← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 25 Thứ Sáu
TIẾNG LẠ

“Bà sống ở đây sao?” Harry sửng sốt hỏi.

Anh sửng sốt như vậy là bởi sự giống nhau đến khó tin đã khiến anh giật mình khi bà cụ ra mở cửa. Anh đang dồn hết sự chú ý vào khuôn mặt nhợt nhạt, già nua ấy. Chính là đôi mắt bà. Đôi mắt thực tình cũng điềm tĩnh, ấm áp y như thế. Hơn hết thảy, đó là đôi mắt. Nhưng đồng thời còn cả giọng nói của bà khi bà xác nhận mình đúng là Olaug Sivertsen.

“Tôi là cảnh sát,” anh nói và giơ thẻ ra.

“Thật sao? Tôi hy vọng không có vấn đề gì chứ?”

Vẻ âu lo vắt qua cái mạng lưới chằng chịt những nếp nhăn lớn nhỏ trên gương mặt của bà. Harry thầm nghĩ không hiểu có phải bà cụ đang lo thay người nào đó hay không. Có lẽ chính bởi sự giống nhau, sự quan tâm bà luôn dành cho những người xung quanh, đã khiến anh có ý nghĩ đó.

“Không có gì đâu,” anh đáp một cách máy móc và lắc đầu để khẳng định lại lời nói dối. “Chúng tôi vào được chứ?”

“Tất nhiên rồi.”

Bà mở rộng cửa và nhường lối cho họ. Harry và Beate bước vào trong. Harry nhắm mắt lại. Nơi này có mùi xà phòng thơm và quần áo cũ. Tất nhiên rồi. Khi mở mắt ra, anh thấy bà đang nhìn mình, trên môi nở nụ cười thắc mắc. Harry mỉm cười đáp lại. Bà cụ làm sao biết được nãy giờ anh vẫn đang mong chờ một vòng tay ôm, một cái vỗ nhẹ lên mái đầu cùng vài lời thì thầm bảo anh rằng ông ngoại đang đợi anh và Sis để mang lại cho hai đứa một bất ngờ thú vị chứ.

Bà dẫn họ vào phòng khách, nhưng ở đây không có ai. Phòng khách - hay đúng hơn là những phòng khách, vì có đến ba phòng liền kề nhau - có những đường chỉ hình tròn trên trần nhà với mấy ngọn chúc đài bằng thủy tinh và được bài trí những món đồ cổ trang nhã. Đồ đạc và thảm đều đã mòn cũ nhưng sạch bong và ngăn nắp, đặc điểm chỉ có ở những ngôi nhà một người ở.

Harry băn khoăn vì sao vừa rồi anh lại hỏi có phải bà cụ sống ở đây không. Phải chăng có điều gì đó ẩn chứa trong cái cách bà mở cửa ư? Hay cách bà cho họ vào nhà? Dẫu thế nào đi nữa, anh vẫn phần nào mong đợi sẽ gặp được một người đàn ông ở đây, người trụ cột trong gia đình, nhưng xem ra Cục Quản lý Đăng ký Quốc gia đã đúng. Căn nhà này chỉ có một mình bà cụ ở.

“Hai người ngồi đi,” bà nói. “Dùng cà phê nhé?”

Câu nói ấy nghe giống một lời khẩn nài hơn là lời mời. Harry, nãy giờ cứ bồn chồn lo lắng, đằng hắng một cái, anh không chắc là có nên trình bày lý do họ đến đây ngay từ đầu, hay là để đến cuối rồi mới nói.

“Dạ, vậy thì tốt quá,” Beate nói kèm theo một nụ cười.

Bà cụ mỉm cười đáp lễ rồi lục tục đi vào bếp. Harry trao cho Beate ánh mắt biết ơn.

“Bà ấy khiến tôi nhớ đến…” anh ngập ngừng nói.

“Tôi hiểu,” Beate nói. “Nhìn vẻ mặt anh là tôi có thể đoán được rồi. Bà tôi ngày xưa cũng có chút giống bà ấy.”

“Ừm,” Harry nói và nhìn quanh.

