CHƯƠNG 36 Thứ Hai
ẢNH
Mới năm giờ bốn mươi lăm phút sáng thứ Hai mà mặt trời đã tỏa nắng rực rỡ trên đỉnh Ekeberg rồi. Nhân viên bảo vệ trực tại bàn lễ tân ở Sở Cảnh sát ngáp một tiếng rõ to và ngước mắt lên khỏi trang báo Aftenposten đang đọc khi nhân vật đầu tiên xuất hiện quẹt thẻ để được vào.
“Trên báo bảo sắp có mưa đấy,” nhân viên bảo vệ nói, vui mừng khi thấy có người đến.
Người đàn ông cao lớn với vẻ mặt nghiêm nghị liếc nhanh một cái về phía anh ta, nhưng không nói gì.
Trong vòng hai phút tiếp theo có thêm ba người đàn ông nữa đi vào, tất cả đều kiệm lời và nghiêm nghị chẳng kém.
Lúc sáu giờ, bốn người đàn ông có mặt tại văn phòng của Chỉ huy Đơn vị nằm trên tầng sáu.
“Ừm,” Chỉ huy Đơn vị nói. “Một điều tra viên của Sở đã đưa đối tượng bị tình nghi giết người rời khỏi khu tạm giam và không ai biết họ đang trốn ở đâu.”
Một trong những yếu tố cho thấy Chỉ huy Đơn vị là lựa chọn khá phù hợp cho cương vị này chính là khả năng tóm tắt vấn đề. Ngoài ra còn một yếu tố khác là khả năng trình bày hướng giải quyết đầy ngắn gọn.
“Vì vậy tôi đề nghị phải nhanh chóng tìm ra họ. Tình hình hiện giờ ra sao?”
Vị sếp Kripos kín đáo liếc một cái về phía Møller và Waaler trước khi đằng hắng đáp, “Chúng tôi đã cử một nhóm nhỏ gồm các thanh tra giàu kinh nghiệm xử lý vụ này. Do đích thân thanh tra Waaler, người đang phụ trách cuộc tìm kiếm, lựa chọn. Ba người của Cục An ninh. Hai người của Đội Hình sự. Đêm qua họ đã bắt đầu vào cuộc chỉ một tiếng sau khi các sĩ quan ở khu tạm giam báo cáo lại khi không thấy Sivertsen được trả về buồng giam.”
“Nhanh đấy. Nhưng sao chưa báo với đơn vị cảnh sát mặc đồng phục? Cả đội tuần tra nữa?”
“Chúng tôi muốn đợi xem tiến triển thế nào rồi mới đưa ra quyết định trong buổi họp này, Lars ạ. Vả lại, chúng tôi cũng muốn nghe ý kiến của anh.”
“Ý kiến của tôi ư?”
Sếp Kripos di ngón tay lên môi trên.
“Thanh tra Waaler đảm bảo chỉ nội trong hôm nay anh ấy sẽ bắt được Hole và Sivertsen. Chúng tôi đã tạm thời phong tỏa thông tin về vụ này. Chỉ có bốn chúng ta và Groth ở khu tạm giam là biết được Sivertsen đang nhởn nhơ ngoài kia. Ngoài ra, chúng tôi đã gọi điện đến Ullersmo báo hủy việc đăng ký buồng giam và chuyển trại của Sivertsen. Lý do đưa ra là chúng tôi đã nhận được thông tin cho chúng tôi lý do để tin rằng Sivertsen có thể sẽ không được an toàn khi ở đó và vì vậy tạm thời hắn sẽ được chuyển tới một địa điểm bí mật. Tóm lại, chúng ta buộc phải giữ kín chuyện này cho tới khi Waaler và các cộng sự của anh ấy giải quyết xong tình huống. Nhưng tất nhiên, quyền quyết định vẫn là ở anh, Lars.”
Chỉ huy Đơn vị chụm mười đầu ngón tay lại với nhau và trầm ngâm gật đầu. Rồi ông ta đứng dậy, bước tới bên cửa sổ và đứng đó, quay lưng về phía họ.
“Tuần trước tôi có đi taxi. Tài xế có đặt một tờ báo đang để ngỏ bên cạnh ghế của tôi. Tôi hỏi anh ta nghĩ sao về vụ Sát nhân Giao hàng. Tôi luôn cảm thấy thích thú khi được lắng nghe ý kiến của người dân. Anh ta nói cả vụ Sát nhân Giao hàng và vụ Trung tâm Thương mại Thế giới đều mắc phải vấn đề giống hệt nhau: những câu hỏi bị đặt nhầm thứ tự. Thiên hạ chỉ quan tâm đến ‘ai’ và ‘làm thế nào’. Nhưng để giải được câu đố thì trước tiên phải đặt ra một câu hỏi khác. Anh có biết là câu gì không? Torleif?”
Sếp Kripos im lặng.
“Đó là câu hỏi ‘tại sao’, Torleif ạ. Anh chàng lái taxi này không ngốc chút nào. Trong số các vị ngồi đây, đã có ai tự hỏi bản thân điều đó chưa?”
Chỉ huy Đơn vị nhấp nhỉnh gót chân và chờ đợi.
“Tuy tôi tôn trọng ý kiến của anh tài xế taxi,” người đúng đầu Kripos cuối cùng cũng lên tiếng, “nhưng tôi không cho rằng trường hợp này cũng phải có lý do ‘tại sao’. Ít ra thì đó không phải là một ‘tại sao’ hợp lý. Mọi người ở đây đều biết Hole là kẻ tâm lý bất ổn, lại nghiện rượu. Vì vậy anh ta mới bị sa thải.”
