm, có lẽ là vì nó mang lại cho anh cảm giác mình đang từng bước đến gần với một thứ gì đó, như hang rắn chẳng hạn. Tất cả những gì cần làm là kiên nhẫn, cứ chờ rồi thế nào rắn cũng bò ra. Ấy vậy mà chờ mãi cũng chẳng thấy Waaler hay tên đồng bọn nào lộ diện. Thế là anh lại quay về tiếp tục theo dõi bên ngoài tòa nhà Waaler ở.

Một đêm nọ, nhiệt độ xuống tới âm hai mươi độ, phố xá vắng tanh, có một người đàn ông mặc chiếc áo khoác mỏng dáng ngắn đi về hướng anh đỗ xe với bộ dạng lảo đảo đặc trưng của con nghiện. Gã dừng lại trước cổng chính tòa chung cư của Waaler, nhìn trái nhìn phải một lượt rồi dùng xà beng phá khóa. Harry ngồi đó quan sát, biết rõ mình mà can thiệp thì thể nào cũng bị lộ. Gã nghiện chắc là đang phê nặng nên không đặt nổi xà beng đúng vị trí, lúc gã ấn xuống thì một miếng gỗ lớn trên cửa bật tung ra với tiếng vỡ đánh rắc. Và rồi, gã ngã ngửa ra sau, đè lên đống tuyết trước tòa nhà. Và gã cứ nằm ngay đơ ở đó. Vài ô cửa sổ chợt sáng đèn. Tấm rèm ở căn hộ của Waaler lay động. Harry âm thầm chờ đợi. Chẳng có gì xảy ra. Âm hai mươi độ. Đèn nhà Waaler vẫn sáng. Gã nghiện không động đậy. Sau này nghĩ lại, Harry thường tự hỏi lúc đó mình nên làm cái quái gì mới phải. Pin điện thoại di động không hoạt động được ở nhiệt độ quá thấp, vì thế anh không thể gọi cứu thương. Anh tiếp tục đợi. Thời gian chậm chạp trôi đi. Tên nghiện chết tiệt. Âm hai mươi mốt độ. Tên nghiện khốn kiếp. Dĩ nhiên Harry có thể lái xe đến phòng cứu thương để thông báo tình trạng của anh ta. Bỗng có động tĩnh ở cổng. Thì ra là Waaler. Trông bộ dạng anh ta thật khôi hài trong bộ áo choàng ngủ, chân đi bốt, đầu đội mũ, tay đeo găng. Anh ta ôm hai cái chăn len. Harry không sao tin nổi vào mắt mình khi thấy Waaler kiểm tra mạch và đồng tử của gã nghiện rồi đắp chăn tử tế cho gã. Waaler đứng đó không ngừng khua khoắng hai cánh tay để giữ ấm và nheo mắt nhìn về phía chiếc xe của Harry. Mấy phút sau, xe cứu thương đỗ xịch trước tòa chung cư.

Đêm hôm ấy, Harry trở về nhà, thả mình xuống ghế bành có tựa lưng cao, châm một điếu thuốc và nghe nhạc của Raga Rockers cùng Duke Ellington. Sau đó anh đến Sở làm, mặc dù vẫn không thèm cởi bỏ bộ quần áo đã mặc suốt hai ngày qua.

Rakel và Harry cãi nhau lần đầu vào một buổi tối tháng Tư nọ. Anh đã hủy một chuyến du lịch cuối tuần vào phút chót, và cô chỉ ra rằng đây là lần thứ ba anh thất hứa chỉ trong một thời gian rất ngắn. Lời hứa với Oleg, cô nói vậy. Anh trách cô lợi dụng Oleg làm cớ để gây chuyện, và điều cô thực sự muốn là anh đặt những nguyện vọng của cô lên hàng đầu, hơn cả việc tìm ra hung thủ sát hại Ellen. Cô nói rằng Ellen chỉ là một bóng ma, rằng anh đã tự thu mình vào vỏ bọc vì một xác chết, việc đó thật không bình thường, anh đang dựa vào bi kịch ấy để sống, đó là hội chứng ái tử thi, động lực thôi thúc anh không phải Ellen mà là khao khát báo thù của chính anh.

“Anh đã bị tổn thương,” cô nói. “Vì thế anh vứt bỏ mọi thứ mình có để có thể báo thù.”

Khi Harry hầm hầm lao ra khỏi nhà, anh nhác thấy bóng dáng bộ đồ ngủ cùng cặp mắt hoe đỏ của Oleg lấp ló sau tay vịn cầu thang.