Trong nhà không có nhiều ảnh gia đình. Chỉ thấy mấy khuôn mặt nghiêm nghị trong hai bức ảnh đen trắng đã bạc màu, hẳn là được chụp trước khi chiến tranh nổ ra, và bốn bức ảnh chụp một cậu bé nhưng ở những độ tuổi khác nhau. Trong bức ảnh thời niên thiếu, cậu ta đang bị mụn, để kiểu tóc ngắn mái bằng hồi đầu thập niên sáu mươi, cặp mắt tròn xoe hiền lành hệt như cặp mắt họ đã nhìn thấy nơi ngưỡng cửa, môi nở một nụ cười đúng nghĩa. Đó không phải vẻ mặt khổ đau mà ở tuổi ấy Harry phải khó khăn lắm mới trưng ra được trước ống kính máy ảnh.

Bà cụ trở lại mang theo một chiếc khay và ngồi xuống, rót cà phê ra cốc và lần lượt đưa đĩa bánh quy Maryland cho từng người. Harry chờ cho đến lúc Beate hết lời khen ngại cà phê ngon rồi mới lên tiếng.

“Bà có đọc bài báo viết về ba phụ nữ trẻ bị sát hại gần đây ở Oslo không, bà Sivertsen?”

Bà lắc đầu.

“Tôi có thấy tiêu đề. Những hàng tít trên trang bìa tờ Aftenposten. Không thể không thấy được. Nhưng tôi chẳng bao giờ đọc mấy chuyện kiểu ấy.”

Những nếp nhăn quanh đôi mắt bà chúc xuống khi bà mỉm cười.

“Và e rằng tôi chỉ là bà cô già thôi, không phải như anh nói đâu.”

“Xin lỗi bà. Tôi cứ tưởng…” Harry liếc nhìn về phía mấy tấm ảnh.

“Vâng,” bà nói. “Con trai tôi đấy.”

Không khí trong phòng bỗng lặng đi. Làn gió mang theo tiếng chó sủa từ xa cùng giọng nói the thé thông báo chuyến tàu đi Halden đang chuẩn bị khởi hành ở ga số mười bảy. Cơn gió nhẹ hầu như chẳng đủ sức lay động những tấm rèm ở mấy cánh cửa ban công.

“Vâng.” Harry cầm lấy cốc cà phê, nhưng rồi anh quyết định nói luôn thì tốt hơn nên lại đặt nó xuống. “Chúng tôi có lý do để tin rằng kẻ đã sát hại ba người phụ nữ đó là một sát nhân hàng loạt, và một trong hai mục tiêu tiếp theo của hắn là…”

“Bánh ngon quá, bà Sivertsen ạ,” Beate đột nhiên ngắt lời anh trong khi miệng đang nhai nhồm nhoàm. Harry ngơ ngác nhìn cô. Bên ngoài cửa ban công vọng đến tiếng rít của đoàn tàu nào đó đang vào ga.

Bà cụ mỉm cười, có vẻ hơi bối rối.

“Ồ, chỉ là bánh quy mua ngoài hàng thôi,” bà nói.

“Tôi bắt đầu lại nhé, bà Sivertsen,” Harry lên tiếng. “Đầu tiên, tôi xin phép được nói rằng bà không cần phải lo lắng gì cả, mọi chuyện hoàn toàn nằm trong tầm kiểm soát của chúng tôi. Thứ hai…”

“Cảm ơn nhé,” Harry nói trong lúc hai người bước xuống phố Schweigaards, đi qua mấy nhà kho và phân xưởng thấp tè. Những công trình ấy trông quá ư tương phản với ngôi nhà biệt lập có khu vườn hệt như ốc đảo xanh mướt giữa một vùng sỏi đá đen sì.

Beate mỉm cười nhưng không đỏ mặt.

“Tôi chỉ nghĩ là chúng ta nên tránh cách tiếp cận dễ gây chấn động tâm lý, kiểu một đòn chí mạng. Chúng ta được phép đi đường vòng đôi chút, lựa chọn cách nói giảm nói tránh, vậy thôi.”

“Ừ, điều đó tôi cũng có biết.”

Anh châm một điếu thuốc.