“Ngay cả người điên cũng có động cơ của họ, Torleif à.”
Có ai đó đằng hắng một cách kín đáo.
“Gì vậy, Waaler?”
“Batouti.”
“Batouti ư?”
“Gã phi công người Ai Cập, kẻ cố tình làm rơi chiếc máy bay chở đầy hành khách để trả thù hãng hàng không nơi hắn làm việc vì đã giáng chức hắn.”
“Ý anh muốn nói gì, Waaler?”
“Tôi đã đuổi theo Harry và nói chuyện với anh ta trong bãi đỗ xe sau khi chúng ta bắt được Sivertsen vào tối thứ Bảy. Anh ta có vẻ cay cú, cả vì bị sa thải và vì anh ta cho rằng chúng ta đã cướp công của anh ta trong vụ bắt giữ Sát nhân Giao hàng.”
“Batouti…”
Chỉ huy Đơn vị đưa tay lên che mắt khi những tia nắng đầu tiên rọi qua ô cửa sổ mà ông ta đang đứng.
“Nãy giờ anh vẫn im lặng, Bjarne. Anh nghĩ sao về việc này?”
Bjarne Møller ngước nhìn bóng người đang đứng trước cửa sổ. Dạ dày đau đến nỗi ông không chỉ có cảm giác như mình sắp nổ tung mà còn hy vọng điều đó trở thành sự thật. Từ lúc thức giấc giữa đêm và nhận được thông báo về vụ bắt cóc, ông đã chờ đợi ai đó lay mạnh cho ông tỉnh lại và bảo ông rằng tất cả chỉ là cơn ác mộng mà thôi.
“Tôi cũng không biết,” ông thở dài. “Thú thực, tôi không hiểu chuyện gì đang diễn ra nữa.”
Chỉ huy Đơn vị chậm rãi gật đầu.
“Nếu việc chúng ta ém nhẹm vụ này lộ ra ngoài thì chúng ta sẽ chết cả nút,” ông ta nói.
“Câu tóm tắt thật súc tích, Lars,” sếp Kripos nói. “Nhưng nếu lộ ra việc chúng ta để sổng một tên sát nhân hàng loạt thì chúng ta cũng sẽ toi đời thôi. Kể cả có lôi cổ được hắn về đi chăng nữa. Vẫn còn một cách để xử lý êm thấm vụ này. Theo như tôi hiểu, Waaler có một kế hoạch.”
“Kế hoạch gì vậy, Waaler?”
Tom Waaler áp bàn tay trái lên nắm đấm tay phải.
“Có thể nói thế này,” anh ta lên tiếng. “Tôi hoàn toàn hiểu rõ rằng chúng ta không thể để mình lâm vào cảnh tù tội, vì vậy có lẽ tôi buộc phải sử dụng một vài biện pháp trái với thông lệ. Nghĩ tới những hậu quả có thể sẽ xảy ra, tôi cho rằng mọi người không nên biết gì về kế hoạch này thì hơn.”
Chỉ huy Đơn vị quay ngoắt lại, nét mặt có phần hơi sửng sốt.
“Anh thật rộng lượng, Waaler, nhưng e rằng chúng tôi không thể đồng ý…”
“Tôi nhất định muốn thế.”
Chỉ huy Đơn vị nhíu mày.
“Anh nhất định muốn thế ư? Anh có ý thức được nguy cơ không đấy, Waaler?”
Waaler xòe hai lòng bàn tay và chăm chú quan sát chúng.
“Có, nhưng đó là trách nhiệm của tôi. Tôi đã chỉ đạo cuộc điều tra và đồng hành sát cánh cùng Hole. Là người đứng đầu, đáng lẽ tôi phải nhận ra những dấu hiệu và xử lý kịp thời. Nhất là sau cuộc nói chuyện trong bãi xe.”
Chỉ huy Đơn vị nhìn Waaler bằng ánh mắt thăm dò. Sau đó ông ta lại quay mặt về phía cửa sổ và đứng đấy trong lúc ô sáng hình chữ nhật từ từ trườn qua mặt sàn. Thế rồi ông ta so vai và rùng mình như thể đang lạnh cóng.
“Hạn chót của anh là nửa đêm,” Chỉ huy Đon vị hướng về phía tấm kính cửa sổ nói. “Sau thời hạn đó, tin tức về vụ mất tích sẽ được thông cáo với báo chí. Và cuộc họp này coi như chưa từng xảy ra.”
Lúc tan họp ra về, Møller nhận thấy ông sếp Kripos đang siết tay Waaler và trao cho anh ta một nụ cười nồng hậu tỏ ý biết ơn. Đó là cách cảm ơn lòng trung thành của đồng nghiệp, Møller trầm ngâm nghĩ. Cũng là cách ngầm chỉ định vị Hoàng Tử kế nhiệm.
Sĩ quan cảnh sát Bjørn Holm thuộc Phòng Giám định Pháp y đang cảm thấy mình không khác gì tên ngốc khi đứng đó cầm micro, đối diện với những khuôn mặt của đám khách Nhật nhìn mình chằm chằm đầy trông đợi. Hai lòng bàn tay anh ta đẫm mồ hôi, nhưng không chỉ vì thời tiết nóng nực. Mà gần như ngược lại, bên trong chiếc xe buýt hạng sang có điều hòa đang đỗ ngoài khách sạn Bristol thậm chí còn mát hơn vài độ so với ngoài trời mới sáng ra mà đã nắng chang chang. Lý do thật sự là vì anh ta đang phải nói vào micro. Bằng tiếng Anh.
