← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 15 Thứ Hai
VENA AMORIS

Chiếc Ford Escort sơn trắng đỏ han gỉ của Harry dừng lại trước cửa hàng bán ti vi. Hai ô tô cảnh sát và chiếc siêu xe thể thao màu đỏ của Waaler trông như bị ai đó vứt bừa trên những vỉa hè xung quanh giao lộ có cái tên rất kêu: quảng trường Carl Berners.

Harry đỗ xe, lấy ra cái đục màu xanh lục trong túi áo khoác mình và đặt lên ghế phụ. Vì đã tìm khắp nhà mà không thấy chìa khóa xe nên anh đành cầm theo đoạn dây thép cùng cái đục đi loanh quanh trong khu phố. Cuối cùng anh cũng thấy chiếc xe yêu dấu của mình trên phố Stensberggata. Và quả nhiên chùm chìa khóa vẫn cắm trong ổ khóa điện. Cái đục màu xanh lục thật là lợi hại trong việc bẻ cong cửa xe để anh luồn dây thép vào và mở chốt khóa.

Harry băng qua đường dù đèn tín hiệu dành cho người đi bộ vẫn đang đỏ. Anh bước thật chậm, cơ thể không cho phép anh đi nhanh. Dạ dày và đầu anh nhức nhối, lớp vải áo ướt đẫm mồ hôi cứ dính sát vào lưng. Lúc này đang là năm giờ năm mươi lăm phút, anh đã cố gắng cầm cự đến tận bây giờ mà không đụng đến thuốc, nhưng anh không dám hứa hẹn điều gì với bản thân.

Tấm biển ở hành lang cho biết văn phòng công ty luật Halle, Thune & Wetterlid nằm trên tầng năm. Harry rên lên một tiếng. Anh liếc cái thang máy. Cửa trượt. Không có lưới kéo.

Thang máy này do công ty KONE sản xuất, khi hai cánh cửa kim loại bóng loáng khép lại, Harry tưởng như đang ở trong một hộp thiếc bị hàn kín. Anh cố gắng bỏ ngoài tai tiếng động cơ thang máy vang lên trong lúc chạy. Rồi anh nhắm mắt, nhưng lại vội vàng mở ra ngay khi những hình ảnh của Sis tái hiện ngay bên trong mí mắt.

Một sĩ quan mặc đồng phục mở cánh cửa dẫn vào khu văn phòng.

“Cô ta ở trong kia,” anh ta nói và chỉ tay về phía hành lang nằm bên trái khu lễ tân.

“Có sĩ quan nào ở đây không?”

“Họ đang trên đường tới.”

“Họ sẽ rất biết ơn anh nếu anh đi phong tỏa khu vực thang máy và cổng vào.”

“Được thôi.”

“Phòng Giám định Pháp y đã có ai đến chưa?”

“Có Li và Hansen. Họ đã tập hợp tất cả những người đang có mặt ở đây khi phát hiện ra nạn nhân và đang tiến hành thẩm vấn ở một trong những phòng họp.”

Harry đi dọc hành lang. Những tấm thảm trải sàn mòn vẹt, những món đồ mô phỏng các bảo vật quốc gia theo trường phái lãng mạn đã bạc phếch theo thời gian. Công ty này chắc hẳn từng có thời làm ăn phát đạt. Mà cũng có thể không.

Cửa phòng vệ sinh nữ đang khép hờ và các tấm thảm sàn đã nuốt mất tiếng bước chân của Harry khi anh tiến lại gần. Anh có thể nghe thấy giọng của Tom Waaler. Harry khựng lại ngay bên ngoài. Hình như Waaler đang nói chuyện điện thoại với ai đó.

“Nếu vụ này là do hắn thì rõ ràng từ nay hắn sẽ không thông qua chúng ta nữa. Được, để đó tôi giải quyết.”

Harry đẩy cửa và trông thấy Waaler đang ngồi chồm hỗm. Anh ta ngẩng đầu lên.

“Chào Harry. Chờ tôi một phút nhé.”

Harry đứng ở ngưỡng cửa, vừa quan sát hiện trường vừa lắng nghe tiếng nói xa xăm lạo xạo vang lên trong điện thoại di động của Waaler.

