CHƯƠNG 35 Đêm Chủ nhật
CHUYỆN TẦM PHÀO THÚ VỊ
“Hy vọng anh thích Iggy Pop,” Harry vừa nói vừa còng tay Sven Sivertsen vào máy sưởi đặt dưới cửa sổ phòng 406. “Tạm thời chúng ta chỉ có thể ngắm nhìn mỗi cảnh này thôi.”
“Không đến nỗi quá tệ,” Sven nói, ngước nhìn tấm poster. “Tôi đã xem Iggy và The Stooges biểu diễn ở Berlin. Hồi đó chắc chủ nhân tấm poster này còn chưa chào đời ấy chứ.”
Harry xem đồng hồ đeo tay: một giờ mười phút. Waaler và người của hắn có thể đã lục soát căn hộ của anh trên phố Sofies và giờ đang kiểm tra các khách sạn. Không biết anh và Sivertsen còn trốn được bao lâu nữa. Harry ngồi thụp xuống sofa, đưa hai tay xoa mặt.
Quỷ tha ma bắt Sivertsen!
Kế hoạch lẽ ra rất đơn giản. Chỉ cần tìm một chỗ trú ngụ an toàn rồi gọi điện cho Bjarne Møller và người đứng đầu Kripos, để họ nghe lời khai của Sven Sivertsen qua điện thoại. Sau đó cho họ thời hạn ba giờ để bắt giữ Tom Waaler, nếu không anh sẽ gọi điện đến cơ quan báo chí thông báo tin tức động trời này. Lựa chọn thật đơn giản. Anh và Sivertsen chỉ việc trốn kỹ cho tới khi nhận được tin xác thực Tom Waaler đã vào nhà đá. Tiếp đó Harry sẽ gọi cho Roger Gjendem của tờ Aftenposten, bảo anh ta gọi điện cho sếp của Kripos để hỏi ông ta có bình luận gì về vụ bắt giữ không. Chỉ đến lúc đó - khi mọi chuyện đã được công khai trước bàn dân thiên hạ - thì Harry và Sivertsen mới bò ra khỏi nơi ẩn náu.
Nhưng chỉ vì Sivertsen và tối hậu thư của y mà mọi chuyện không còn xuôi chèo mát mái nữa rồi.
“Hay là…”
“Đừng cố nữa, Hole.”
Sivertsen thậm chí còn chẳng thèm nhìn anh.
Tên trời đánh!
Harry lại xem đồng hồ đeo tay. Anh biết mình phải chấm dứt hành động đó thôi. Phải tạm quên đi yếu tố thời gian để tập trung suy nghĩ, ổn định tinh thần, tìm cách ứng biến, và cân nhắc các lựa chọn mà tình cảnh này cho phép. Khốn kiếp thật!
“Thôi được rồi,” Harry nói, nhắm mắt lại. “Kể cho tôi nghe mọi chuyện từ phía anh đi.”
Cái còng kêu lanh canh khi Sven Sivertsen nhoài người về phía trước.
Harry đứng bên cửa sổ để ngỏ, vừa hút thuốc vừa lắng nghe giọng nói cao vút của Sven Sivertsen. Y bắt đầu bằng câu chuyện năm y mười bảy tuổi và lần đầu được gặp bố.
