← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 31 Thứ Bảy
“CÓ NGƯỜI ĐỂ GHÉT, CHẲNG PHẢI TUYỆT LẮM SAO?”

Lúc gần nửa đêm, Bjarne Møller lần thứ hai đối diện với đám nhà báo tụ tập trước cổng vào Sở Cảnh sát. Chỉ những ngôi sao sáng nhất mới đủ sức chiếu xuyên qua màn khí nóng mờ ảo đang phủ khắp Oslo, vậy nhưng Møller vẫn phải giơ tay che đi ánh đèn flash và đèn chụp ảnh. Những câu hỏi ngắn và đột ngột như dao đâm tới tấp trút xuống đầu ông.

“Từng người hỏi một,” Møller nói, chỉ vào một cánh tay đang giơ lên. “Và làm ơn xưng danh.”

“Roger Gjendem, Aftenposten. Sven Sivertsen đã nhận tội chưa?”

“Lúc này nghi phạm đang được thẩm vấn bởi người đứng đầu cuộc điều tra, thanh tra Tom Waaler. Chừng nào những cuộc thẩm vấn còn chưa kết thúc, tôi không thể trả lời câu hỏi của anh được.”

“Có đúng là cảnh sát đã tìm thấy vũ khí và kim cương trong va li của Sivertsen không? Và những viên kim cương đó giống hệt như những viên được phát hiện trên thi thể các nạn nhân?”

“Tôi có thể xác nhận đó là thông tin chính xác. Vâng, mời người ở đằng kia.”

Một giọng phụ nữ cất lên. “Trước đó trong buổi tối nay ông nói rằng Sven Sivertsen sống tại Praha, và tôi đã tìm được địa chỉ chính xác của hắn. Đó là một nhà trọ, nhưng họ nói hắn đã rời bỏ căn nhà này từ hơn một năm trước và dường như không một ai biết hắn đang sống ở đâu. Cảnh sát có biết không?”

Những phóng viên khác thi nhau ghi chép trong khi Møller còn chưa trả lời.

“Hiện tại thì chưa.”

“Tôi đã tìm cách nói chuyện với vài người sống tại đó,” người phụ nữ nói bằng giọng không giấu được niềm tự hào. “Họ kể rằng Sven Sivertsen có một cô bạn gái trẻ. Họ không biết tên cô ta, nhưng có người bảo hình như cô ta là gái điếm. Các ông có biết điều này không?”

“Giờ chúng tôi mới biết,” Møller nói. “Nhưng chúng tôi rất cảm ơn sự giúp đỡ của cô.”

“Cả chúng tôi nữa,” ai đó đứng trong đám đông lớn tiếng nói, kéo theo tràng cười thô kệch của toàn bộ đám đàn ông. Người phụ nữ mỉm cười vẻ bối rối.

Một giọng vùng Østfold hỏi, “Dagbladet. Mẹ hắn đón nhận chuyện này như thế nào?”

Møller nhìn vào mắt gã nhà báo, ông phải cắn môi dưới để khỏi bật ra tiếng gầm gừ giận dữ.

“Việc đó tôi không thể đưa ra nhận xét. Vâng. Xin mời.”

“Dagsavisen. Chúng tôi đang không hiểu làm thế nào thi thể Marius Veland có thể bị giấu trên tầng áp mái tại ký túc xá của cậu ta suốt bốn tuần, trong mùa hè nóng kỷ lục như thế này, mà không một ai phát hiện ra.”

“Chúng tôi vẫn chưa xác định được chính xác thời điểm vụ án này xảy ra, nhưng có vẻ hung thủ đã dùng một loại túi nhựa tương tự như túi đựng vét, sau đó dán kín hơi lại trước khi” - Møller cố tìm từ hợp lý để diễn đạt - “treo lên tủ quần áo trên tầng áp mái của khu ký túc xá.”

Tiếng rì rầm nho nhỏ lan khắp đám nhà báo, Møller tự hỏi liệu có phải ông đã tiết lộ quá nhiều chi tiết rồi không.

Roger Gjendem lại hỏi tiếp.

Møller nhìn miệng anh ta cử động, bên tai văng vẳng giai điệu của ca khúc cú lởn vởn trong tâm trí ông. I Just Called to Say I Love You. Cô ta đã biểu diễn rất hay trong chương trình Beat for Beat, chị gái của Lisbeth, người diễn thay vai chính trong vở nhạc kịch, tên cô ta là gì ấy nhỉ?

“Xin lỗi,” Møller nói. “Anh vui lòng nhắc lại câu hỏi được không?”

Harry và Beate ngồi trên bức tường thấp xa xa phía sau đám nhà báo đang xô đẩy lẫn nhau, cùng nhau quan sát và hút thuốc. Beate từng tuyên bố rằng cô chỉ hút thuốc vào những dịp tụ tập và nhón lấy một điếu trong bao thuốc Harry vừa mua.