Phòng vệ sinh rộng rãi không ngờ, một chiều khoảng bốn mét và chiều còn lại là năm với hai buồng vệ sinh sơn trắng cùng ba chiếc bồn rửa tay cũng màu trắng lắp bên dưới tấm gương dài. Những bóng đèn neon trên trần hắt lên những bức tường trắng và sàn gạch trắng thứ ánh sáng chói gắt. Khung cảnh vắng bóng sắc màu gần như nổi bật hẳn lên. Có lẽ chính hậu cảnh như thế đã làm cho cái xác trông giống một tác phẩm nghệ thuật nho nhỏ, một mẫu vật trưng bày được sắp đặt tỉ mỉ. Nạn nhân là một phụ nữ trẻ có vóc người mảnh mai. Cô ta đang quỳ gối, trán áp lên sàn như đang cầu nguyện kiểu Hồi giáo, chỉ có điều hai cánh tay cô ta lại đặt dưới thân người. Chân váy công sở bị kéo lên cao, để lộ chiếc quần lọt khe màu vàng kem. Một dòng máu nhỏ màu đỏ sậm lan đi theo đường chỉ gạch trên sàn, từ đầu người phụ nữ tới miệng phễu thoát nước. Trông gần giống như ai đó vẽ thêm vào để tạo hiệu ứng tối đa vậy.

Thi thể được sắp đặt cân bằng, với năm điểm tựa: hai bàn chân, hai đầu gối và trán. Bộ vét công sở cùng tư thế kỳ quặc và vòng ba phơi bày lộ liễu khiến Harry liên tưởng tới hình ảnh một cô thư ký đang chuẩn bị làm tình với sếp. Lại quy chụp nữa rồi. Ai biết được, có thể cô ta mới là sếp thì sao.

“Được thôi, nhưng chúng ta không thể giải quyết chuyện đó ngay bây giờ,” Waaler nói. “Tối nay gọi lại cho tôi.”

Viên thanh tra thám tử cất điện thoại vào túi áo trong nhưng vẫn giữ nguyên tư thế ngồi xổm. Harry nhận thấy anh ta đang đặt bàn tay còn lại trên làn da trắng của người phụ nữ, ngay dưới mép quần lót. Anh đoán là để lấy chỗ dựa.

“Ảnh chụp ra chắc là đẹp, nhỉ?” Waaler nói, như thể đọc được ý nghĩ trong đầu Harry.

“Cô ta là ai?”

“Barbara Svendsen, hai mươi tám tuổi, sống ở khu Bestum. Cô ta là lễ tân của công ty này.”

Harry ngồi xổm xuống bên cạnh Waaler.

“Như anh thấy đấy, cô ta bị bắn từ phía sau đầu,” Waaler nói. “Hung khí hẳn là khẩu súng nằm dưới bồn rửa đằng kia. Trên đó vẫn còn mùi thuốc súng.”

Harry đưa mắt nhìn khẩu súng đen sì nằm lăn lóc trên sàn ở góc phòng. Một khối kim loại màu đen cỡ lớn gắn vào đầu họng súng.

“Một khẩu Česká Zbrojovka,” Waaler nói. “Nhập từ Séc, ống giảm thanh được chế tác riêng.”

Harry gật đầu. Anh rất muốn hỏi đó có phải là một trong những loại súng Waaler nhập về không. Hay có phải cuộc điện thoại vừa rồi có liên quan đến nó.

“Tư thế thật quái lạ,” Harry nói.

“Đúng vậy, tôi đoán lúc đó cô ta đang cúi hoặc quỳ xuống và người đổ nhào về phía trước.”

“Ai đã phát hiện ra cô ta?”

“Một nữ luật sư của công ty. Phòng điều phối nhận được tin báo lúc năm giờ mười một phút.”

“Có nhân chứng không?”

“Những người được thẩm vấn từ nãy tới giờ không ai trông thấy điều gì cả. Không có chuyện gì bất thường xảy ra, không có nhân vật đáng ngờ nào đến và đi trong vòng một giờ qua. Một vị khách có lịch hẹn với một luật sư ở đây khai rằng Barbara đã rời khỏi khu lễ tân để đi lấy cho ông ta cốc nước vào lúc năm giờ kém năm và rồi không thấy quay trở lại.”