Anh ta được hướng dẫn viên giới thiệu là sĩ quan cảnh sát Na Uy và một ông lão vừa tủm tỉm cười vừa lấy máy ảnh ra chụp như thể Bjørn Holm là một phần không thể thiếu trong tour tham quan vậy. Holm nhìn đồng hồ đeo tay: bảy giờ đúng. Anh ta còn phải đi gặp nhiều nhóm nữa, vì vậy cách tốt nhất là đi thẳng vào đề. Anh ta hít sâu một hơi và bắt đầu nói với họ mấy câu đã luyện tập sẵn trên đường tới đây, “Chúng tôi đã kiểm tra lịch trình của tất cả các công ty lữ hành tại Oslo, và các vị là một trong những nhóm du khách đã đến tham quan công viên Frogner vào khoảng năm giờ chiều ngày Chủ nhật. Điều tôi muốn hỏi là: trong số các vị có bao nhiêu người đã chụp ảnh ở đó?”
Không ai có phản ứng gì.
Holm đâm ra lúng túng và liếc về phía hướng dẫn viên.
Hướng dẫn viên mỉm cười cúi đầu, đón lấy chiếc micro trên tay Holm rồi xổ ra một tràng tiếng Nhật mà Holm đoán là đại khái dịch lại những điều anh ta vừa hỏi. Nói xong, hướng dẫn viên khẽ cúi chào. Holm nhìn khắp một lượt những cánh tay đang giơ lên. Hôm nay phòng xử lý ảnh sẽ bận rộn lắm đây.
Roger Gjendem vừa khóa cửa xe vừa ngâm nga giai điệu ca khúc nói về chuyện “trở thành người Nhật”. Hầm đỗ xe chỉ cách tòa soạn mới của tờ Aftenposten tại Nhà Bưu điện một đoạn ngắn mà anh ta vẫn muốn chạy thật nhanh đến văn phòng, nhưng không phải vì muộn giờ, ngược lại là khác. Lý do thực sự là vì Roger Gjendem là một trong số ít những kẻ may mắn thích đến công sở mỗi ngày, háo hức trông đợi đến lúc được ngồi giữa những thứ quen thuộc gợi nhớ đến công việc: văn phòng với điện thoại và máy tính, chồng nhật báo, tiếng nói chuyện rì rầm của đồng nghiệp, tiếng ùng ục của máy pha cà phê, tiếng tán gẫu ở phòng hút thuốc, không khí căng thẳng trong cuộc họp buổi sáng. Hôm qua anh ta đã canh chừng cả ngày bên ngoài nhà Olaug Sivertsen nhưng chẳng thu được gì ngoài bức ảnh chụp bà ta đứng bên cửa sổ. Nhưng như vậy cũng tốt. Anh ta thích những nhiệm vụ khó. Mà điều đó thì mục hình sự chẳng thiếu. Gã nghiện án mạng. Devi đã gọi anh ta như thế. Anh ta không thích cách gọi ấy. Thomas, em trai anh ta, mới nghiện. Còn Roger chỉ là một nhân viên mẫn cán tốt nghiệp ngành khoa học chính trị và chẳng may lại thích làm phóng viên hình sự. Nhưng ngoài điều đó ra thì cô nói cũng có lý ở chỗ, công việc này đúng là có một vài khía cạnh gây nghiện. Sau một thời gian làm phóng viên mục chính trị, anh ta được chuyển sang mục hình sự làm tạm và chẳng mấy chốc, anh ta bắt đầu cảm thấy niềm phấn khích chỉ có được khi ngày ngày tiếp xúc với những câu chuyện liên quan đến sự sống và cái chết. Ngay hôm đó anh ta đã đề đạt với tổng biên tập và lập tức được chuyển hẳn sang chuyên mục hình sự. Chắc tổng biên tập đã từng gặp nhiều trường hợp giống anh ta trước đây. Kể từ ấy trở đi, ngày nào Roger cũng chạy một mạch từ xe vào công việc.
Nhưng hôm nay, anh ta còn chưa kịp dừng xe thì đã bị chặn lại.
“Chúc buổi sáng tốt lành,” một gã đàn ông đột ngột từ đâu xuất hiện đang đứng chắn trước mặt anh ta và nói. Người này mặc áo khoác da đen dáng ngắn, đeo kính râm kiểu phi công dù trong bãi xe tòa nhà cao tầng vẫn còn khá tối. Roger chỉ cần nhìn bề ngoài cũng có thể nhận ra ai là cảnh sát.
“Buổi sáng tốt lành,” Roger đáp.
“Tôi có một lời nhắn cho anh đây, Gjendem.”
Hai cánh tay gã buông thõng. Mu bàn tay đầy lông đen. Roger thầm nghĩ điệu bộ của gã hẳn sẽ tự nhiên hơn nếu gã đút tay vào túi áo khoác da. Hoặc chắp sau lưng. Hoặc đưa ra đằng trước. Dáng điệu này dễ khiến người ta nghĩ rằng gã sắp động thủ, chỉ không đoán được gã định làm gì thôi.
“Vâng?” Roger nói. Anh ta nghe thấy âm “â” vang vọng giữa những bức tường trong giây lát, tựa như âm thanh của dấu hỏi.
Gã đàn ông rướn người về phía trước.
“Em trai anh đang thụ án tại Ullersmo,” gã nói.
“Thì sao?”
Roger biết ngoài kia mặt trời đang tỏa sáng rực rỡ khắp thành phố Oslo, nhưng dưới hầm để xe, không khí bỗng hóa lạnh băng.
“Nếu anh quan tâm đến những gì xảy ra với cậu ta, anh phải nhận lời với chúng tôi một việc. Anh vẫn nghe đấy chứ, Gjendem?”
