PHẦN NĂM
CHƯƠNG 32 Chủ nhật
CHIM ÉN
Rakel đứng ngắm mình trước tấm gương trong phòng ngủ. Cửa sổ đang mở để cô có thể nghe thấy khi có tiếng ô tô và tiếng chân bước trên lối đi rải sỏi dẫn vào nhà. Cô đưa mắt nhìn tấm ảnh chụp bố mình đặt trên bàn trang điểm trước gương. Lần nào cũng thế, cô luôn cảm thấy trong ảnh trông ông trẻ trung và chân chất biết chừng nào.
Vẫn như mọi khi, cô cài một chiếc trâm lên để cố định mái tóc vấn. Có nên đổi kiểu khác không nhỉ? Chiếc váy cô đang mặc là của mẹ cô, một chiếc váy bằng vải muslin màu đỏ đã được cô sửa lại đôi chút. Cô hy vọng cách ăn vận của mình không đến nỗi quá cầu kỳ. Hồi cô còn nhỏ, bố cô thường kể cho cô nghe về lần đầu tiên ông nhìn thấy mẹ cô mặc chiếc váy này, câu chuyện huyền diệu tựa cổ tích ấy Rakel nghe hoài mà chẳng bao giờ biết chán.
Rakel tháo chiếc trâm ra rồi khẽ lắc đầu để những lọn tóc sẫm màu rủ xuống ôm lấy khuôn mặt. Chuông cửa réo inh ỏi. Có tiếng chân Oleg chạy trên hành lang. Cô nghe thấy vẻ hồ hởi trong giọng nói của thằng bé và tiếng cười trầm trầm của Harry. Kiểm tra lại mình trong gương lần cuối, cô có thể cảm nhận được tim mình đang đập rộn ràng hơn. Cô đi ra cửa.
“Mẹ ơi, chú Harry…”
Tiếng gọi của Oleg bỗng lặng đi khi Rakel xuất hiện ở đầu cầu thang. Cô thận trọng bước một bước ở bậc trên cùng - đôi giày cao gót đột nhiên trở nên chao đảo, loạng choạng dưới chân cô - nhưng rồi cô lấy lại được thăng bằng và ngẩng lên. Oleg đang đứng ở chân cầu thang, há hốc miệng nhìn cô đăm đăm. Bên cạnh Oleg là Harry. Đôi mắt anh sáng rực đến nỗi cô có thể cảm nhận được sức nóng tỏa ra từ chúng đang thiêu đốt hai má mình. Trên tay anh đang cầm một bó hoa hồng.
“Mẹ đẹp quá,” Oleg thì thầm.
Rakel nhắm mắt lại. Cửa sổ hai bên đã hạ xuống, làn gió khẽ vờn mái tóc và làn da của cô trong lúc Harry cẩn thận lái chiếc Escort đi qua những khúc cua trên con đường xuống Holmenkollen. Trong xe vẫn còn phảng phất mùi nước vệ sinh nội thất. Rakel lật tấm chắn nắng xuống để kiểm tra son môi và nhận thấy ngay cả tấm gương nhỏ ở bên trong cũng sạch bóng.
Cô mỉm cười nhớ lại ngày đầu tiên họ gặp nhau. Anh đã đề nghị đưa cô đi làm và cô phải xuống giúp anh đẩy xe thì nó mới chịu khởi động.
Thật khó tin khi đến tận bây giờ anh vẫn còn giữ được cái xe cà tàng ấy.
Cô lén quan sát anh qua khóe mắt.
Cả sống mũi cao kia nữa. Cánh môi cong mềm mại, gần như nữ tính, trái ngược với những đường nét nam tính rắn chắc. Và đôi mắt anh. Anh gần như không có diện mạo ưa nhìn, không đẹp theo kiểu cổ điển. Tuy thế, ở anh… nói thế nào nhỉ… ở anh toát lên một vẻ đẹp rất đời. Rất đời. Sự cuốn hút nằm ở đôi mắt anh. Mà không, không phải đôi mắt. Là thần thái của đôi mắt ấy mới đúng.
Anh quay sang nhìn cô như thể những tâm tư của cô đã bị anh nghe thấu.