“Và cô ta vào đây lấy nước à?”

“Tôi đoán vậy. Phòng bếp cách khu lễ tân khá xa.”

“Nhưng không còn ai trông thấy cô ta đi từ khu lễ tân tới đây sao?”

“Hai người có phòng làm việc nằm giữa khu lễ tân và nhà vệ sinh thì đã ra về từ trước rồi. Những ai còn ở lại đều ngồi trong văn phòng riêng hoặc một trong mấy phòng họp.”

“Vị khách đó đã làm gì khi không thấy cô ta quay lại?”

“Ông ta có buổi họp lúc năm giờ, chờ mãi không thấy lễ tân trở ra, ông ta sốt ruột quá nên cứ thế đi vào trong cho tới khi tìm thấy văn phòng của luật sư đã hẹn trước.”

“Vậy là ông ta biết đường đi lối lại ở đây?”

“Không, ông ta nói đây là lần đầu tiên ông ta đến công ty này.”

“Ừm. Và ông ta là người cuối cùng chúng ta biết đã trông thấy cô ta còn sống?”

“Phải.”

Harry nhận thấy bàn tay Waaler vẫn đang đặt ở đó.

“Như vậy án mạng chắc hẳn đã xảy ra trong khoảng thời gian từ năm giờ kém năm đến năm giờ mười một phút.”

“Phải, có lẽ vậy.”

Harry cúi nhìn cuốn sổ tay của mình.

“Anh có nhất thiết phải làm thế không?” anh thấp giọng hỏi.

“Làm gì?”

“Chạm vào cô ta.”

“Anh không thích à?”

Harry không đáp. Waaler rướn người lại gần.

“Có phải anh đang ám chỉ anh chưa bao giờ chạm vào họ không, Harry?”

Harry cố gắng viết, nhưng cây bút không chịu nhúc nhích.

Waaler bật cười khẽ.

“Không cần trả lời đâu. Nhìn mặt anh là tôi biết được rồi. Tò mò chẳng có gì sai, Harry ạ. Đó là một trong những lý do chúng ta gia nhập ngành cảnh sát, đúng không? Sự tò mò và niềm háo hức. Chẳng hạn như muốn xem cảm giác sẽ thế nào khi sờ vào da của người vừa mới chết, khi xác không còn ấm nóng nhưng cũng chưa lạnh hẳn.”

“Tôi…”

Harry đánh rơi cây bút khi Waaler chộp lấy cổ tay anh.

“Cảm nhận đi.”

Waaler ấn tay anh lên đùi người phụ nữ đã chết. Harry thở nặng nhọc từng hơi qua đằng mũi. Phản xạ đầu tiên thôi thúc anh rụt tay lại, nhưng anh không làm vậy. Tay Waaler vừa ấm vừa khô, nhưng làn da anh ta thì chẳng giống da người. Cảm giác cứ như thể anh đang cầm cao su vậy. Thứ cao su âm ấm.

“Anh có cảm thấy không? Đó là niềm phấn khích đấy, Harry. Nó cũng hấp dẫn anh, đúng chứ? Nhưng làm sao anh có thể tìm lại nó một khi công việc này chấm dứt? Liệu anh có làm như bao gã đàn ông tội nghiệp khác? Tìm kiếm nó trong những cửa hàng băng đĩa hoặc dưới đáy một trong những chai rượu của mình? Hay là anh muốn có nó trong đời thực? Hãy cảm nhận đi, Harry. Đây là thứ chúng tôi đang dâng cho anh đấy. Đời thực. Anh có đồng ý không?”

Harry đằng hắng.

“Tôi chỉ muốn nói là Đội Pháp y hẳn sẽ muốn khám nghiệm trước khi để chúng ta chạm vào bất cứ thứ gì.”

Waaler nhìn Harry rất lâu. Sau đó anh ta vui vẻ chớp mắt và buông tay anh ra.

“Phải rồi. Tôi sơ suất quá.”

Waaler đứng dậy và rời khỏi phòng.