“Mẹ tôi tưởng tôi đang ở Copenhagen, nhưng thực ra tôi đã sang Berlin tìm ông ấy. Ông ấy đang sống tại một biệt thự cực kỳ bề thế có chó canh gác trong khu vực xung quanh công viên Tiergarten, nơi đặt trụ sở đại sứ quán các nước. Tôi đã thuyết phục người làm vườn đưa tôi đến tận cửa chính và rồi tôi nhấn chuông. Khi ông ấy ra mở, tôi tưởng như đang trông thấy bản sao của chính mình. Chúng tôi cứ đứng đó nhìn nhau chằm chằm. Thậm chí tôi không cần phải tự giới thiệu. Cuối cùng, ông ấy bắt đầu khóc và ôm chầm lấy tôi. Tôi ở lại với ông ấy trong bốn tuần. Ông ấy đã kết hôn và có ba người con. Tôi không hỏi ông ấy làm nghề gì và ông ấy cũng không nói. Randi, vợ ông ấy, lúc đó đang điều trị tại một trung tâm điều dưỡng đắt tiền trên núi Alps vì mắc phải một căn bệnh về tim vô phương cứu chữa. Nghe cứ như trong tiểu thuyết tình cảm lãng mạn vậy, và đôi khi tôi cũng thắc mắc có phải vì thế mà ông ấy nghĩ tới chuyện gửi bà ta đến đó hay không. Bố tôi yêu bà ta, điều đó thì không có gì phải nghi ngờ. Hay đúng hơn có lẽ không chỉ yêu mà còn thương. Khi ông ấy kể bà ta đang chết dần chết mòn, tôi nghe mà cứ ngỡ những lời đó xuất phát từ một cuốn tuần san dành cho phụ nữ. Một buổi chiều nọ, có một cô bạn của bà vợ ghé nhà chơi. Chúng tôi ngồi uống trà, bố tôi bảo ông trời đã mang Randi tới cho ông, nhưng vì họ yêu nhau thắm thiết, nồng nàn quá nên ông trời trừng phạt họ bằng cách để cho bà ta ngày một héo hon khi vẫn còn xuân sắc. Ông ấy có thể nói ra điều đó mà không hề đỏ mặt. Đêm đó, trằn trọc mãi mà không ngủ được nên tôi đã xuống nhà lục tủ rượu và bắt gặp bà bạn lén lút chuồn khỏi phòng ngủ của bố tôi.”
Harry gật đầu. Không khí ban đêm dường như lạnh lẽo hơn thì phải, hay đó chỉ là do anh tưởng tượng ra? Sivertsen đổi tư thế.
“Ban ngày chỉ có mỗi mình tôi ở nhà. Bố tôi có hai cô con gái, một đứa mười bốn, đứa kia mười sáu. Bodil và Alice. Trong mắt chúng, tôi dĩ nhiên là anh chàng vô cùng thú vị. Một ông anh cùng cha khác mẹ từ trên trời rơi xuống. Cả hai đều si mê tôi, nhưng tôi chọn Bodil, đứa nhỏ hơn. Một hôm, nó đi học về sớm, tôi đã dẫn nó vào phòng ngủ của bố. Lúc nó đang tháo bỏ ga trải giường dính máu sau khi hành sự thì tôi đuổi nó ra, khóa cửa lại, đưa chìa khóa cho người làm vườn và nhờ ông ta chuyển cho bố tôi. Sáng hôm sau, lúc dùng bữa điểm tâm, bố tôi hỏi tôi có muốn làm việc cho ông ấy không. Tôi đã dấn thân vào con đường buôn lậu kim cương như thế đấy.”
Nói đến đây, Sivertsen im lặng.
“Thời gian không còn nhiều đâu,” Harry nhắc.
“Tôi làm việc ở đầu cầu Oslo. Ngoài một vài sự nhầm lẫn thuở mới vào nghề dẫn đến hai bản án quản thúc tại gia, mọi việc qua tay tôi đều rất suôn sẻ. Biệt tài của tôi là qua cửa an ninh ở sân bay. Việc đó rất dễ. Chỉ cần ăn vận cho ra dáng đức cao vọng trọng và không tỏ ra sợ hãi là được. Mà tôi thì không sợ, tôi chả sợ cóc gì. Tôi từng đeo cổ cồn trắng của linh mục. Dĩ nhiên trò đó quá lộ liễu nên nhân viên hải quan có thể sẽ nghi ngờ ngay, nhưng vấn đề là ở chỗ phải biết cả cung cách đi lại, cách đặt tay, biểu cảm, kiểu tóc, kiểu giày mà linh mục thường chọn. Nếu nắm được những điều này thì anh gần như không bao giờ bị cản trở. Nhân viên hải quan có thể vẫn sẽ nghi ngờ, nhưng lý do để chặn linh mục lại kiểm tra sẽ khắt khe hơn. Nhân viên nào kiểm tra va li của linh mục mà không phát hiện ra bất cứ điều gì trong khi cho qua những tên hippy tóc dài thì chắc chắn sẽ trở thành đối tượng bị khiếu nại. Cơ cấu hải quan cũng giống như bao cơ quan khác mà thôi. Họ luôn cố gắng hết sức nhằm gây được ấn tượng tốt - dù là sai lầm - đối với người dân, để chứng tỏ họ luôn hoàn thành tốt bổn phận của mình.