Roger ngỡ ngàng gật đầu.
“Nếu thanh tra Harry Hole gọi điện cho anh, chúng tôi muốn anh làm như sau. Hỏi xem anh ta đang ở đâu. Nếu anh ta không chịu nói thì hãy hẹn gặp. Bảo rằng anh sẽ không mạo hiểm đăng câu chuyện của anh ta cho tới khi hai bên gặp trực tiếp. Cuộc hẹn phải được sắp xếp trước nửa đêm hôm nay.”
“Chuyện của anh ta là chuyện gì?”
“Anh ta có thể sẽ đưa ra những cáo buộc vô căn cứ đối với một thanh tra cảnh sát tôi không tiện nói tên, nhưng anh không cần phải lo về chuyện đó. Đằng nào nó cũng sẽ không bao giờ được đăng đâu.”
“Nhưng…”
“Anh có nghe không đấy? Sau khi anh ta gọi điện, tôi muốn anh gọi đến số máy này và báo cho chúng tôi biết nơi Hole đang ở hoặc thời gian và địa điểm diễn ra cuộc gặp giữa các anh. Rõ chưa?”
Gã thò tay trái vào túi áo, lấy ra một mảnh giấy và đưa cho Roger.
Roger đọc số máy và lắc đầu. Dù đang hoảng sợ nhưng anh ta vẫn cảm thấy muốn phá lên cười. Hoặc cũng có thể chính vì sợ quá nên mới thế.
“Tôi biết anh là cảnh sát,” Roger nói, cố nén cười. “Anh phải hiểu yêu cầu của anh là bất khả thi. Một nhà báo như tôi không thể…”
“Gjendem.”
Gã đàn ông bỏ kính râm ra. Dù bốn bề chìm trong bóng tối nhưng đôi đồng tử kia chỉ là hai chấm nhỏ giữa mống mắt màu xám.
“Em trai anh đang ở phòng giam A107. Thứ Ba hằng tuần - cũng như hầu hết những tên nghiện ở đó - cậu ta nhận hàng từ bên ngoài tuồn vào. Cậu ta cứ thế chích mà không bao giờ kiểm tra. Tới giờ thì mọi chuyện vẫn ổn. Anh hiểu ý tôi chứ?”
Roger không rõ mình có nghe nhầm không. Nhưng anh ta biết là không.
“Tốt,” gã đàn ông nói. “Còn thắc mắc gì nữa không?”
Roger phải liếm môi trước khi đáp.
“Vì sao anh lại cho rằng Harry Hole sẽ gọi điện cho tôi?”
“Vì anh ta đã lâm vào đường cùng,” gã kia nói, lại đeo kính lên. “Và vì anh đã đưa cho anh ta danh thiếp lúc đứng ở cổng Nhà hát Quốc gia hôm qua. Chúc một ngày tốt lành, Gjendem.”
Roger cứ đứng im ở đó cho tới khi gã đàn ông đi khuất. Anh ta hít thở bầu không khí ngột ngạt đầy bụi ở hầm gửi xe. Sau đó anh ta đi hết quãng đường ngắn ngủi tới Nhà Bưu điện bằng những bước chân chậm rãi đầy miễn cưỡng.
Những số điện thoại nhảy nhót trên màn hình trước mặt Klaus Torkildsen trong phòng điều phối tại Tổng đài Telenor, khu vực Oslo. Anh ta đã dặn các đồng nghiệp đừng làm phiền rồi khóa cửa lại.
Chiếc sơ mi anh ta mặc đang ướt đẫm mồ hôi. Nhưng không phải vì anh ta chạy bộ tới chỗ làm. Mà anh ta chỉ đi bộ - với tốc độ không nhanh cũng chẳng chậm - và đang trên đường tới phòng làm việc thì bị cô lễ tân gọi lại. Bằng họ. Anh ta thích thế.
“Anh có khách,” cô ta nói, chỉ vào người đàn ông đang ngồi trên sofa ở khu lễ tân.
Klaus Torkildsen vô cùng sửng sốt. Sửng sốt là bởi công việc của anh ta vốn không đòi hỏi phải tiếp khách. Điều đó chẳng phải ngẫu nhiên, những lựa chọn của anh ta trong công việc và cuộc sống riêng tư đều là để thỏa mãn nhu cầu tránh né mọi sự tiếp xúc trực tiếp với con người, trừ trường hợp bất khả kháng.
Người đàn ông trên sofa đứng dậy, nói rằng mình là cảnh sát rồi bảo anh ta ngồi xuống. Klaus ngồi lún mình trên ghế và càng lúc càng lún sâu, cảm thấy mồ hôi vã ra như tắm khắp cơ thể. Cảnh sát. Anh ta đã chẳng còn dính dáng gì tới họ suốt mười lăm năm qua, và dù xưa nay chỉ phải nhận đúng một vé phạt, thì cảm giác hoang tưởng vẫn luôn xuất hiện ngay lập tức bất cứ khi nào anh ta nhìn thấy bóng dáng bộ cảnh phục trên phố. Từ lúc người đàn ông này mở miệng là mồ hôi Klaus đã lập tức túa ra.