“Xưa nay tôi không khá trong khoản ăn nói lắm. Tôi giỏi lắng nghe hơn. Và có lẽ là…”

Anh bỏ lửng câu nói.

“Sao?” Beate hỏi.

“Có lẽ tôi đã trở nên hơi kém tinh tế. Có lẽ tôi không còn bận tâm nhiều như trước. Có lẽ đã đến lúc tôi… nên làm khác đi. Cô lái xe được không?”

Anh ném chùm chìa khóa qua nóc xe.

Cô bắt lấy rồi cúi đầu nhìn chúng, hai hàng lông mày nhíu lại vẻ lo âu.

Lúc tám giờ, bốn thanh tra phụ trách chuyên án, và Aune, một lần nữa quây quần trong phòng họp.

Harry báo cáo lại tình hình chuyến viếng thăm biệt thự Valle và nói rằng Olaug Sivertsen đón nhận thông tin một cách bình tĩnh. Bà cụ chắc chắn là có sợ, nhưng hoàn toàn không đến mức hoảng loạn khi hay tin mình có thể đã lọt vào tầm ngắm của một kẻ sát nhân hàng loạt.

“Beate đã đề nghị bà ấy chuyển đến sống cùng con trai một thời gian,” Harry nói. “Tôi thấy ý kiến đó được đấy…”

Waaler lắc đầu.

“Không ư?” Harry ngạc nhiên nói.

“Hung thủ có thể đang để mắt đến những địa điểm gây án tiếp theo. Nếu bây giờ đột nhiên có điều bất thường xảy ra, hắn có thể sẽ sợ mà chuồn mất.”

“Ý anh là chúng ta nên dùng bà lão vô tội ấy làm… làm… làm…” Beate cố che giấu cơn giận, nhưng cô vẫn lắp bắp thốt ra điều cần nói, mặt đỏ gay, “mồi nhử?”

Waaler đáp lại cái nhìn chằm chằm của Beate. Và lần đầu tiên cô đáp trả ánh mắt của anh ta. Cuối cùng, bầu không khí im lặng trở nên nặng nề đến mức Møller phải mở miệng để nói điều gì đó, bất kỳ điều gì, bất kỳ lựa chọn ngôn từ hú họa nào cũng được, nhưng Waaler đã nhanh hơn ông một bước.

“Tôi chỉ muốn chắc chắn là chúng ta sẽ bắt được hắn, để mọi người có thể yên tâm ngủ ngon giấc mỗi đêm. Hơn nữa, theo như tôi hiểu thì phải sang tuần sau mới đến lượt bà lão ấy.”

Møller phá lên cười to đầy gượng gạo. Và nó thậm chí càng trở nên to hơn khi ông nhận ra bầu không khí căng thẳng vẫn không được xoa dịu đi chút nào.

“Dù sao đi nữa,” Harry nói. “Bà ấy vẫn sẽ ở lại. Cậu con trai sống ở xa lắm, đâu đó bên nước ngoài cơ.”

“Tốt,” Waaler nói. “Về phần ký túc xá sinh viên, lúc này ở đó gần như không có người vì đang là kỳ nghỉ, nhưng chúng tôi đã nói chuyện với những ai sống tại đó và đặc biệt yêu cầu họ phải ở yên trong phòng vào ngày mai. Ngoài điều đó ra thì họ chỉ được cung cấp những thông tin tối thiểu họ cần phải biết thôi. Chúng tôi đã bảo họ rằng cảnh sát làm vậy là để giăng bẫy bắt quả tang một tên trộm. Chúng tôi sẽ cho lắp đặt thiết bị theo dõi vào đêm nay, trong lúc kẻ giết người đang say giấc, hy vọng thế.”

“Còn Lực lượng Đặc nhiệm thì sao?”

Waaler mỉm cười. “Ai nấy đều vui vẻ.”

Harry dõi mắt nhìn ra ngoài cửa sổ. Anh cố nhớ lại xem vui vẻ là cảm giác như thế nào.

Khi Møller tuyên bố kết thúc cuộc họp, Harry nhận thấy những mảng mồ hôi loang ra trên hai vạt áo của Aune nhìn giống như hình đất nước Somalia.