Bất chấp cơn đau quặn thắt nơi dạ dày tiếp tục chế ngự, Harry vẫn cố gắng hít những hơi thật sâu và giữ bình tĩnh. Beate sẽ không bao giờ tha thứ cho anh nếu anh nôn đầy ra hiện trường án mạng của cô.

Anh áp má lên những ô gạch lát sàn mát rượi và vén áo khoác của Barbara lên xem mình có thể tìm thấy được những gì bên dưới cô ta. Và rồi anh trông thấy một chiếc cốc màu trắng kẹp giữa hai đầu gối cô ta cùng bên dưới đường cong mềm mại ở phần thân trên. Nhưng bàn tay cô ta mới thực sự là điều khiến anh phải chú ý.

“Mẹ kiếp,” Harry khẽ lẩm bẩm. “Mẹ kiếp.”

Lúc sáu giờ hai mươi phút, Beate hớt hải chạy vào khu văn phòng công ty Halle, Thune & Wetterlid. Harry đang ngồi trên sàn, lưng dựa vào bức tường bên ngoài phòng vệ sinh nữ, uống nước bằng một chiếc cốc nhựa trắng.

Beate dừng lại trước mặt anh, đặt mấy cái hộp kim loại xuống, đưa mu bàn tay quệt ngang vầng trán đỏ gay, lấm tấm mồ hôi.

“Xin lỗi. Tôi đang nằm trên bãi biển ở Ingierstrand thì nhận được tin báo. Trước tiên tôi phải quay về nhà thay quần áo rồi mới lái xe đến Kjølberggata lấy đồ nghề. Chả hiểu tên dở hơi nào ra lệnh phong tỏa thang máy, làm tôi phải lóc cóc leo cầu thang lên đây.”

“Hừm. Chắc là cái người cô vừa nhắc đến đó muốn bảo vệ chứng cứ thôi. Lũ lều báo đã sục mũi vào đây chưa?”

“Có vài gã phóng viên đang ngồi sưởi nắng bên ngoài kia. Nhưng ít thôi. Đang kỳ nghỉ mà.”

“E rằng kỳ nghỉ đến đây là kết thúc.”

Beate nhăn mặt.

“Ý anh là…?”

“Cô vào đây.”

Harry vào phòng vệ sinh trước cô và ngồi xuống chồm hỗm.

“Nhìn dưới thân người cô ta đi, bàn tay trái ấy. Ngón đeo nhẫn của cô ta đã bị cắt cụt.”

Beate rên lên.

“Máu chảy không nhiều,” Harry nói. “Như vậy nghĩa là ngón tay đã bị cắt sau khi cô ta chết. Rồi còn thứ này nữa.”

Anh vén lọn tóc trên tai trái của Barbara.

Beate chun mũi, nói: “Một chiếc khuyên tai ư?”

“Hình trái tim. Khác hẳn với chiếc khuyên bạc ở tai bên kia. Tôi đã tìm thấy chiếc khuyên bạc còn lại ở trên sàn trong một buồng vệ sinh. Chứng tỏ hung thủ đã đeo chiếc khuyên hình trái tim cho cô ta. Hay ho là ở chỗ chiếc khuyên có thể mở ra được. Như thế này này. Thứ nằm bên trong đó lạ quá phải không?”

Beate gật đầu.

“Một viên kim cương màu đỏ hình ngôi sao năm cánh,” cô nói.

“Vậy bây giờ chúng ta có gì nhỉ?”

Beate đưa mắt nhìn anh.

“Bây giờ chúng ta có thể nói to mấy từ đó được rồi chứ?” cô hỏi.

“Sát nhân hàng loạt?”

Lời Bjarne Møller thốt ra khẽ đến mức Harry vô thức áp chặt điện thoại vào tai hơn.

“Chúng tôi đang ở hiện trường và mô thức vẫn vậy,” Harry nói. “Sếp sẽ phải chuẩn bị dần và hủy kỳ nghỉ này đi thôi. Chúng ta sẽ cần huy động được càng nhiều người càng tốt.”

“Liệu có phải có kẻ bắt chước cách thức gây án không?”

“Không thể nào. Chỉ có chúng ta biết về chi tiết ngón tay bị cắt cụt và những viên kim cương.”