Anh mỉm cười. Chính là nó. Nét dịu dàng trẻ thơ trong đôi mắt anh. Tựa như phía sau chúng có một chú bé đang ngồi, cất tiếng cười với cô. Cái cách anh nhìn cô ẩn chứa sự chân thành đáng tin cậy. Một sự thành thật không thể nào vấy bẩn. Trung thực. Chính trực. Đó là cái nhìn khiến người ta có thể tin tưởng. Hoặc muốn tin tưởng.
Rakel mỉm cười đáp lại.
“Em đang nghĩ gì vậy?” anh hỏi, ánh mắt lại hướng về nhìn đường.
“Mấy chuyện linh tinh ấy mà.”
Những tuần vừa qua, cô đã có nhiều thời gian suy nghĩ. Đủ để nhận ra Harry chưa bao giờ hứa hẹn những điều anh không thể thực hiện. Anh chưa từng hứa sẽ không suy sụp thêm lần nữa. Chưa từng hứa công việc sẽ không còn là mối quan tâm hàng đầu trong đời anh. Chưa từng hứa mối quan hệ với anh sẽ dễ dàng. Đó chỉ là những điều anh tự hứa với bản thân mà thôi. Giờ cô có thể hiểu ra rồi.
Olav Hole và Sis đang chờ sẵn ở cửa khi xe dừng lại trước ngôi nhà ở Oppsal. Harry đã kể về nó nhiều đến mức đôi lúc Rakel còn tưởng chính mình cũng từng lớn lên trong ngôi nhà nhỏ ấy.
“Chào Oleg,” Sis nói, trông rất người lớn và ra dáng đàn chị. “Nhà cô làm món thịt viên đấy.”
“Thế ạ?” Oleg sốt ruột đẩy ghế của Rakel từ phía sau để tìm cách xuống xe.
Trên đường về, Rakel ngả đầu ra ghế và nói với anh rằng cô nghĩ anh cũng đẹp trai đấy, nhưng chớ vì thế mà sinh ra tự mãn. Anh đáp mình thấy cô còn đẹp hơn nhiều và cô có thể tự mãn bao nhiêu cũng được. Khi xe leo lên sườn núi Ekeberg, bỏ lại thành phố Oslo bên dưới, cô chợt trông thấy mấy hình chữ V màu đen cắt ngang nền trời dưới kia.
“Chim én đấy,” Harry nói.
“Chúng bay thấp quá,” cô nói. “Như vậy nghĩa là trời sắp mưa đúng không anh?”
“Ừ, dự báo sẽ có mưa.”
“Ồ, tuyệt thật. Có phải vì thế mà chúng bay lượn ngoài trời không, để báo cho mọi người biết?”
“Không đâu,” Harry nói. “Chúng đang làm một việc khác hữu ích hơn nhiều. Chúng đang dọn sạch không trung, loại bỏ lũ côn trùng. Sâu bọ, vân vân.”
“Nhưng sao chúng phải vội vã thế? Trông chúng gần như đang bấn loạn, không phải sao?”
“Đấy là vì chúng không có nhiều thời gian. Lúc này côn trùng đang rời tổ, nhưng khi mặt trời lặn, cuộc săn sâu bọ của bầy én phải kết thúc.”
“Sẽ kết thúc, ý anh là vậy hả?”
Cô quay sang phía anh. Anh đang nhìn thẳng về phía trước, chìm đắm trong suy tư.
“Harry?”
“Ừ. Xin lỗi em,” anh nói. “Vừa rồi anh mải nghĩ linh tinh.”
Khán giả đến xem kịch đã đứng túm tụm trên quảng trường được lắp mái che phía trước Nhà hát Quốc gia. Những người nổi tiếng đang chuyện trò cùng nhau, trong lúc đám nhà báo lăng xăng khắp nơi, máy ảnh không ngừng tác nghiệp. Ngoài mấy tin đồn về mối tình của cặp đôi nào đó trong hè này, chủ đề chính cho mọi người bàn tán vẫn y hệt: vụ bắt giữ tên Sát nhân Giao hàng ngày hôm qua.
Bàn tay Harry khẽ đặt lên eo Rakel khi cả hai vội vã tiến về phía cổng vào. Cô có thể cảm nhận được sức nóng từ những đầu ngón tay anh truyền đến qua lớp vải mỏng. Một khuôn mặt bỗng hiện ra chặn đường họ.