Ba người lại ngồi xuống.

Møller mang đến bốn chai Carlsberg trong tủ lạnh ở phòng bếp.

Aune gật gù, khuôn mặt lộ vẻ vui mừng. Còn Harry thì lắc đầu.

“Nhưng tại sao?” Møller hỏi khi ông mở mấy chai bia. “Tại sao hắn lại tự nguyện trao cho chúng ta chìa khóa giải mã, tức là tiết lộ luôn những hành động tiếp theo của hắn?”

“Hắn đang cố nói cho chúng ta biết làm thế nào để bắt được hắn,” Harry nói, đẩy cửa sổ lên.

Bao âm thanh của cuộc sống chốn thành thị trong đêm hè lập tức ùa vào phòng: vòng đời tuyệt vọng của những con thiêu thân, tiếng nhạc phát ra từ chiếc ô tô mui trần chạy qua phố, tiếng cười đầy cường điệu, tiếng giày cao gót điên cuồng gõ lộp cộp trên mặt đường nhựa. Người người đang tận hưởng cuộc sống.

Møller ngờ vực nhìn Harry rồi liếc Aune một cái với hy vọng nhận được lời xác thực Harry đúng là mất trí rồi.

Vị chuyên gia tâm lý chụm các đầu ngón tay vào nhau, đặt trước cái nơ bướm mềm oặt.

“Có thể Harry đúng đấy,” ông nói. “Không có gì bất thường đối với trường hợp kẻ giết người hàng loạt tìm cách tiếp cận và hỗ trợ cảnh sát cả, vì sâu trong thâm tâm hắn muốn được ngăn chặn. Một nhà tâm lý tên là Sam Vaknin có nói sát nhân hàng loạt muốn bị bắt và bị trừng phạt để thỏa mãn cái siêu ngã bệnh hoạn của chúng. Tôi thì thiên về giả thuyết chúng cần người giúp đỡ ngăn chặn con quái vật trong mình hơn. Tôi cho rằng khao khát bị tóm của chúng bắt nguồn từ một mức độ nhận thức khách quan nào đó về căn bệnh mà chúng mắc phải.”

“Chúng có biết mình là kẻ tâm thần không?”

Aune gật.

“Chắc là đau khổ lắm,” Møller khẽ nói, cầm chai bia của mình lên.

Møller xin phép đi gọi điện lại cho một phóng viên của tờ Aftenposten, người đó muốn hỏi ý kiến của cảnh sát đối với đề xuất của ủy ban Bảo vệ Trẻ em về việc phụ huynh nên giữ con em mình ở trong nhà.

Harry và Aune vẫn ngồi đó, lắng nghe những âm thanh từ xa vọng lại của bữa tiệc, tiếng la hét loáng thoáng hòa cùng tiếng nhạc của The Strokes, bị chen ngang bởi lời kêu gọi cầu nguyện không hiểu sao bỗng vang lên thật chói tai và có phần báng bổ, vậy mà lạ thay vẫn hay tuyệt, tất cả đều đến từ một ô cửa sổ để ngỏ.

“Chỉ là tôi tò mò chút thôi,” Aune nói, “điều gì đã khơi gợi cho anh vậy? Làm thế nào anh biết được mấu chốt ở đây là số năm?”

“Ý ông là sao?”

“Tôi có biết tí chút về quá trình tư duy sáng tạo. Đã xảy ra chuyện gì?”

Harry mỉm cười.

“Ông thử nghĩ đi. Nói ngắn gọn thì, điều cuối cùng tôi trông thấy trước khi đi ngủ vào sáng nay là cái đồng hồ báo thức trên kệ đầu giường đang hiện ba số năm. Ba người phụ nữ. Số năm.”

“Bộ não quả là một cỗ máy huyền diệu,” Aune nói.

“Tôi cũng cho là vậy,” Harry nói. “Một người bạn thông thạo mật mã nói với tôi rằng, chúng ta phải tìm ra đáp án cho câu hỏi ‘tại sao’ rồi mới có thể phá giải được mật mã một cách trọn vẹn. Mà đáp án ở đây không phải là số năm.”