Sau lần ấy, anh đã dẹp tất cả những gì không trực tiếp liên quan đến việc săn lùng những kẻ gây ra cái chết của Ellen. Anh miệt mài đọc e-mail dưới ánh đèn bàn tù mù, đăm đăm nhìn những ô cửa sổ tối đen ở những dãy nhà biệt lập và những tòa chung cư, đợi những kẻ chẳng bao giờ chịu bước chân ra ngoài, tranh thủ từng giờ đồng hồ để chợp mắt tại căn hộ trên phố Sofies của mình.

Mỗi ngày trôi qua lại dài thêm và sáng hơn, nhưng tình hình thì vẫn chẳng tiến triển được chút nào. Thế rồi một đêm nọ, cơn ác mộng từ thời thơ ấu bỗng bất chợt ùa về: anh mơ thấy Sis, mái tóc dài của con bé bị mắc kẹt, khuôn mặt hằn in vẻ hãi hùng. Nỗi sợ khiến toàn thân anh cứng đờ. Đến đêm hôm sau, cơn ác mộng lại tiếp tục tái hiện. Và cả hôm sau nữa.

Øystein Eikeland, gã bạn nối khố của anh, người vẫn hay nhậu ở quán Malik những lúc không chạy taxi, bảo anh rằng trông anh thảm hại hết sức và rủ rê anh dùng thử ít speed rẻ tiền, nhưng Harry gạt đi. Anh vẫn tiếp tục công cuộc tìm kiếm không có hồi kết dẫu đã kiệt quệ và bức bối.

Chẳng sớm thì muộn, mọi chuyện rồi cũng đến lúc không thể vãn hồi được. Chỉ cần một việc hết sức vụn vặt như tờ hóa đơn chưa thanh toán là đủ để châm ngòi chiến tranh. Chuyện xảy ra vào cuối tháng Năm, khi ấy anh và Rakel đã không nói với nhau câu gì suốt mấy ngày. Tiếng chuông điện thoại réo vang khiến anh giật mình tỉnh giấc trên chiếc ghế trong phòng làm việc. Rakel nói công ty du lịch đã nhắc nhở cô về việc chưa thanh toán chi phí thuê nông trại ở Normandy. Họ gia hạn cho cô thêm một tuần, quá thời gian đó, họ sẽ cho người khác thuê.

“Thứ Sáu là hạn chót,” đó là lời cuối cùng Rakel nói với anh trước khi cô cúp máy.

Harry đi vào nhà tắm, vã chút nước lạnh lên mặt và nhìn thẳng vào hình ảnh phản chiếu của chính mình trong gương. Bên dưới mái tóc húi cua ướt nhẹp là cặp mắt vằn tia máu với hai bọng thâm và đôi gò má buồn rầu, hốc hác. Anh gượng mỉm cười. Hàm răng vàng khè nhăn nhở đáp lại anh. Anh không còn nhận ra chính mình nữa. Và anh biết Rakel nói đúng, đó là hạn chót. Cho anh và Ellen. Cho anh và Tom Waaler.

Ngày hôm ấy, anh đến tìm thượng cấp thân thiết nhất của mình, Bjarne Møller, người duy nhất ở Sở anh có thể tin tưởng tuyệt đối. Møller cứ gật gù rồi lại lắc đầu trong lúc lắng nghe Harry trình bày nguyện vọng. Ông nói, may là việc này không thuộc thẩm quyền của ông, Harry phải trực tiếp đệ trình lên Giám đốc Sở để giải quyết. Dù thế nào đi nữa, ông vẫn khuyên Harry nên cân nhắc kỹ trước khi làm. Rời khỏi căn phòng vuông vắn của Møller, Harry tới thẳng phòng làm việc hình bầu dục của người đứng đầu Kripos. Anh gõ cửa, bước vào và trình bày những gì phải nói, về nhân chứng đã trông thấy Tom Waaler đi cùng Sverre Olsen, và chính Tom Waaler chứ không phải ai khác đã bắn chết Olsen trong lúc tiến hành bắt giữ hắn. Tất cả chỉ có thế. Đó là tất cả thành quả anh thu lượm được sau năm tháng trời ròng rã điều tra, năm tháng âm thầm theo dõi, năm tháng đứng trước bờ vực của sự điên loạn.

Vị sếp Kripos hỏi Harry rằng anh nghĩ động cơ nào có thể khiến Tom Waaler ra tay giết hại Ellen Gjelten.

Harry đáp rằng Ellen nắm trong tay một thông tin vô cùng hệ trọng. Vào buổi tối hôm cô bị giết, cô đã để lại lời nhắn trong máy trả lời tự động của Harry và nói cô biết Hoàng Tử thật sự là ai. Cô biết danh tính kẻ đầu sỏ của tổ chức nhập lậu vũ khí và người chịu trách nhiệm vũ trang tới tận răng cho đám tội phạm ở Oslo bằng loại súng ngắn công vụ của cảnh sát.