“Roger Gjendem của tờ Aftenposten. Xin lỗi đã làm phiền anh chị, nhưng chúng tôi đang tiến hành khảo sát ý kiến khán giả về cuộc bắt giữ hung thủ bắt cóc nữ diễn viên được chọn đóng vai chính trong vở kịch tối nay.”
Họ dừng lại và Rakel nhận thấy bàn tay đặt trên lưng mình đột nhiên không còn ở đó nữa.
Nụ cười cứng đơ vẫn ngự trên khuôn mặt gã nhà báo, nhưng cặp mắt gã đang đảo láo liên.
“Chúng ta từng gặp nhau rồi, thưa thanh tra Hole. Tôi phụ trách chuyên mục hình sự. Anh và tôi có nói chuyện một vài lần lúc anh về nước sau khi phá xong vụ án ở Sydney. Anh từng bảo tôi là nhà báo duy nhất trích dẫn nguyên văn lời anh. Giờ anh nhớ ra tôi rồi chứ?”
Harry trầm ngâm quan sát khuôn mặt Roger Gjendem và gật đầu.
“Ừm. Giờ thôi mục hình sự rồi à?”
“Ấy không, không!” Gã nhà báo lắc đầu quầy quậy. “Thiếu người nên tôi làm tạm thôi. Đang kỳ quốc lễ mà. Có thể cho tôi một lời nhận xét từ phía thanh tra cảnh sát Harry Hole được không?”
“Không.”
“Không ư? Vài từ thôi cũng không được sao?”
“Ý tôi là, không, tôi không phải cảnh sát,” Harry nói.
Gã nhà báo tỏ vẻ sửng sốt.
“Nhưng tôi đã thấy anh…”
Harry liếc nhìn nhanh xung quanh rồi rướn người tới trước.
“Anh có danh thiếp không?”
“Có…”
Gjendem đưa cho anh tấm danh thiếp màu trắng có in tên tờ báo Aftenposten bằng phông chữ Gothic màu xanh dương, Harry cất nó vào túi quần sau.
“Hạn nộp bài là mười một giờ.”
“Để xem,” Harry nói.
Roger Gjendem sững lại với vẻ mặt bối rối trong lúc Rakel bước lên bậc tam cấp cùng với những ngón tay ấm áp của Harry trở về vị trí cũ.
Một người đàn ông râu ria xồm xoàm đang đứng ở cổng nhà hát mỉm cười với họ qua làn nước mắt. Rakel nhận ra khuôn mặt ấy qua những bài báo đã đọc. Ông ta là Wilhelm Barli.
“Thấy hai người cùng đến dự thế này tôi mừng lắm,” ông ta oang oang nói và dang rộng vòng tay. Harry ngần ngừ giây lát, nhưng cuối cùng vẫn không thoát.
“Hẳn cô là Rakel.”
Wilhelm Barli nháy mắt với cô qua vai Harry trong lúc ôm lấy anh chàng cảnh sát cao nghều như thể con gấu bông thất lạc ông ta vừa mới tìm lại được.
“Chuyện vừa rồi là sao?” Rakel hỏi khi họ tìm thấy chỗ ngồi ở hàng ghế thứ tư.
“Cách biểu lộ tình cảm giữa đàn ông với nhau,” Harry nói. “Ông ta là dân nghệ sĩ mà.”
“Không phải điều đó. Mà là chuyện anh bảo mình không làm cảnh sát nữa kìa.”
“Hôm qua là ngày làm việc cuối cùng của anh với tư cách cảnh sát rồi.”
Cô nhìn anh chằm chằm. “Sao anh không nói gì với em?”
“Anh có nói rồi đấy chứ. Cái hôm ở trong vườn ấy.”
“Thế bây giờ anh sẽ làm gì?”
“Làm việc khác.”
“Việc gì?”
“Một việc hoàn toàn khác. Có người bạn ngỏ lời mời anh và anh đã đồng ý. Hy vọng sắp tới anh sẽ có khoảng thời gian dễ chịu hơn. Anh sẽ kể cho em nghe chuyện đó sau.”
Rèm được kéo lên.