“Nếu đã vậy thì, tại sao?”

Harry ngáp dài và vươn vai.

“ ‘Tại sao’ là lĩnh vực của ông, Ståle. Tôi chỉ cần chúng ta tóm được hắn là vui rồi.”

Aune mỉm cười, nhìn đồng hồ đeo tay rồi đứng dậy.

“Anh là một người vô cùng kỳ lạ, Harry ạ.”

Ông choàng lên người chiếc áo khoác bằng vải tweed.

“Tôi biết dạo gần đây anh lại uống rượu, nhưng trông anh có vẻ khá hơn đấy. Giai đoạn tồi tệ nhất của lần này đã qua chưa?”

Harry lắc đầu.

“Chỉ là tôi đang tỉnh táo thôi.”

Harry đi bộ về nhà dưới bầu trời bao la đang khoe trọn vẻ đẹp toàn bích.

Một người phụ nữ đeo kính râm đang đứng trên vỉa hè dưới tấm biển neon của Niazi, tiệm tạp hóa nho nhỏ ở khu nhà nằm kế bên tòa chung cư Harry ở. Một tay cô chống hông, tay kia xách cái túi nylon trắng tuyền không nhãn hiệu của Niazi. Cô mỉm cười và vờ như mình đang đứng đó đợi anh.

Đấy là Vibeke Knutsen.

Harry biết cô đang đóng kịch. Đó là trò đùa cô muốn anh tham gia, vì thế anh bước chậm lại, trao cô nụ cười y hệt để đáp lễ. Để cô thấy rằng anh đã chờ ngày được gặp cô tại đây. Kỳ lạ ở chỗ, đúng là như thế thật. Chỉ có điều, mãi đến giây phút này anh mới nhận ra.

“Dạo này không thấy đến Underwater nhỉ, anh bạn quý hóa,” cô nói, nâng cặp kính lên và nheo mắt nhìn, như thể mặt trời vẫn còn la đà trên những mái nhà.

“Tôi đang cố gắng không ngoi lên khỏi mặt nước,” Harry nói, lấy ra một bao thuốc lá.

“Ôôô, chơi chữ cơ đấy,” cô nói và vươn vai.

Tối nay cô không diện trang phục nào lạ lùng - chỉ mặc chiếc váy mùa hè màu xanh dương có cổ khoét sâu. Chiếc váy ôm lấy thân hình vòng nào ra vòng nấy và cô biết rõ điều đó. Anh chìa bao thuốc về phía cô, cô rút một điếu và đưa lên môi ngậm theo kiểu Harry chỉ có thể nói là trông rất hư hỏng.

“Sao cô lại đến đây?” anh hỏi. “Tôi tưởng cô hay mua đồ ở Kiwi?”

“Đóng cửa. Gần nửa đêm rồi còn gì. Tôi phải cất công tới tận khu nhà anh để tìm xem có cửa hàng nào còn mở không đấy.”

Nụ cười trên môi cô nở rộng, còn cặp mắt thì nheo lại, hệt như một chú mèo tinh nghịch.

“Khu vực phức tạp này không phải nơi thích hợp để một cô bé đi lang thang vào đêm thứ Sáu đâu,” Harry nói, châm thuốc cho cô. “Cần mua gì thì cứ phái bạn trai đi là được…”

“Đồ pha chế,” cô nói, giơ túi lên. “Để pha đồ uống cho đỡ mạnh. Mà hôn phu của tôi đi vắng rồi. Nếu nơi này phức tạp thế thì anh phải giải nguy cho cô bé rồi đưa đến nơi an toàn chứ nhỉ.”

Cô hất đầu về phía khu chung cư anh ở.

“Tôi có thể mời cô một tách cà phê,” anh nói.

“Ồ?”

“Nescafé. Tôi chỉ có món ấy thôi.”