“Chỉ tiếc là lúc tôi gọi lại thì đã quá muộn màng,” Harry nói, cố thăm dò nét mặt Giám đốc Sở.

“Thế còn Sverre Olsen thì sao?” Giám đốc Sở hỏi.

“Khi chúng ta lần ra manh mối về Sverre Olsen, Hoàng Tử đã giết hắn để không cho hắn khai ra tên của kẻ sát hại Ellen.”

“Và tên Hoàng Tử mà cậu nói đến ở đây là…?”

Harry nhắc lại cái tên Tom Waaler và vị sếp Kripos im lặng gật đầu rồi nói, “Vậy là người trong nội bộ. Một trong những điều tra viên được kính trọng nhất Sở.”

Trong vòng mười giây sau đó, Harry tưởng như mình đang ngồi trong căn phòng chân không, chẳng còn âm thanh và dưỡng khí. Anh biết sự nghiệp cảnh sát của mình rất có thể kết thúc ngay tại đây, ngay lúc này.

“Được rồi, Hole. Tôi cần nói chuyện với nhân chứng của cậu trước khi quyết định bước tiếp theo chúng ta nên làm gì.”

Giám đốc Sở đứng dậy.

“Và tôi cho rằng có lẽ cậu cũng hiểu, từ giờ cho tới khi có thông báo mới, chuyện này sẽ chỉ có tôi và cậu biết thôi.”

“Chúng ta còn định ngồi đây đến bao giờ nữa?”

Harry giật mình khi nghe thấy giọng nói của người tài xế taxi. Hóa ra nãy giờ anh ngủ gật.

“Quay về thôi,” anh nói, đưa mắt nhìn ngôi nhà gỗ một lần cuối.

Khi xe về tới Kirkeveien thì di động của Harry đổ chuông. Là Beate gọi.

“Xem ra chúng tôi xác định được vũ khí gây án rồi,” cô nói. “Anh nói đúng. Hung thủ đã dùng súng ngắn.”

“Vậy thì, chúc mừng cả hai ta.”

“À thì, thực ra cũng không quá khó để tìm ra. Khẩu súng bị vứt trong thùng rác dưới bồn rửa.”

“Loại gì, số series bao nhiêu?”

“Glock 23. Số series đã bị giũa mòn.”

“Vết giũa thế nào?”

“Nếu ý anh muốn hỏi dấu vết đó có giống với dấu vết tìm được trên phần lớn những vũ khí cỡ nhỏ mà chúng ta tịch thu được ở Oslo trong thời gian gần đây hay không, thì câu trả lời là, giống.”

“Rõ rồi.” Harry chuyển máy sang tay trái. “Nhưng vẫn còn một điều nữa tôi chưa hiểu, đó là cô gọi điện báo tin cho tôi để làm gì. Đây có phải là vụ của tôi đâu.”

“Điều đó thì chưa chắc, Harry ạ. Møller bảo…”

“Mặc xác Møller lẫn cái Sở Cảnh sát Oslo khốn kiếp!”

Ngay cả Harry cũng sững sờ khi nghe thấy giọng nói the thé phát ra từ miệng mình. Qua gương chiếu hậu, anh trông thấy hàng lông mày hình chữ V của người tài xế taxi nhướn lên.

“Xin lỗi cô, Beate. Tôi… Cô vẫn nghe đấy chứ?”

“À, ừ.”

“Lúc này đầu óc tôi đang không được tỉnh táo cho lắm.”

“Vậy thì để sau cũng được.”

“Để sau cái gì cơ?”

“Không vội đâu mà.”

“Cứ nói đi.”

Cô thở dài.

“Anh có để ý vết sưng trên mí mắt trái của Camilla Loen không?”

“Có chứ.”

“Lúc trước tôi cho rằng có thể hung thủ đã đánh cô ta, hoặc do cô ta ngã xuống sàn nên mới thế, nhưng hóa ra nó lại chẳng phải là vết sưng.”

“Vậy sao?”

“Chuyên gia pháp y đã thử ấn lên đó và thấy cứng như đá. Vì thế ông ấy lật mí mắt nạn nhân lên, anh có biết ông ấy tìm thấy gì trên nhãn cầu không?”

“Ờ… không,” Harry đáp.

“Một viên đá quý cỡ nhỏ có màu đỏ nhạt, được cắt thành hình ngôi sao. Bọn tôi cho rằng nó là kim cương. Còn anh, anh nghĩ sao?”

Harry hít một hơi và xem đồng hồ. Còn ba tiếng nữa hàng quán trên phố Sofies mới đóng cửa.

“Rằng đây không phải vụ của tôi,” anh đáp, rồi tắt luôn di động.