Ông ta đi thẳng vào trọng tâm vấn đề, nói rằng họ cần anh ta truy dấu một chiếc điện thoại di động. Klaus đã từng làm tương tự theo yêu cầu của họ trước đây. Cũng khá đơn giản. Điện thoại di động khi bật lên sẽ phát ra tín hiệu đều đặn nửa giờ một lần, tín hiệu này sẽ được những trạm thu phát sóng nằm rải rác trong thành phố thu nhận. Không những thế, trạm thu phát sóng còn ghi nhận toàn bộ cuộc gọi của các thuê bao, cả gọi đến lẫn gọi đi. Căn cứ vào tầm phủ sóng của mỗi trạm riêng biệt, họ có thể tính toán để xác định được vị trí của chiếc điện thoại trong phạm vi một kilomet vuông. Chính điều này đã gây ra vô số rắc rối trong vụ anh ta tham gia, tại khu bảo tồn thiên nhiên gần Kristiansand.
Klaus giải thích rằng việc nghe trộm điện thoại phải được sự đồng ý của cấp trên, nhưng người đàn ông đó nói việc đang rất gấp, họ không có thời gian đệ trình chính thức qua các cấp. Không chỉ theo dõi một số điện thoại di động cụ thể (mà Klaus phát hiện ra nó thuộc về một người tên Harry Hole nào đấy), người đàn ông đó còn muốn anh ta kiểm soát cả số máy của những người mà kẻ bị truy nã kia có thể sẽ liên lạc. Ông ta đưa cho Klaus một danh sách số điện thoại và địa chỉ e-mail.
Klaus hỏi vì sao họ lại tìm đích danh anh ta để nhờ cậy. Rốt cuộc thì, còn nhiều người khác giàu kinh nghiệm hơn anh ta kia mà. Mồ hôi trên lưng anh ta trở nên lạnh như băng và anh ta bắt đầu khẽ run rẩy trong khu lễ tân mát rượi gió điều hòa.
“Vì chúng tôi biết anh sẽ giữ kín chuyện này, Torkildsen. Y như chúng tôi sẽ giữ kín với cấp trên và đồng nghiệp của anh về cái lần anh bị bắt quả tang trong tình huống xấu hổ tụt quần, theo đúng nghĩa đen, tại công viên Stens hồi tháng Một năm 1987. Nữ cảnh sát ngầm cho biết anh đã trần như nhộng bên dưới lớp áo khoác. Chắc là lạnh lắm nhỉ…”
Torkildsen khó nhọc nuốt khan. Họ đã nói sẽ xóa án tích sau một vài năm.
Anh ta lại nuốt khan lần nữa.
Có vẻ là chiếc điện thoại đó hoàn toàn không có cách nào lần ra được. Nó đang bật, điều này thì anh ta biết vì cứ nửa tiếng anh ta lại nhận được tín hiệu báo về, nhưng mỗi lần lại xuất phát từ một vị trí khác nhau, như thể nó đang cố gắng trêu ngươi anh ta vậy.
Anh ta tập trung vào những số điện thoại trong danh sách. Có một số là số nội bộ ở địa chỉ 21 phố Kjølberggata. Anh ta kiểm tra thử. Thì ra là Krimteknisk, Phòng Giám định Pháp y.
Điện thoại vừa đổ chuông, Beate lập tức nhấc máy.
“Sao rồi?” giọng nói vang lên ở đầu dây bên kia.
“Đến giờ thì không tốt lắm,” cô đáp.
“Ừm.”
“Tôi đã cử hai người rửa ảnh và họ sẽ mang đến bàn tôi ngay khi xong.”
“Không có Sven Sivertsen à?”
“Nếu Sivertsen mà lảng vảng ở đài phun nước trong công viên Frogner vào thời gian Barbara Svendsen bị giết thì anh ta thật xui xẻo. Trong số những bức ảnh tôi đã xem, không bức nào có mặt anh ta, và chúng ta đang nói đến gần một trăm bức ảnh tính tới giờ rồi đấy.”
“Da trắng, mặc sơ mi cộc tay và…”
“Tất cả những điều này anh đều đã nói rồi, Harry.”
“Ngay cả gần giống cũng không có ư?”
“Tôi giỏi nhận diện khuôn mặt mà, Harry. Trong những bức ảnh đó không có anh ta.”
“Ừm.”
Cô vẫy tay ra hiệu cho Bjørn Holm vào phòng cùng với một xấp ảnh mới rửa xong còn nguyên mùi hóa chất. Anh ta quẳng chúng xuống bàn cô, chỉ vào một tấm, giơ ngón tay cái rồi đi mất.
“Đợi đã,” cô nói. “Tôi vừa nhận được vài bức ảnh mới. Chúng là của nhóm du khách tham quan công viên vào năm giờ chiều thứ Bảy. Để tôi xem…”
“Nào, có đi nào.”
“Đúng là có đấy. Trời ạ… Đoán xem tôi đang nhìn thấy ai đây?”
“Thật không?”
“Thật. Sven Sivertsen lù lù ra đó, không lẫn vào đâu được. Ảnh chụp nghiêng phía trước tượng sáu người khổng lồ của Vigeland. Trông như anh ta đang đi qua đó.”
“Anh ta có cầm trên tay một cái túi nylon màu nâu không?”
“Ảnh chụp cao quá nên không thấy được phần phía dưới.”
“Được rồi, ít nhất anh ta cũng đã có mặt tại đó.”
“Phải, nhưng không có ai bị giết vào thứ Bảy cả, Harry. Vì thế tấm ảnh chẳng thể dùng làm bằng chững ngoại phạm được.”
“Như vậy nghĩa là trong số những gì anh ta nói, ít nhất cũng có đôi điều là sự thật.”
“À thì, những lời nói dối tài tình nhất cũng chứa đến chín mươi phần trăm là sự thật mà.”
Beate cảm thấy hai dái tai nóng bừng lên khi cô nhận ra mình vừa trích dẫn nguyên văn một câu trong cẩm nang Harry. Thậm chí cô còn bắt chước giọng điệu của anh nữa.