Khi Harry đi vào phòng khách, tay cầm ấm nước sôi và cốc cà phê bằng thủy tinh, Vibeke Knutsen đang ngồi trên sofa, hai chân thu lại đặt dưới thân, giày để trên sàn. Làn da trắng sữa của cô nổi bật hẳn lên trong căn phòng tranh tối tranh sáng. Cô châm một điếu thuốc nữa, lần này là thuốc của cô. Một nhãn hiệu nước ngoài Harry chưa thấy bao giờ. Thuốc không có đầu lọc. Dưới ánh lửa lập lòe ở đầu diêm, anh có thể thấy lớp sơn móng chân màu đỏ đậm của cô đã sứt mẻ ít nhiều.

“Chẳng biết tôi còn có thể chịu đựng được đến bao giờ nữa,” cô nói. “Anh ta thay đổi rồi. Những lúc ở nhà anh ta luôn tỏ ra bứt rứt, không đi đi lại lại trong phòng khách thì ra ngoài tập thể dục. Cứ như thể anh ta chỉ muốn nhanh nhanh chóng chóng được bỏ chạy và đi công tác tiếp vậy. Tôi đã cố tìm cách nói chuyện với anh ta, nhưng anh ta toàn chặn họng tôi hoặc là chỉ nhìn tôi với vẻ hoàn toàn không hiểu gì. Bọn tôi đúng là hai con người đến từ hai hành tinh khác nhau.”

“Chính khoảng cách giữa hai hành tinh kết hợp với sức hút giữa chúng mới giúp chúng duy trì được quỹ đạo,” Harry nói, xúc vào cốc mấy thìa cà phê xay khô cong do để tủ lạnh.

“Lại chơi chữ nữa à?” Vibeke gỡ một sợi thuốc lá dính trên đầu lưỡi đỏ hồng, ướt át.

Harry khẽ cười. “Tôi đọc được câu này trong lúc ngồi ở một phòng chờ. Có lẽ tôi đã hy vọng đó là sự thật. Vì lợi ích của chính tôi.”

“Anh có biết điều lạ lùng nhất là gì không? Là anh ta không thích tôi. Thế mà tôi biết anh ta sẽ chả bao giờ chịu buông tha cho tôi.”

“Ý cô là sao?”

“Anh ta cần tôi. Tôi không rõ chính xác mục đích của anh ta là gì, nhưng có vẻ như anh ta đã để mất thứ gì đó nên mới cần tôi. Bố mẹ anh ta…”

“Làm sao?”

“Anh ta chẳng liên lạc gì với họ. Tôi chưa gặp họ bao giờ. Có khi họ còn chẳng biết đến sự tồn tại của tôi ấy chứ. Cách đây không lâu có một người đàn ông gọi điện đến xin gặp Anders. Tôi cảm nhận được ngay đó là bố anh ta. Nói chung anh có thể đoán ra qua cái cách các ông bố bà mẹ gọi tên con của mình. Một mặt, họ đã gọi cái tên đó quá nhiều lần nên nó là điều tự nhiên nhất trên đời. Nhưng mặt khác, nó cũng thân thương đến mức cái tên kia khiến con người họ bị phơi bày nên họ thốt ra nó rất nhanh, gần như là với vẻ ngượng ngùng. ‘Anders có nhà không?’ Khi tôi trả lời là để tôi đánh thức anh ta dậy, người đó bỗng dưng bắt đầu nói liến thoắng bằng tiếng nước ngoài, hoặc… không hẳn là tiếng nước ngoài, mà giống như kiểu anh và tôi hay nói trong lúc phải vội vã tìm lời vậy. Đại loại giống kiểu nói của những người theo đạo trong buổi tụ họp ở nhà nguyện trong lúc cao trào ấy.”

“Nói tiếng lạ phải không?”

“Ừ, chắc là vậy đấy. Anders lớn lên cùng những thứ như thế, dù anh ta chẳng bao giờ kể về chúng. Tôi nghe người đó nói một lúc. Ban đầu thỉnh thoảng có những từ như ‘satan’ và ‘sodom’. Nhưng càng về sau càng tục tĩu, đĩ điếm các kiểu. Thế nên tôi cúp máy.”

“Anders nói sao về chuyện đó?”

“Tôi chưa bao giờ kể lại chuyện đó cho anh ta.”

“Tại sao?”