Bản thân Harry thì lại chẳng hứng thú gì với việc tụ tập cả. Anh chỉ thèm ngủ.

Họ trông thấy Tom Waaler bước ra khỏi cổng chính, mỉm cười trong ánh đèn tán dương nháy sáng lia lịa. Những bóng đen nhún nhảy theo vũ điệu chiến thắng trên tường của Sở Cảnh sát.

“Giờ thì anh ta nổi tiếng rồi,” Beate nói. “Người dẫn dắt cuộc điều tra và đơn thương độc mã bắt giữ tên Sát nhân Giao hàng.”

“Hai tay hai súng phải không?” Harry mỉm cười.

“Ừ, hệt như trong phim Viễn Tây. Mà anh nói xem, tại sao lại đi yêu cầu đối tượng buông vũ khí trong khi họ không cầm món gì trên tay?”

“Có thể Waaler muốn nói tới vũ khí Sivertsen đang mang theo. Là tôi, tôi cũng sẽ làm vậy.”

“Tất nhiên, nhưng anh có biết chúng tôi tìm thấy súng của hắn ở đâu không? Trong va li.”

“Biết đâu Waaler cho rằng Sivertsen là sát thủ mau lẹ nhất Viễn Tây có thể rút súng từ trong va li dựng thẳng đứng thì sao.”

Beate bật cười. “Xong việc anh sẽ qua uống ly bia chứ?”

Ánh mắt họ giao nhau và nụ cười của cô bỗng trở nên cứng đờ khi sắc đỏ ủng lan ra trên mặt và cổ cô.

“Tôi không có ý…”

“Không sao. Cô ăn mừng thay cho cả hai ta cũng được, Beate à. Tôi làm xong phần việc của mình rồi.”

“Nhưng dù sao, anh vẫn có thể đi cùng mọi người mà?”

“Tôi không nghĩ vậy. Đây là vụ án cuối cùng tôi làm.”

Harry búng điếu thuốc, nó bay vèo đi như con đom đóm trong màn đêm.

“Bắt đầu từ tuần sau, tôi sẽ không còn là cảnh sát nữa. Đáng lẽ tôi phải cảm thấy nên ăn mừng mới đúng, nhưng không.”

“Sau này anh định làm gì?”

“Một việc gì đó khác.” Harry đứng dậy. “Một việc hoàn toàn khác.”

Waaler đuổi kịp Harry ở bãi đỗ xe.

“Sao về sớm vậy, Harry?”

“Mệt. Sự nổi tiếng có hương vị thế nào?”

“Chẳng qua chỉ là vài tấm ảnh đăng báo thôi. Chính anh cũng từng trải qua rồi, nên anh biết nó như thế nào mà.”

“Nếu anh đang ám chỉ cái lần ở Sydney, thì báo chí đã tô vẽ tôi thành kẻ hiếu chiến chỉ vì tôi bắn chết tên hung thủ đấy. Còn anh thì bắt sống được gã kia. Anh mới là người hùng cảnh sát mà nền dân chủ xã hội muốn có.”

“Câu này hình như có mùi mỉa mai xíu xiu nhỉ?”

“Không hề.”

“Thôi được. Tôi không quan tâm họ muốn biến ai thành người hùng. Những gì tôi quan tâm chỉ là, nếu điều đó giúp cải thiện hình ảnh của ngành thì họ cứ việc lãng mạn hóa những người như tôi một cách đầy giả tạo cũng chả sao. Cả Sở đều biết lần này ai mới là người hùng thực sự mà.”

Harry rút chùm chìa khóa xe và dừng lại đằng trước chiếc Escort trắng của mình.

“Đó là điều tôi muốn nói, Harry. Thay mặt cho tất cả những người đã làm việc cùng anh. Anh mới là người phá được vụ án này, không phải tôi hay bất kỳ ai khác.”

“Tôi chỉ đang làm việc của mình thôi, không phải sao.”

“Việc của anh, đúng vậy. Đó cũng chính là chuyện tôi từng muốn trao đổi với anh. Chúng ta vào xe ngồi một lát nhé?”

Trong xe có mùi xăng ngòn ngọt. Harry đoán là có bộ phận nào đó bị gỉ nên gây ra lỗ thủng. Waaler khước từ điếu thuốc anh mời.

“Nhiệm vụ đầu tiên dành cho anh đã được thu xếp rồi,” Waaler nói. “Việc này không dễ và không phải không nguy hiểm, nhưng nếu anh hoàn thành được, chúng tôi sẽ châp thuận để anh trở thành cộng sự chính thức.”

“Nhiệm vụ gì?” Harry hỏi, phả khói vào gương chiếu hậu.