“Anh đang ở đâu vậy?” Cô vội vã hỏi thêm.
“Tôi đã nói rồi mà, vì lợi ích của cả hai, tốt nhất cô không nên biết thì hơn.”
“Xin lỗi, tôi lỡ lời.”
Cô ngừng lời giây lát.
“Chúng tôi… ừm… chúng tôi sẽ tiếp tục kiểm tra các bức ảnh,” Beate nói. “Bjørn đã tổng hợp được danh sách những nhóm du khách có mặt tại công viên Frogner vào thời điểm xảy ra mấy vụ án mạng kia.”
Harry ậm ừ rồi cúp máy, Beate hiểu đó là cách anh nói lời “cảm ơn”.
Harry đưa ngón cái và ngón trỏ lên day các bên khóe mắt phía trên hai sống mũi và nhắm nghiền mắt lại. Tính cả hai tiếng hồi sáng thì ba ngày nay anh chỉ được ngủ có sáu tiếng đồng hồ. Anh biết chắc còn lâu lắm mình mới lại được chợp mắt. Anh đã nằm mơ thấy toàn đường phố. Thấy tấm bản đồ lọt vào tầm mắt mình và tên những con phố ở Oslo. Phố Sons, Nittedalgata, Sørumgata, Skedsmogata, tất cả những con đường nhỏ quanh co ở Kampen. Và rồi anh lại mơ thấy màn đêm, những bông tuyết lả tả rơi, anh đang dạo bước trên một con phố ở khu Grünerløkka (phố Markveien? Hay Toftes?), và một chiếc xe hơi thể thao màu đỏ đang đỗ ngay ở đó với hai người ngồi trong xe. Khi đến gần, anh thấy một trong hai người là người phụ nữ có cái đầu lợn, mặc bộ váy kiểu cổ. Anh gọi tên cô, anh gọi to “Ellen”, nhưng khi cô quay lại và mở miệng đáp, thì chỉ thấy đầy sỏi đá từ trong đó tuôn ra.
Harry bẻ cái cổ cứng ngắc sang hai bên. “Nghe này,” anh nói, cố tập trung vào Sven Sivertsen đang nằm trên tấm đệm dưới sàn. “Người bạn tôi vừa gọi điện đã vì anh và tôi mà cất công làm một số việc không những có thể khiến cô ấy bị sa thải mà còn đi tù vì tội đồng lõa. Tôi cần thứ gì đó để có thể khiến cô ấy yên tâm.”
“Ý anh là sao?”
“Tôi muốn gửi cho cô ấy bản sao của một trong những tấm ảnh chụp anh và Waaler ở Praha mà anh có.”
Sivertsen phá lên cười.
“Tai anh có vấn đề à, Harry? Tôi đã nói rồi, đó là lá bài duy nhất tôi có để thương lượng. Bây giờ tôi mà đưa cho anh, nhỡ anh hủy luôn Chiến dịch Giải cứu Sivertsen thì sao.”
“Bọn tôi hoàn toàn có thể làm thế sớm hơn so với anh tưởng đấy. Họ vừa tìm được tấm ảnh chứng minh anh đã có mặt tại công viên Frogner vào thứ Bảy. Nhưng hôm Barbara Svendsen bị giết thì không. Điều này chẳng phải khá kỳ lạ sao, vì đám du khách Nhật rất chăm chỉ chụp ảnh cái đài phun nước suốt từ đầu hè đến giờ, đúng chứ? Dù sao đó cũng là tin xấu cho câu chuyện của anh. Chính vì vậy tôi muốn anh gọi điện cho bạn gái và bảo cô ấy gửi ảnh qua thư hoặc fax đến cho Beate Lønn thuộc Phòng Giám định Pháp y. Cô ấy có thể che mặt Waaler nếu anh nhất định muốn giữ lấy cái gọi là con át chủ bài, nhưng tôi muốn tận mắt nhìn thấy bức ảnh chụp anh ngồi cùng với ai đó ở quảng trường, một người có thể là Tom Waaler.”
“Quảng trường Václav.”
“Sao cũng được. Cô ấy có một tiếng để hoàn thành nhiệm vụ, bắt đầu tính từ giờ. Nếu không, thỏa thuận giữa chúng ta coi như xí xóa. Anh hiểu chứ?”
Sivertsen nhìn Harry chằm chằm hồi lâu rồi mới đáp.
“Tôi không biết giờ này cô ấy có nhà không.”
“Cô ấy có phải đi làm đâu,” Harry nói. “Cô bạn gái đang bầu bí, lo lắng như thế mà. Sao cô ấy có thể không ở nhà mong anh gọi điện về cơ chứ? Cứ hy vọng vậy đi, vì lợi ích của chính anh. Còn năm mươi chín phút.”
Sivertsen liếc quanh phòng một lượt, rồi cuối cùng vẫn phải nhìn Harry. Y lắc đầu.
“Tôi không thể, Hole ạ. Tôi không thể khiến cô ấy bị liên lụy. Cô ấy nào có tội tình gì. Đến giờ, Waaler vẫn chưa biết gì về cô ấy và nơi chúng tôi sống, nhưng nếu vụ này thất bại thì thể nào hắn cũng sẽ biết. Lúc đó hắn sẽ săn đuổi cả cô ấy.”
“Vậy chứ cô ấy sẽ nghĩ sao khi bị bỏ nuôi con một mình trong khi bố nó ngồi bóc lịch đến mãn đời vì tội giết bốn mạng người? Giờ anh đã ở vào thế tiến thoái lưỡng nan rồi, Sivertsen ạ. Năm mươi tám.”