“Thế này thật bất tiện quá, Harry.”

“Án giết người hàng loạt mà tiện thì hiếm lắm sếp ạ.”

Møller im lặng giây lát.

“Harry này?”

“Tôi vẫn đang nghe đây, sếp.”

“Tôi định nhờ cậu dành mấy tuần cuối cùng để hỗ trợ Tom Waaler phá vụ án này. Ở Đội Hình sự chỉ có cậu là có kinh nghiệm xử lý những vụ giết người hàng loạt thôi. Tôi biết thế nào cậu cũng từ chối, nhưng tôi vẫn phải hỏi. Để chúng ta bước đầu có sự chuẩn bị, Harry ạ.”

“Được thôi, sếp.”

“Việc này quan trọng hơn mối bất hòa giữa cậu và Tom… Cậu vừa bảo gì cơ?”

“Tôi bảo không sao cả.”

“Cậu nói thật chứ?”

“Thật. Mà giờ tôi phải cúp máy đây. Chúng tôi sẽ ở đây gần như cả tối, vì vậy tốt nhất sếp nên bố trí buổi họp đầu tiên để trao đổi về vụ này vào sáng mai. Tom đề nghị họp lúc tám giờ.”

“Tom á?” Møller sửng sốt hỏi.

“Tom Waaler.”

“Tôi biết rồi. Chẳng qua tôi chưa nghe cậu gọi cậu ta bằng tên thánh bao giờ thôi.”

“Mọi người đang chờ tôi đấy, sếp.”

“Được rồi.”

Harry đút điện thoại vào túi, ném cái cốc nhựa vào thùng rác, chui vào một buồng trong phòng vệ sinh nam, khóa cửa lại rồi bám lấy bồn cầu và nôn thốc nôn tháo.

Sau đó, anh đứng trước bồn rửa, mở vòi nước và nhìn mình trong gương. Anh lắng nghe tiếng nói chuyện rì rầm từ ngoài hành lang. Trợ lý của Beate đang yêu cầu những người có mặt lùi ra phía sau hàng rào phong tỏa, Waaler thì lệnh cho các sĩ quan cảnh sát tìm hiểu xem những ai đã có mặt trong khu vực xung quanh tòa nhà, Magnus Skarre lớn tiếng với một đồng nghiệp nào đó vì thứ anh ta muốn là burger phô mai không có khoai tây chiên.

Khi nước lạnh cuối cùng cũng chảy ra, Harry hứng mặt dưới vòi. Anh để mặc cho nước tràn ra má, chui vào tai, lan xuống cổ, chảy vào trong sơ mi, đi qua vai và xuống cánh tay. Anh uống lấy uống để, quyết không nghe lời kẻ thù đang ẩn sâu trong mình. Rồi anh lại chạy vào buồng vệ sinh nôn tiếp.

Ngoài kia, đêm đã buông xuống rất nhanh, quảng trường Carl Berners vắng tanh vắng ngắt khi Harry bước ra khỏi tòa nhà, châm một điếu thuốc và giơ tay ngăn một kẻ trong đám kền kền đưa tin đang tiếp cận mình. Người đàn ông đó dừng lại. Harry nhận ra anh ta. Tên anh ta là Gjendem phải không nhỉ? Anh đã nói chuyện với anh ta sau khi phá vụ án ở Sydney. Gjendem chẳng tệ hơn những kẻ khác trong nghề, mà thậm chí có khi còn tử tế hơn một chút.

Hiệu bán ti vi vẫn đang còn mở cửa. Harry bước vào. Bên trong không có ai ngoài một người đàn ông béo mập mặc chiếc sơ mi vải flannel bẩn thỉu đang ngồi đọc báo phía sau quầy thanh toán. Trên quầy có một cái quạt điện đang thổi gió quanh những lọn tóc được chải chuốt hết sức tỉ mỉ nhằm che đi cái đầu hói, khiến mùi mồ hôi của ông ta bay ra khắp cửa hàng. Ông ta khụt khịt mũi khi Harry trình thẻ cảnh sát và hỏi ông ta có nhìn thấy người nào có dấu hiệu khả nghi lảng vảng bên trong hoặc bên ngoài cửa hàng không.