Waaler lướt đầu ngón tay trên những sợi dây điện thò ra khỏi cái hốc trên bảng điều khiển, nơi chiếc radio từng ngự trị.

“Trông Marius Veland thế nào?” anh ta hỏi.

“Sau bốn tuần bị nhét trong túi nhựa, anh nghĩ trông cậu ta thế nào?”

“Cậu ta mới hai mươi tư tuổi, Harry ạ. Hai mươi tư tuổi đầu. Anh còn nhớ ở tuổi ấy anh đã mơ mộng những gì, trông đợi những gì ở cuộc sống không?”

Harry nhớ chứ.

Waaler nở nụ cuối buồn.

“Mùa hè năm tôi hai mươi hai tuổi, tôi đã cùng Geir và Solo làm một chuyến du lịch xuyên châu Âu bằng vé tàu Inter-rail. Cuối cùng bọn tôi đặt chân đến vùng duyên hải Riviera của Italy, nhưng giá phòng khách sạn ở đó quá cao nên ba đứa không đủ tiền thuê. Dù hôm bọn tôi khởi hành, Solo đã vét sạch số tiền có trong ngăn kéo thu ngân ở quầy hàng của bố nó để mang theo. Vậy là cả bọn dựng lều trên bãi biển tá túc qua đêm, lang thang ở đó suốt mấy ngày để ngắm đàn bà con gái, xe hơi và tàu thuyền. Thật lạ là bọn tôi cứ cảm thấy như mình giàu lắm vậy. Vì mới có hai mươi hai tuổi thôi. Bọn tôi đã nghĩ mọi thứ trên đời đều là của mình, giống như những món quà dưới gốc cây thông Noel chỉ chờ bọn tôi đến lấy. Camilla Loen, Barbara Svendsen, Lisbeth Barli, tất cả bọn họ đều là những người trẻ. Có thể họ còn chưa chạm tới giai đoạn thất vọng nữa, Harry ạ. Có thể họ vẫn còn đang đợi Giáng sinh.”

Waaler đưa tay vuốt bảng điều khiển.

“Tôi vừa thẩm vấn Sven Sivertsen xong, Harry ạ. Báo cáo anh đọc sau cũng được, nhưng những gì tôi có thể nói với anh lúc này là mọi chuyện sắp tới sẽ diễn ra như thế nào. Hắn là một con quỷ máu lạnh, mưu mô. Hắn sẽ giả điên, sẽ tìm cách qua mặt bồi thẩm đoàn và gieo vào lòng các chuyên gia tâm lý đủ mối nghi ngờ để họ không dám tống hắn vào tù. Tóm lại, hắn sẽ được chuyển đến bệnh viện tâm thần, ở đó hắn sẽ chứng tỏ cho họ thấy bệnh tình cải thiện vượt bậc để rồi được thả chỉ sau vài năm. Bây giờ người ta làm như thế đấy, Harry. Đó là cách chúng ta xử lý những kẻ rác rưởi nhan nhản quanh mình. Chúng ta không dọn dẹp, cũng chẳng vứt nó đi, chỉ thay đổi vị trí của nó chút ít thôi. Và chúng ta không nhận ra rằng, khi ngôi nhà trở thành hang ổ hôi thối đầy chuột bọ thì đã quá muộn màng. Anh cứ nhìn những quốc gia mà ở đó vấn nạn tội phạm đã ăn sâu bám rễ mà xem. Đáng tiếc thay, chúng ta đang sống ở một đất nước hiện giàu có tới mức đám chính khách chỉ biết lao vào thi thố để xem ai là người từ bi nhất. Chúng ta đã trở nên mềm yếu và tử tế đến nỗi chẳng ai dám đứng ra gánh vác những công việc không lấy gì làm dễ chịu nữa. Anh hiểu chứ?”

“Đến giờ thì vẫn hiểu.”

“Đó là lúc cần đến những người như chúng tôi, Harry ạ. Chúng tôi gánh vác trách nhiệm đó. Chúng tôi coi việc của mình là quét cho sạch những thứ mà xã hội không dám nhúng tay vào.”

Harry rít mạnh đến nỗi nhăn cả giấy cuốn điếu thuốc.

“Ý anh là sao?” anh hỏi, hít một hơi thuốc.

“Sven Sivertsen,” Waaler nói, đảo mắt canh chừng qua cửa sổ. “Kẻ rác rưới. Anh phải loại bỏ hắn.”

Harry gập người ho sặc sụa, đẩy khói thuốc ra khỏi hai lá phổi.

“Đó là những gì các anh làm ư? Vậy còn những việc khác thì sao? Buôn lậu chẳng hạn?”

“Mọi việc chúng tôi làm đều là để có tiền phục vụ cho mục đích đó.”

“Cho thánh đường của anh hả?”