Sivertsen vùi mặt vào hai bàn tay.
“Mẹ kiếp…”
Khi ngẩng lên lần nữa, y thấy Harry đang chìa cái điện thoại di động về phía mình.
Y cắn môi dưới. Sau đó y cầm lấy máy, nhập số rồi áp cái điện thoại màu đỏ lên tai. Harry xem đồng hồ đeo tay. Kim giây chậm chạp nhích từng nấc. Sivertsen khẽ cựa mình vẻ bất an. Harry đếm được hai mươi giây.
“Sao rồi?”
“Có thể cô ấy đã về nhà mẹ đẻ ở Brno,” Sivertsen nói.
“Thật tiếc thay. Cho anh.” Harry nói, mắt vẫn nhìn đồng hồ. “Năm mươi bảy.”
Anh nghe thấy tiếng điện thoại rơi xuống sàn. Khi ngước lên, anh chỉ kịp nhác thấy khuôn mặt méo mó của Sivertsen trước khi cổ anh bị một bàn tay chộp lấy. Nhanh như cắt, Harry giơ cả hai cánh tay lên. Anh đấm vào cổ tay Sivertsen làm y phải buông ra. Tiếp theo, anh nhằm thẳng vào khuôn mặt đằng trước mà đâm thứ gì đó và thấy nó sụm xuống. Anh tiếp tục ra đòn, cảm nhận được dòng máu dinh dính nóng hổi chảy xuống kẽ ngón tay và chợt nảy ra một liên tưởng lạ lùng: dòng máu kia giống như mứt dâu mới khuấy được rưới lên những lát bánh mì ở nhà bà ngoại anh vậy. Anh giơ tay đánh tiếp, và rồi anh thấy trước mắt mình là một gã đàn ông bị còng tay, vô phương tự vệ đang cố che chắn cơ thể, nhưng điều đó thậm chí chỉ càng khiến anh thêm giận dữ. Mệt mỏi, sợ hãi và giận dữ.
“Wer ist da?Ai đó?”
Harry sững người. Anh và Sivertsen tròn mắt nhìn nhau. Không ai nói bất cứ điều gì. Cái giọng mũi kia vang lên từ trong chiếc điện thoại đang nằm lăn lóc trên sàn.
“Sven? Bist du es, Sven?Sven à? Có phải anh không, Sven?”
Harry chộp lấy máy và áp lên tai.
“Sven đang ở đây,” anh chậm rãi nói. “Cô là ai?”
“Eva,” một giọng phụ nữ bực bội cất lên. “Bitte, was ist passiert?Làm ơn đi, có chuyện gì vậy?”
“Beate Lønn nghe.”
“Harry đây. Tôi…”
“Anh ngắt máy đi rồi gọi lại vào di động của tôi.” Nói xong, cô cúp máy.
Mười giây sau, anh gọi lại cho cô thông qua cái mà anh cứ khăng khăng là “đường dây”.
“Có chuyện gì thế?”
“Chúng ta đang bị theo dõi.”
“Sao lại thế được?”
“Ở đây chúng tôi có sử dụng gói phần mềm chống xâm nhập hệ thống và nó báo là toàn bộ các cuộc gọi và e-mail đều đang bị theo dõi bởi một bên thứ ba. Thứ này vốn là để phòng ngừa tội phạm tấn công, nhưng Bjørn bảo có vẻ như nhà cung cấp dịch vụ Internet đang ngấm ngầm làm việc đó.”
“Nghe trộm ư?”
“Không. Nhưng tất cả cuộc gọi và e-mail đều bị ghi lại hết.”
“Trò này nhất định là do Waaler và đám thuộc hạ bày ra.”
“Tôi biết. Vậy nghĩa là giờ chúng đã biết anh gọi cho tôi, và như thế tôi không còn cách nào giúp anh được nữa, Harry ạ.”
“Bạn gái của Sivertsen sẽ gửi cho cô một tấm ảnh chụp Sivertsen và Waaler gặp nhau ở Praha. Ảnh chỉ cho thấy phần lưng của Waaler và không thể dùng làm bằng chứng, nhưng tôi muốn cô xem kỹ xem có phải ảnh thật không. Cô ấy lưu ảnh trên máy tính nên có thể gửi cho cô qua e-mail. Địa chỉ e-mail của cô là gì?”
“Anh không nghe tôi nói à, Harry? Họ đang theo dõi mọi e-mail và cuộc gọi đến. Anh nghĩ điều gì sẽ xảy ra nếu ngay bây giờ đây, chúng tôi nhận được e-mail hoặc fax từ Praha? Tôi không làm được, Harry à. Và tôi còn phải cố bịa ra lời giải thích lọt tai cho câu hỏi vì sao anh lại gọi cho tôi, mà tôi thì đâu có được nhanh trí như anh. Chúa ơi, tôi sẽ phải nói sao với họ đây?”
“Bình tĩnh nào, Beate. Cô không cần phải nói gì hết. Tôi chưa bao giờ gọi cho cô cả.”
“Anh đang nói gì thế? Anh gọi cho tôi tất cả là ba lần mà.”
“Ừ, nhưng bọn họ còn lâu mói biết. Chiếc di động tôi đang dùng là của một người bạn đổi cho.”
“Vậy là anh đã lường trước được tất cả những việc này sao?”
“Không, không phải việc này. Tôi làm thế là vì điện thoại di động luôn truyền tín hiệu đến các trạm thu phát sóng và điều đó sẽ cho biết vị trí của chiếc máy. Nếu Waaler ép nhà mạng phải cố gắng lần ra tôi thông qua điện thoại di động của tôi thì tôi sẽ cho họ tha hồ vắt óc mà tìm, vì cái máy ấy giờ đang không ngừng rong ruổi khắp Oslo.”