“Tôi… nó giống như một lãnh địa tôi không bao giờ được phép đặt chân tới. Mà tôi cũng không muốn tới.”

Harry cầm cốc cà phê lên uống. Vibeke vẫn không đụng tới cốc của cô.

“Chẳng lẽ đôi lúc anh không thấy cô đơn sao, Harry?”

Anh ngước lên nhìn vào mắt cô.

“Đại loại thế. Anh không ước có người ở bên cạnh mình ư?”

“Đó là hai chuyện khác nhau. Cô đang ở bên một người mà vẫn cô đơn đấy thôi.”

Cô rùng mình như thể một luồng khí lạnh vừa thổi ngang qua phòng.

“Anh biết sao không?” cô nói. “Tôi cảm thấy muốn uống một ly.”

“Xin lỗi, thứ đó tôi hết mất rồi.”

Cô mở túi xách ra. “Lấy giúp tôi hai chiếc cốc nhé, anh bạn quý hóa?”

“Chúng ta chỉ cần một thôi.”

“Cũng được.”

Cô mở nắp chiếc bình đeo hông của mình, ngửa cổ và uống.

“Tôi tuyệt đối không được phép cử động,” cô vừa nói vừa cười. Một giọt rượu màu nâu lấp lánh chảy xuống cằm cô.

“Sao cơ?”

“Anders không thích tôi cử động. Tôi phải nằm im, không được nhúc nhích. Không được nói, không được rên rỉ. Phải vờ như đang ngủ. Anh ta bảo anh ta bị mất hứng khi tôi thể hiện niềm mê đắm.”

“Rồi sao?”

Cô uống một ngụm nữa rồi vừa đóng nắp bình lại vừa nhìn anh.

“Gần như là không thể.”

Cái nhìn trực diện đến nỗi Harry tự động hít một hơi sâu hơn một chút, và trong cơn bực bội, anh cảm nhận được mình đang từ từ cứng lên.

Cô nhướn một bên lông mày như thể cũng cảm nhận được điều đó.

“Lại đây ngồi trên sofa đi,” cô thì thầm.

Giọng cô đã trở nên cộc cằn và khàn hơn. Harry nhìn thấy động mạch màu xanh đang phình lên trên cái cổ trắng ngần của cô. Chỉ là phản xạ thôi mà, anh thầm nghĩ. Một chú chó tiết nước bọt trong thí nghiệm của Pavlov, tự động đứng lên khi nghe thấy tín hiệu có đồ ăn, một phản xạ có điều kiện, chỉ vậy thôi.

“E rằng tôi không thể,” anh nói.

“Anh sợ tôi à?”

“Phải,” Harry đáp.

Dư vị ngọt ngào đầy tiếc nuối lan tỏa nơi bụng dưới của anh, tiếng than không thành lời của ham muốn.

Cô phá lên cười, rồi im bặt khi nhìn vào mắt anh. Cô bĩu môi, nói bằng giọng nũng nịu, “Đi mà, Harry…”

“Tôi không thể. Cô rất tuyệt vời, nhưng…”

Nụ cười vẫn còn đó, nhưng cô chớp mắt như thể vừa phải nhận một cái bạt tai từ anh vậy.

“Cô không phải người tôi muốn,” Harry nói.

Ánh mắt cô dao động. Hai bên khóe miệng cô cong lên như sắp cười.

“Ha,” cô nói.

Câu nói ấy vốn có ý mỉa mai, đúng ra là một câu cảm thán đầy khoa trương, giả tạo. Thế nhưng khi được thốt ra, nó lại thành tiếng than thở đầy cam chịu và mệt mỏi. Vở kịch khép lại, cả hai đều đã quên mất lời thoại của mình rồi.

“Tôi xin lỗi,” Harry nói.

Lệ dâng đầy trong đôi mắt của cô.

“Ôi, Harry,” cô khẽ thì thầm.

Anh ước gì cô đừng nói ra điều ấy, để anh có thể yêu cầu cô ra về ngay lúc này.

“Bất kể thứ cô muốn ở tôi là gì đi chăng nữa, tôi đều không có,” anh nói. “Cô ấy biết. Và giờ thì cô cũng biết rồi đấy.”