Waaler chậm rãi gật đầu. Thế rồi anh ta nhoài người qua chỗ Harry và Harry cảm thấy anh ta vừa bỏ vật gì đó vào túi áo khoác của anh.

“Đây là một ống thuốc,” Waaler nói. “Có tên là ‘Phước lành của Joseph’. Chúng do KGB phát triển để ám sát các mục tiêu trong thời kỳ chiến tranh Afghanistan, nhưng được biết đến nhiều nhất như một phương thức tự sát của các chiến binh Chechnya khi bị bắt. Loại thuốc này gây ngừng thở, nhưng khác với hydro xyanua, nó không có mùi, cũng chẳng có vị. Ống thuốc có thể đặt vừa trong trực tràng hoặc dưới lưỡi. Nếu hòa nó với nước và cho hắn uống, chỉ vài giây sau hắn sẽ chết. Anh hiểu nhiệm vụ rồi chứ?”

Harry ngồi thẳng dậy. Con ho đã qua, nhưng nước mắt anh vẫn còn đó.

“Tức là phải làm sao cho giống tự sát?”

“Những nhân chứng trong khu tạm giam sẽ xác nhận họ đã quên kiểm tra trực tràng của Sivertsen khi tống giam hắn. Mọi chuyện được thu xếp đâu vào đấy cả rồi. Anh khỏi lo.”

Harry hít một hơi thật sâu. Hơi xăng bốc lên làm anh thấy nôn nao. Tiếng còi hụ réo inh ỏi rồi tắt lịm ở đằng xa.

“Lúc đó anh đã định bắn hắn, đúng không?”

Waaler không đáp. Harry trông thấy một xe cảnh sát dừng lại trước cổng khu tạm giam.

“Thực ra anh chưa bao giờ muốn bắt sống hắn. Anh cầm hai khẩu súng với mục đích đặt một khẩu vào tay hắn sau khi bắn, để dàn dựng như thể hắn đã đe dọa anh. Anh bắt Beate và bà mẹ ở yên trong bếp, sau đó anh la lớn để về sau họ có thể làm chứng rằng họ đã nghe thấy tiếng anh cảnh cáo, và anh hành động đơn thuần chỉ vì tự vệ. Tiếc rằng Beate lại đi ra hành lang và thế là kế hoạch của anh đổ sông đổ bể.”

Waaler thở dài đánh thượt.

“Chúng tôi đang dọn dẹp, Harry ạ. Cũng như việc anh loại bỏ tên sát nhân ở Sydney ấy. Hệ thống pháp luật chẳng được tích sự gì, nó được thiết lập trong một thời kỳ khác, một thời kỳ trong sạch hơn. Và chừng nào điều đó còn chưa thay đổi thì chừng ấy chúng tôi không thể trơ mắt đứng nhìn Oslo rơi vào tay lũ tội phạm. Nhưng những điều này chắc chắn anh cũng biết cả rồi đúng không, vì ngày nào anh chẳng được chứng kiến.”

Harry chăm chú nhìn ánh thuốc lập lòe trong bóng tối. Rồi anh gật đầu.

“Tôi hỏi cũng chỉ vì muốn hiểu được bức tranh tổng thể thôi,” anh nói.

“Được rồi, Harry, anh nghe đây. Sven Sivertsen bị giam ở phòng số chín của khu tạm giam cho đến hết đêm mai. Nói cách khác là tới sáng thứ Hai. Sau đó hắn sẽ được chuyển đến nhà tù an ninh tại Ullersmo, khi ấy chúng ta sẽ không còn cơ hội tiếp cận hắn. Chìa khóa buồng giam số chín nằm trên bàn lễ tân bên trái. Hạn chót của anh là nửa đêm ngày mai, Harry. Sau đó tôi sẽ gọi điện đến khu tạm giam để nhận được thông báo Sát nhân Giao hàng đã phải nhận sự trừng phạt thích đáng. Anh hiểu rồi chứ?”

Harry lại gật.

Waaler mỉm cười.

“Anh biết sao không, Harry? Dù tôi mừng vì cuối cùng chúng ta cũng đứng chung một chiến tuyến, nhưng một phần nhỏ trong tôi có chút buồn. Anh biết vì sao không?”

Harry nhún vai. “Vì anh tưởng trên đời có những thứ mà dù có tiền cũng không thể mua được?”

Waaler phá lên cười.

“Được đấy, Harry. Tôi buồn vì cảm thấy mình vừa mất đi một đối thủ giỏi. Chúng ta rất giống nhau. Anh hiểu ý tôi đang nói tới là gì, đúng chứ?”

“‘Có người để ghét, chẳng phải tuyệt lắm sao?’”

“Gì cơ?”

“Michael Krohn. Ban nhạc Raga Rockers.”

“Hai mươi bốn tiếng đồng hồ, Harry ạ. Chúc may mắn.”