“Ở đây ai cũng khả nghi hết,” ông ta nói. “Cái khu này sắp thành xóm liều đến nơi rồi.”

“Có ai trông như đang âm mưu giết người không?” Harry cộc lốc hỏi.

Ông chủ cửa hàng nheo một mắt. “Có phải vì vậy mà quanh đây lắm xe cảnh sát đến thế không?”

Harry gật đầu.

Ông ta nhún vai rồi bắt đầu đọc báo tiếp.

“Trên đời ai mà chẳng có đôi lần nảy sinh ý nghĩ giết người chứ, hạ sĩ.”

Đang trên đường trở ra thì Harry chợt dừng bước khi trông thấy hình ảnh ô tô của chính mình trên màn hình một chiếc ti vi. Camera quét một lượt qua quảng trường Carl Berners và dừng lại ở tòa nhà xây bằng gạch đỏ. Sau đó trên ti vi lại phát tin tức đài TV2, tiếp đến là chương trình thời trang. Harry rít mạnh điếu thuốc lá và nhắm mắt lại. Rakel đang tiến về phía anh trên một sàn catwalk, không, mười hai sàn catwalk mới đúng. Cô đi xuyên qua bức tường trưng bày những chiếc ti vi để tới đứng trước mặt anh, hai tay chống hông. Cô nhìn anh đăm đăm giây lát rồi hất đầu, quay người và bỏ đi. Harry lại mở mắt ra.

Lúc này là tám giờ tối. Anh cố không nhớ đến quán bar trên phố Trondheimsveien ở gần đây. Đó là quán rượu được cấp phép.

Phần khó khăn nhất của buổi tối còn đang chờ anh ở phía trước.

Đấy là chưa kể khi đêm về.

Lúc mười giờ tối, dù nhiệt kế đã thương tình hạ xuống hai độ nhưng tiết trời vẫn oi bức và không có gì thay đổi, nó đang ngóng trông một làn gió từ biển, từ đất liền, hoặc từ đâu cũng được. Đội Pháp y đã ra về hết, chỉ duy nhất phòng Beate còn sáng đèn. Vụ giết người ở quảng trường Carl Berners khiến ngày hôm nay của cô đảo lộn tùng phèo hết cả và Beate vẫn đang ở hiện trường khi anh chàng đồng nghiệp Bjørn Holm gọi điện báo với cô rằng có một phụ nữ đang chờ gặp cô ở khu lễ tân, chị ta là chuyên viên của tập đoàn De Beers tới đây để giám định mấy viên kim cương nào đó.

Beate tất tả quay về, lúc này, sự tập trung của cô đều dồn cả vào người phụ nữ thấp bé tràn đầy năng lượng đứng trước mặt mình, chị ta đang trao đổi với cô bằng thứ tiếng Anh thật hoàn hảo đối với một người Hà Lan định cư tại London.

“Xét về mặt lý thuyết, kim cương có những dấu hiệu địa lý đặc trưng giúp chúng ta có thể lần ngay ra được chủ sở hữu thực sự của chúng, vì giấy chứng nhận đi kèm với mỗi viên kim cương sẽ được phát hành để chứng minh nguồn gốc của nó. Nhưng tôi e rằng trong trường hợp này là không thể.”

“Vì sao vậy?” Beate hỏi.

“Vì hai viên kim cương tôi vừa kiểm tra là loại kim cương máu.”

“Vì chúng có màu đỏ ư?”

“Không, mà vì rất có thể chúng có nguồn gốc từ những mỏ Kiuvu ở Sierra Leone. Toàn thể giới mua bán kim cương trên thế giới đều tẩy chay kim cương từ Sierra Leone vì các mỏ kim cương ở đó là do những lực lượng nổi dậy kiểm soát, chúng xuất khẩu kim cương để lấy kinh phí phục vụ cho cuộc chiến không phải vì mục đích chính trị, mà vì tiền. Bởi vậy mới có cái tên kim cương máu. Tôi tin rằng hai viên này là kim cương mới, có lẽ được buôn lậu từ Sierra Leone sang nước khác, tại đó người ta làm giả giấy chứng nhận xuất xứ từ những mỏ kim cương có tiếng, như Nam Phi chẳng hạn.”