“Bố tôi qua đời vì ung thư vào năm 1985. Bệnh tim nan y của Randi vẫn vô phương cữu chữa nhưng chưa đến mức khiến bà ta không thể quay về tiếp quản việc làm ăn. Tôi không biết bà ta có phát hiện ra tôi đã khiến Bodil mất trinh hay không, chỉ biết rằng chẳng bao lâu sau, tôi phát hiện mình mất việc. Bà ta nói bây giờ họ không muốn làm ăn trên địa bàn Na Uy nữa, nhưng bà ta không giao cho tôi việc gì khác. Sau vài năm thất nghiệp ở Oslo, tôi di cư sang Praha, mảnh đất vàng của dân buôn lậu sau khi Bức màn Sắt sụp đổ. Nhờ vốn tiếng Đức khá tốt mà tôi nhanh chóng tìm được chỗ đứng. Tiền kiếm nhanh, mà tiêu cũng nhanh không kém. Tôi kết bạn nhiều, nhưng chẳng gắn bó mật thiết với ai. Kể cả phụ nữ. Tôi không cần làm thế, anh biết vì sao không, Hole? Vì tôi phát hiện mình được thừa hưởng một món quà từ người cha - sự đa tình.”
Sivertsen hất đầu về phía tấm poster Iggy Pop.
“Đối với đàn bà, trên đời không có thứ thuốc kích thích nào mạnh mẽ hơn một người đàn ông đang yêu cả. Chuyên môn của tôi là phụ nữ có chồng - họ không gây nhiều rắc rối cho tôi sau đó. Khi tôi kẹt tiền, họ có thể là nguồn thu nhập đáng quý, tuy rằng ngắn ngủi. Và năm tháng cứ thế trôi qua không một chút lo toan. Hơn ba mươi năm cuộc đời tôi đã sống vô ưu như thế, chiếc giường là sân chơi quen thuộc, còn ‘thằng nhỏ’ giống như cây gậy chuyền tay.”
Sivertsen tựa đầu vào tường và nhắm mắt lại.
“Chắc hẳn nghe có vẻ khó tin, nhưng tôi xin thề mọi lời yêu đương đường mật tôi thốt ra đều chân thành hệt như những lời bố tôi nói với bà mẹ kế kia. Tôi đã trao cho họ tất cả những gì mình có, cho đến khi tình cạn thì tôi đẩy họ ra khỏi cửa. Tôi không đủ khả năng duy trì một cái nhà điều dưỡng. Mọi chuyện luôn kết thúc theo cách đó và tôi đã tưởng sẽ còn như thế mãi. Cho tới một ngày mùa thu, tôi bước vào quán cà phê ở khách sạn Grand Hotel Europa trên quảng trường Wenceslas và gặp được cô ấy. Eva. Phải, đó là tên nàng, và nghịch lý thực sự có tồn tại đấy, Hole ạ. Ấn tượng đầu tiên của tôi về nàng là nàng không đẹp mà cứ cư xử như thể là mình đẹp. Thế nhưng, những ai tin vào vẻ đẹp của bản thân thì đều là những người xinh đẹp cả. Vì vốn có tài sát gái nên tôi đã bước tới chỗ nàng ngồi. Nàng không thô lỗ đuổi tôi đi mà chỉ đáp lại tôi bằng thái độ lịch thiệp, xa cách, điều đó khiến tôi như phát điên.”
Sivertsen nở nụ cười thạo đời.
“Đối với đàn ông, trên đời không có thứ thuốc kích thích nào mạnh mẽ hơn một người đàn bà không yêu mình. Nàng kém tôi những hai mươi sáu tuổi, sở hữu một phong cách tôi không bao giờ có được, và - hơn hết là - nàng không cần tôi. Nàng có thể tiếp tục làm nghề của mình, cái nghề nàng tưởng tôi không biết, đó là phục vụ và mua vui cho những gã doanh nhân người Đức.”
“Thế sao cô ấy lại không làm nữa?” Harry hỏi, phả khói về phía Iggy.