“Chuyện này tôi muốn biết càng ít càng tốt, Harry. Nhưng đừng gửi bất cứ thứ gì đến đây cho tôi. Được chứ?”
“Được.”
“Tôi xin lỗi, Harry.”
“Cô đã hy sinh cánh tay phải vì tôi rồi, Beate. Cô đâu cần phải xin lỗi khi muốn giữ lấy cánh tay còn lại chứ.”
Anh gõ cửa. Năm lần gõ dứt khoát lên cửa phòng 303. Hy vọng âm thanh đủ lớn để bên trong nghe được giữa tiếng nhạc. Anh đợi một lát và khi đang định gõ tiếp thì anh nghe thấy nhạc bị vặn nhỏ đi cùng tiếng chân trần bước trên sàn. Cửa mở ra. Trông cô như thể vừa ngủ dậy.
“Có việc gì thế?”
Anh giơ thẻ lên, đúng ra mà nói thì đó là thẻ giả vì bây giờ anh đâu còn là cảnh sát.
“Một lần nữa xin lỗi cô vì chuyện hôm thứ Bảy,” Harry nói. “Hy vọng cô không quá sợ hãi khi họ ập vào phòng.”
“Không sao,” cô nhăn mặt nói. “Tôi cho là các anh cũng chỉ làm nhiệm vụ của mình thôi.”
“Vâng.” Harry nhấp nhỉnh gót chân, liếc nhanh hai bên hành lang trái phải. “Một đồng nghiệp thuộc Đội Giám định Pháp y và tôi đang tìm manh mối trong phòng của Marius Veland. Chúng tôi cần gửi gấp một tài liệu nhưng laptop của tôi đột nhiên lại trục trặc. Việc này khá quan trọng. Tôi nhớ là có thấy cô lướt net hôm thứ Bảy nên tôi đang tự hỏi…”
Cô xua tay ra hiệu không cần giải thích gì thêm nữa và bật máy tính lên.
“Máy bật rồi đấy. Tôi cũng nên xin lỗi vì đã gây rắc rối cho các anh. Hy vọng anh không phật ý nếu tôi không để tâm đến chuyện đó.”
Harry ngồi xuống trước máy tính và mở chương trình e-mail lên, lấy ra một mảnh giấy rồi gõ địa chỉ e-mail của Eva Marvanova vào bằng những phím dính nhớp. Nội dung rất ngắn. Đã sẵn sàng. Địa chỉ này. Gửi.
Anh quay người lại trên ghế và quan sát cô gái đang ngồi trên sofa, xỏ chân vào chiếc quần jean ôm sát. Nãy giờ anh chẳng hề nhận ra cô chỉ đang mặc mỗi quần lót, chắc là vì chiếc áo phông rộng thùng thình in hình lá gai dầu đã che đi mất rồi.
“Hôm nay cô ở nhà một mình à?” anh hỏi, chủ yếu để giết thời gian trong lúc đợi Eva. Nhìn vẻ mặt cô, anh có thể thấy đó không phải câu gợi chuyện phù hợp cho lắm.
“Tôi chỉ chơi trai vào cuối tuần thôi,” cô nói, đưa một chiếc tất lên mũi ngửi thử trước khi đi nó vào. Và rồi cô toét miệng cười khoái chí khi thấy Harry rõ ràng đã cạn lời trước câu nói của mình. Và cũng rõ ràng là Harry thấy cô nên ghé thăm nha sĩ một chuyến.
“Anh có e-mail kìa,” cô nói.
Anh quay lại nhìn màn hình. Thư của Eva. Không có chữ, chỉ có một file đính kèm. Anh nhấp đúp vào đó. Màn hình bỗng nhiên đen kịt.
“Nó già rồi nên chậm lắm,” cô nói, nụ cười thậm chí càng tươi hơn. “Cuối cùng rồi nó cũng lên thôi. Anh cứ đợi một lát.”
Trước mặt Harry, tấm ảnh đã bắt đầu xuất hiện trên màn hình, đầu tiên là một mảng màu xanh dương, và rồi khi bầu trời đã hiện đủ thì đến lượt một bức tường xám cùng tượng đài màu xanh lục pha đen. Tiếp đó là quảng trường. Những chiếc bàn. Sven Sivertsen. Và một người đàn ông mặc áo khoác da ngồi quay lưng về phía máy ảnh. Tóc sẫm màu. Cái cổ rắn chắc. Tấm ảnh dĩ nhiên không đủ để làm bằng chứng, nhưng Harry hoàn toàn không nghi ngờ gì việc người này chính là Tom Waaler. Tuy nhiên, đó không phải là chi tiết khiến anh ngồi nhìn chằm chằm tấm ảnh.
“Ờ, anh gì này, tôi cần đi vệ sinh,” cô gái nói. Harry không biết mình đã ngồi đó bao lâu. “Mà cái âm thanh chết tiệt ấy nghe rất rõ nên tôi xấu hổ lắm. Vì vậy anh làm ơn…”
Harry đứng dậy, lẩm bẩm câu cảm ơn rồi ra về.
Đang leo cầu thang từ tầng ba lên tầng bốn thì anh dừng lại.
Tấm ảnh.
Không thể là tình cờ được, về lý thuyết, đó là điều không thể.
Hay là có nhỉ?
Dù thế nào đi nữa, đó cũng không thể là sự thật. Không ai lại đi làm cái việc như thế cả.
Không một ai.