“Chị có biết chúng được buôn lậu tới đâu không?”

“Phần lớn kim cương máu đều đổ về các nước cộng sản cũ. Khi Bức màn sắt bị phá bỏ, những kẻ chuyên làm giấy tờ tùy thân giả đã buộc phải xoay cách khác kiếm cơm. Mà tiền công làm giấy chứng nhận kim cương cho giống thật cũng không hề rẻ. Nhưng đó không phải căn cứ duy nhất khiến tôi đoán chúng bắt nguồn từ Đông Âu.”

“Vậy sao?”

“Trước đây tôi từng trông thấy những viên kim cương hình ngôi sao như thế này rồi. Chúng được nhập lậu từ Cộng hòa Dân chủ Đức cũ và Tiệp Khắc. Cũng như hai viên này, chúng được chế tác thành kim cương loại hai.”

“Loại hai ư?”

“Kim cương đỏ trông thì đẹp nhưng lại rẻ hơn kim cương trắng, hay loại trong suốt không màu. Trong hai viên đá các cô tìm thấy vẫn còn sót lại một lượng khá lớn cacbon không kết tinh, độ tinh khiết của chúng vì thế cũng kém hơn. Nếu phải cắt bỏ quá nhiều kim cương để tạo hình ngôi sao thì ngay từ đầu người ta sẽ không dùng kim cương hảo hạng.”

“Vậy là từ Đông Đức và Tiệp Khắc.” Beate nhắm mắt lại.

“Đó chỉ là suy đoán theo kinh nghiệm của tôi thôi. Nếu không còn việc gì khác, tôi vẫn có thể bắt kịp chuyến bay đêm về London…”

Beate mở mắt ra và đứng dậy.

“Mong chị thứ lỗi. Hôm nay quả là một ngày dài tất bật. Chị đã giúp đỡ chúng tôi rất nhiều. Vô cùng cảm ơn chị vì đã tới tận đây.”

“Có gì đâu. Tôi chỉ mong mình có thể giúp cảnh sát tìm ra kẻ đã gây nên chuyện này thôi.”

“Chúng tôi cũng mong là như vậy. Để tôi gọi taxi cho chị nhé.”

Trong lúc chờ tổng đài Oslo Taxi bắt máy, Beate chợt thấy ánh mắt cô chuyên gia kim cương đang dán vào bàn tay phải cầm điện thoại của cô. Beate mỉm cười.

“Cô có viên kim cương đẹp quá. Trông như nhẫn đính hôn vậy.”

Beate tự dưng đỏ mặt mà chẳng hiểu vì sao.

“Tôi chưa đính hôn. Đây là nhẫn cầu hôn bố tôi tặng mẹ tôi. Tôi được thừa hưởng lại nó khi mẹ tôi mất.”

“Ra vậy. Thảo nào cô đeo nó ở tay phải.”

“Tay phải?”

“Đúng thế, thường thì người ta đeo nhẫn ở tay trái. Hay chính xác là ngón giữa bàn tay trái.”

“Ngón giữa ư? Tôi tưởng ngón đeo nhẫn là ngón áp út?”

“Không đâu, nếu cô có cùng những niềm tin tín ngưỡng với người Ai Cập.”

“Và tín ngưỡng đó như thế nào?”

“Họ cho rằng tĩnh mạch tình yêu, hay vena amoris, chạy từ trái tim tới tận ngón giữa bàn tay trái.”

Sau khi taxi đến nơi và vị khách rời đi, Beate đứng ngẩn ra nhìn tay mình hồi lâu, chính xác là nhìn ngón giữa bàn tay trái.

Rồi cô gọi điện cho Harry.

“Khẩu súng cũng được nhập từ Séc,” Harry nói khi nghe cô kể xong.

“Có thể trong vụ này có uẩn khúc gì đây,” Beate nói.

“Có thể lắm,” anh đáp. “Vừa rồi cô bảo cái mạch máu ấy gọi là gì nhỉ?”

“Vena amoris.”

“Vena amoris,” Harry lẩm nhẩm. Sau đó anh cúp máy.