“Nàng không có cơ hội. Tôi đã yêu nàng, tình yêu đó đủ cho cả hai người đàn ông, nhưng tôi muốn nàng chỉ thuộc về tôi, và Eva cũng giống như phần lớn phụ nữ khi không yêu - nàng coi trọng điều kiện vững chắc về kinh tế. Vì vậy, để có được nàng cho riêng mình, tôi phải tìm cách kiếm tiền. Buôn lậu kim cương máu từ Sierra Leone tuy có mức độ rủi ro thấp, nhưng thu nhập không đủ để giúp tôi trở thành người đàn ông giàu sang với sức hút khôn cưỡng. Ma túy thì lại rủi ro cao. Vậy là tôi chọn con đường buôn lậu vũ khí và quen được Hoàng Tử. Bọn tôi đã gặp nhau hai lần tại Praha để thống nhất các quy trình và điều kiện làm việc. Lần gặp thứ hai diễn ra ở nhà hàng ngoài trời trên quảng trường Václav. Tôi đã thuyết phục Eva đóng vai khách du lịch đến đó chụp ảnh, và thật tình cờ, cái bàn mà Hoàng Tử và tôi ngồi lại xuất hiện trong hầu hết các tấm ảnh. Thường thì, những ai không chịu thanh toán sau khi tôi làm xong việc cho họ đều nhận được một tấm gửi qua bưu điện kèm theo lời nhắc. Cách này luôn có tác dụng. Thế nhưng Hoàng Tử làm ăn rất sòng phẳng và tôi chưa bao giờ gặp bất cứ rắc rối gì với hắn. Sau này tôi mới biết thì ra hắn là cảnh sát.”
Harry đóng cửa sổ lại và ngồi xuống chiếc sofa giường.
“Mùa xuân vừa rồi, tôi nhận được một cuộc điện thoại,” Sivertsen kể. “Từ một người Na Uy nói giọng Østland. Không hiểu hắn làm thế nào mà có được số của tôi. Dường như chuyện gì về tôi hắn cũng biết. Điều đó gần như thật đáng sợ. Không, phải nói là quá đáng sợ ấy chứ. Hắn biết mẹ tôi là ai, biết tôi từng có tiền án gì, biết tôi chuyên nhập kim cương máu hình ngồi sao năm cánh suốt từng ấy năm. Nhưng tệ hơn cả là: hắn biết tôi đã bắt đầu buôn lậu vũ khí. Hắn muốn cả hai thứ. Một viên kim cương và một khẩu Česká có ống giảm thanh. Hắn đề nghị trả một cái giá cao đến không tưởng. Tôi từ chối nhập súng và bảo hắn liên hệ với kênh khác, nhưng hắn cứ nằng nặc đòi mua trực tiếp từ tôi, không qua trung gian. Hắn lại nâng giá lên. Mà Eva, như tôi đã nói, là cô gái có đời hỏi cao, và tôi không thể để mất nàng. Vậy là chúng tôi đã thỏa thuận làm ăn.”
“Chính xác thì các anh đã thỏa thuận với nhau những gì?”
“Hắn đưa ra những yêu cầu hết sức cụ thể về việc giao hàng. Việc đó sẽ phải diễn ra trong công viên Frogner, ngay dưới chân cột đá Monolith. Lần giao hàng đầu tiên là cách đây hơn năm tuần một chút. Hắn hẹn đúng năm giờ, khung giờ cao điểm có đông khách du lịch đến tham quan và người tản bộ trong công viên sau khi tan sở. Hắn nói, như thế cả hai sẽ dễ bề đi lại mà không thu hút sự chú ý. Dù sao nguy cơ tôi bị nhận diện cũng rất thấp. Nhiều năm trước, tại quán bar nằm trong khu tôi ở tại Praha, tôi đã trông thấy một gã người Na Uy từng đánh tôi hồi đi học. Gã không hề nhận ra tôi. Gã và một phụ nữ tôi qua lại trong thời gian cô ta đi nghỉ tuần trăng mật ở Praha là hai người Oslo duy nhất tôi gặp kể từ khi tôi chuyển sang đó sống, anh biết đấy.”
Harry gật đầu.