Tiếng vỗ tay vang lên như sấm khi rèm hạ xuống và vẫn tiếp tục kéo dài đến gần mười phút với độ cuồng nhiệt không hề giảm.
Dàn diễn viên đã lui vào rồi lại trở ra theo đội hình thay đổi liên tục, cho tới khi những kiểu chào đã tập dượt đều được đem ra dùng hết và họ chỉ còn biết đứng yên đón nhận tràng vỗ tay của khán giả. Những tiếng “Bravo” vang vọng bốn bề mỗi lần Toya Harang bước lên cúi chào, và cuối cùng, bất kỳ ai có tham gia đóng góp cho vở kịch dù ít hay nhiều cũng được gọi lên sân khấu, Wilhelm Barli ôm ghì lấy Toya, cả diễn viên lẫn khán giả đều nước mắt giàn giụa.
Đến Rakel cũng phải rút khăn mùi soa ra trong lúc siết chặt lấy bàn tay Harry.
“Trông hai người lạ lắm,” Oleg nói vọng lên từ ghế sau. “Đang có chuyện bất thường hay sao?”
Rakel và Harry đồng loạt ngoái lại nhìn.
“Hai người lại làm bạn với nhau rồi à? Có phải thế không ạ?”
Rakel mỉm cười. “Bọn mẹ đã bao giờ nghỉ chơi đâu, Oleg.”
“Chú Harry?”
“Dạ, sếp?” Harry nhìn cậu nhóc qua gương.
“Thế nghĩa là sắp tới chú cháu mình lại được đi xem phim phải không ạ? Phim dành cho con trai ấy?”
“Có thể. Nếu đó là một bộ phim dành cho con trai ổn.”
“Ô, hay nhỉ,” Rakel nói. “Thế tôi thì tính sao đây?”
“Mẹ có thể chơi cùng ông Olav và cô Sis,” Oleg hào hứng nói. “Vui cực mẹ ạ. Ông Olav còn dạy con chơi cờ nữa.”
Harry đánh xe lên lối xe ra vào và dừng lại trước nhà. Anh vẫn để máy chạy. Rakel đưa Oleg chìa khóa nhà và mở cửa cho thằng bé ra trước. Hai người nhìn theo nó băng băng chạy trên lối đi rải sỏi.
“Trời đất, thằng bé lớn quá rồi,” Harry nói.
Rakel tựa đầu vào vai Harry. “Anh có vào không?”
“Bây giờ thì không được rồi. Anh còn một việc cuối cùng cần giải quyết ở cơ quan.”
Cô đưa tay vuốt má anh. “Sau đó anh quay lại cũng được. Nếu anh muốn.”
“Ừm. Nhưng em đã suy nghĩ kỹ chưa, Rakel?”
Cô thở dài, nhắm mắt lại, đầu hơi ngả lên vai anh.
“Chưa. Và rồi. Việc đó hơi giống như nhảy ra khỏi căn nhà đang bốc cháy vậy. Thà rơi xuống còn hơn bị bỏng.”
“Ít nhất là cho tới khi em chạm đất.”
“Đến giờ em đã nhận ra rằng rơi và sống có những điểm tương đồng nhất định. Thứ nhất, cả hai đều là trạng thái tồn tại tạm thời.”
Hai người ngồi đó lặng lẽ nhìn nhau, lắng nghe tiếng động cơ ầm ì khi trầm khi bổng. Thế rồi Harry đưa ngón tay nhẹ nâng cằm cô lên và hôn cô. Cô có cảm giác mình đang mất dần khả năng tự chủ, sự cân bằng và điềm tĩnh, chỉ có một thứ duy nhất để cô có thể bấu víu, và anh khiến cô cảm thấy vừa như bị thiêu đốt vừa như đang bị rơi.
Cô không rõ nụ hôn kéo dài bao lâu khi anh nhẹ nhàng tách mình ra khỏi vòng tay cô.
“Em sẽ để ngỏ cửa,” cô khẽ thì thầm.
Lẽ ra cô phải biết đó là việc làm ngốc nghếch.
Lẽ ra cô phải biết đó là việc làm nguy hiểm.
Nhưng mấy tuần qua cô đã nghĩ quá nhiều rồi. Giờ cô không muốn nghĩ ngợi thêm gì nữa.