“Dù sao,” Sivertsen nói, “vị khách này không muốn chúng tôi gặp mặt trực tiếp, với tôi thì chẳng có vấn đề gì. Tôi được dặn cho hai món hàng vào trong túi nylon màu nâu và bỏ vào thùng rác màu xanh lục ở trung tâm công viên Frogner, ngay trước đài phun nước, sau đó lập tức ra về. Tôi phải đến đúng giờ, điều này rất quan trọng. Số tiền đã thỏa thuận sẽ được trả trước vào tài khoản ngân hàng của tôi tại Thụy Sĩ. Hắn nói chỉ riêng việc hắn tìm ra tôi là đủ để tôi hiểu đừng hòng lừa được hắn, và đó là điều hắn trông đợi ở tôi. Hắn nói đúng. Cho tôi xin điếu thuốc được không?”
Harry châm cho y một điếu.
“Một ngày sau lần giao dịch đầu tiên, hắn gọi điện cho tôi để đặt một khẩu Glock 23 cùng với một viên kim cương máu nữa, giao vào tuần kế tiếp. Thời gian, địa điểm và quy trình vẫn như cũ. Hôm đó là Chủ nhật nhưng đông người chẳng kém.”
“Cùng ngày và cùng giờ với vụ giết người đầu tiên, vụ Marius Veland.”
“Gì cơ?”
“Không có gì. Anh kể tiếp đi.”
“Cuộc mua bán diễn ra thêm ba lần nữa. Mỗi lần cách nhau đúng năm ngày. Nhưng lần cuối cùng lại hơi khác một chút. Tôi được yêu cầu giao hai chuyến: chuyến thứ nhất vào thứ Bảy, chuyến thứ hai vào Chủ nhật, tức là hôm qua. Vị khách đó yêu cầu tôi ở lại nhà mẹ đẻ vào đêm thứ Bảy để hắn tiện liên lạc với tôi trong trường hợp kế hoạch có bất kỳ thay đổi gì. Tôi đồng ý thôi. Đằng nào tôi cũng đã định ở lại đó. Tôi mong được gặp mẹ. Dù sao tôi cũng có tin vui muốn báo với bà.”
“Rằng bà ấy sắp lên chúc bà nội.”
Sivertsen gật đầu.
“Và rằng tôi sắp kết hôn.”
Harry dụi tắt điếu thuốc của mình.
“Như vậy ý anh muốn nói viên kim cương và khẩu súng chúng tôi tìm thấy trong va li của anh là món hàng để anh giao vào Chủ nhật?”
“Phải.”
“Ừm.”
“Vậy giờ tính sao?” Sivertsen hỏi sau một khoảng lặng kéo dài.
Harry đan hai tay sau đầu, dựa lưng vào chiếc sofa giường và ngáp dài.
“Là fan lâu năm của Iggy, chắc hẳn anh đã nghe Blah Blah Blah rồi chú? Một album khá hay. Chuyện tầm phào thú vị.”
“Chuyện tầm phào thú vị ư?”
Khuỷu tay Sven Sivertsen đập vào máy sưởi đánh keng một tiếng âm vang và trống rỗng.
Harry đứng dậy. “Tôi ra ngoài một lát cho tỉnh táo đầu óc. Trên phố có trạm xăng mở cửa cả ngày. Anh có muốn tôi mua gì cho không?”
Sivertsen nhắm mắt lại.
“Nghe này, Hole. Chúng ta giờ đang ngồi chung trên một con thuyền, sắp chìm. Hiểu không? Anh là tên khốn đã xấu tính lại còn ngu.”
Harry nhe răng cười và đứng dậy.
“Tôi sẽ suy nghĩ về điều đó.”
Hai mươi phút sau, khi Harry quay về thì Sven đã thiếp đi cùng với một cánh tay bị còng vào nóc máy sưởi giơ lên như đang vẫy.
Harry đặt hai chiếc hamburger, khoai tây chiên và một chai Coca-Cola to lên bàn.
Sven dụi mắt cho tỉnh ngủ.
“Nghĩ xong chưa, Hole?”
“Xong rồi.”
“Và anh đã nghĩ về chuyện gì?”
“Về những bức ảnh bạn gái anh chụp anh và Waaler ở Praha.”
“Chúng thì có liên quan gì đến chuyện này?”
Harry tháo còng tay ra.
“Những bức ảnh không liên quan tới vụ án. Tôi đang nghĩ lúc đó cô ấy đóng giả khách du lịch, làm điều mà khách du lịch vẫn làm.”
“Điều gì?”
“Tôi vừa nói rồi đây thôi. Chụp ảnh.”
Sivertsen xoa hai cổ tay, săm soi chỗ đồ ăn trên bàn.
“Không có cốc để uống sao, Hole?”
Harry trỏ vào chai nước ngọt.
Sven vặn nắp chai trong lúc cặp mắt nheo lại nhìn Harry.
“Vậy là anh dám mạo hiểm uống chung chai nước với một kẻ sát nhân hàng loạt ư?”
Harry vừa nhổm nhoàm nhai hamburger vừa đáp: “Chung thuyền. Chung chai.”
Olaug Sivertsen đang ngồi trong phòng khách, ánh mắt đờ đẫn nhìn xa xăm. Bà không bật đèn lên vì hy vọng như thế bọn họ sẽ cho rằng bà không có nhà và chịu bỏ cuộc. Họ liên tục gọi điện, gọi cửa, đứng trong vườn hò hét và ném sỏi vào cửa sổ phòng bếp. “Miễn bình luận,” bà đã nói như vậy rồi rút giắc cắm điện thoại. Cuối cùng, họ kéo tới đứng vây quanh ngôi nhà và lăm lăm máy ảnh gắn ống kính chụp xa đen sì dài ngoằng chờ đợi. Lúc đi ra kéo rèm trước một ô cửa sổ, bà nghe thấy tiếng máy ảnh chạy ro ro như côn trùng. Rì rì rì, rì rì rì, tách. Rì rì rì, rì rì rì, tách.
Đã gần một ngày trôi qua mà cảnh sát vẫn chưa phát hiện ra họ đã nhầm. Giờ đang là cuối tuần. Biết đâu họ đang đợi đến thứ Hai đi làm rồi mới xử lý thì sao.
Ước gì có ai đó lắng nghe bà tâm sự. Nhưng Ina đi nghỉ với quý ông bí ẩn kia vẫn chưa về. Hay là gọi điện cho cô cảnh sát tên Beate nhỉ? Cô ấy không có lỗi trong việc Sven bị bắt. Beate dường như cũng cho rằng Sven không phải loại sát nhân giết người không ghê tay. Thậm chí cô ấy còn cho bà số điện thoại và bảo bà có thể gọi nếu có bất cứ điều gì muốn khai báo với họ. Bất kỳ điều gì.
Olaug đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ. Bóng cây lê chết khô trông như những ngón tay dài ngoằng đang muốn bắt lấy vầng trăng la đà phía trên khu vườn và nhà ga kia. Bà chưa bao giờ thấy trăng như thế này trước đây. Sao mà giống khuôn mặt người chết đến vậy. Những mạch máu xanh nổi rõ mồn một trên làn da trắng bệch.
Không biết tình hình Ina ra sao rồi? Con bé nói muộn nhất là chiều Chủ nhật sẽ về. Olaug đã hình dung cảnh hai bà cháu ngồi tâm sự bên tách trà ấm áp biết nhường nào, và Ina sẽ được gặp Sven. Ina là cô gái luôn giữ lời trong chuyện giờ giấc.
Olaug đợi cho đến khi chiếc đồng hồ treo tường điểm hai giờ.
Rồi bà lấy số điện thoại ấy ra.
Sau ba hồi chuông reo thì có người nhấc máy.
“Beate nghe,” một giọng ngái ngủ cất lên.
“Chào cháu, bà là Olaug Sivertsen. Thực sự mong cháu thứ lỗi vì muộn thế này rồi bà còn gọi điện.”
“Không sao đâu ạ, thưa bà Sivertsen.”
“Cứ gọi bà là Olaug.”
“Vâng, bà Olaug. Cháu xin lỗi, giờ cháu vẫn chưa tỉnh hẳn.”
“Bà gọi điện cho cháu vì bà không yên tâm về Ina, cô gái trọ ở nhà bà. Đáng lẽ con bé phải về đến nhà từ lâu rồi, mà gần đây xảy ra bao nhiêu chuyện nên ừm, thú thật là, bà lo cho nó lắm.”
Khi Olaug không nhận được câu trả lời ngay lập tức, bà băn khoăn tự hỏi lẽ nào Beate lại ngủ mất rồi. Nhưng giọng nói của cô lại vang lên, và lần này không còn ngái ngủ nữa.
“Bà đang nói là có một cô gái ở trọ tại nhà bà đúng không ạ, bà Olaug?”
“Đúng vậy. Con bé tên là Ina. Nó ở phòng của người hầu. À, bà chưa chỉ cho cháu xem nhỉ. Đấy là vì căn phòng đó nằm ở phía bên kia cầu thang sau nhà. Cuối tuần này Ina đi vắng.”
“Cô ấy đi đâu? Với ai ạ?”
“Giá mà bà biết được. Ina cũng mới quen người này thôi, con bé chưa giới thiệu anh ta với bà. Nó chỉ nói là hai đứa sẽ đến chơi tại căn nhà gỗ nghỉ mát của anh ta.”
“Đáng lẽ bà phải báo cho chúng cháu biết chuyện này từ trước chứ, bà Olaug.”
“Vậy sao? Bà thực sự xin lỗi… Bà…”
Olaug cảm thấy lệ dâng đầy trong mắt, không sao ngăn lại được.
“Không, cháu không có ý đó đâu, bà Olaug,” bà nghe thấy Beate vội vã nói thêm. “Người cháu giận không phải là bà. Chỉ là cháu có trách nhiệm kiểm tra những thông tin đó. Bà làm sao biết được việc này có liên quan đến cuộc điều tra của chúng cháu cơ chứ. Cháu sẽ gọi điện cho phòng điều phối cảnh sát, họ sẽ gọi lại cho bà để hỏi thêm thông tin cá nhân của Ina để xem xét vấn đề này. Cháu chắc là chẳng có chuyện gì xảy đến với cô ấy đâu, nhưng cẩn thận vẫn hơn phải không bà? Sau đó, cháu nghĩ là bà nên cố gắng chợp mắt một lát nhé. Đầu giờ sáng cháu sẽ gọi lại cho bà. Như vậy được không ạ, bà Olaug?”
“Ừ,” Olaug nói, cố tỏ ra vui vẻ. Thực sự bà rất muốn hỏi Beate có biết tình hình Sven lúc này ra sao không, nhưng bà không dám hỏi.
“Ừ, được cháu ạ. Chào cháu, Beate.”
Bà cúp máy mà dòng lệ lăn dài hai bên má.
Beate nằm xuống và cố gắng ngủ lại. Cô lắng nghe những âm thanh của ngôi nhà. Nó đang rì rầm trò chuyện. Mẹ cô đã tắt ti vi từ lúc mười một giờ và lúc này đây, dưới nhà yên ắng quá. Beate tự hỏi có phải mẹ cũng đang nghĩ về bố cô không. Họ ít khi nhắc đến ông. Việc đó quá khó khăn đối với họ. Cô đã bắt đầu tìm một căn hộ tại trung tâm thành phố. Từ năm ngoái cô đã bắt đầu có cảm giác gò bó khi sống ở tầng trên trong căn nhà của mẹ. Nhất là khi cô bắt đầu hẹn hò Halvorsen, anh chàng cảnh sát đáng tin cậy quê ở Steinkjer mà cô thường gọi bằng họ thay vì tên, anh đối xử với cô theo kiểu như nể trọng và dè dặt nhưng không hiểu sao cô lại thấy điều ấy rất quan trọng. Nếu ở Oslo thì không gian sống của cô sẽ bị thu hẹp. Và cô sẽ nhớ những âm thanh của ngôi nhà này lắm, những tiếng độc thoại không lời đưa cô vào giấc ngủ suốt ngần ấy năm sống trên đời.
Điện thoại lại reo. Beate thở dài và với tay nhấc máy.
“Cháu nghe ạ, bà Olaug.”
“Harry đây. Có vẻ cô đang tỉnh táo thì phải.”
Cô ngồi dậy trên giường.
“Ừ, điện thoại reo suốt đêm. Có chuyện gì vậy?”
“Tôi cần giúp đỡ. Và cô là người duy nhất mà tôi dám tin tưởng.”
“Rồi. Anh thì tôi còn lạ gì, chắc lại đem phiền phức đến cho tôi thôi.”
“Cả đống phiền phức đó. Cô đồng ý chứ?”
“Nếu tôi từ chối thì sao?”
“Cô cứ nghe tôi nói đã, sau đó từ chối cũng chưa muộn.”