CHƯƠNG 37 Thứ Hai
XƯNG TỘI
Hai người đàn ông đang đứng mặt đối mặt trong nhà thờ Thánh Tông đồ Công chúa Olga có chiều cao ngang nhau. Bầu không khí ấm áp và ẩm ướt phảng phất mùi khói ngòn ngọt cùng mùi hăng của thuốc lá. Đã gần năm tuần liền mặt trời ngày nào cũng tỏa nắng chói chang trên bầu trời Oslo, mồ hôi chảy ròng ròng dưới lớp áo tunic bằng len dày cộp của Nikolai Loeb trong lúc ông đọc kinh nguyện trước khi xưng tội, “Kìa, con đã đến nơi chữa lành. Thánh linh Chúa Jesus đang hiện hữu nơi đây và sẽ lắng nghe con xưng tội.”
Ông đã cố tìm mua một bộ áo tunic mỏng hơn, kiểu dáng mới mẻ hơn ở cửa hàng trên phố Welhavens, nhưng họ nói không có bộ nào dành cho linh mục Chính thống giáo Nga cả. Đọc xong kinh nguyện, ông đặt cuốn sách bên cạnh cây thánh giá trên chiếc bàn ngăn cách giữa họ. Chẳng mấy chốc, người đàn ông đứng trước mặt ông sẽ đằng hắng. Họ luôn làm vậy trước khi xưng tội, như thể những tội lỗi mắc phải đã kết thành đờm dãi trong cổ họng. Nikolai lờ mờ cảm thấy hình như ông đã từng gặp người này trước kia rồi, nhưng ông không thể nhớ được là ở đâu. Tên anh ta cũng chẳng gợi lên điều gì với ông cả. Anh ta có vẻ hơi sửng sốt khi nhận ra rằng mình phải trực tiếp đối diện với linh mục khi xưng tội, thậm chí còn phải khai tên. Thú thực, Nikolai có cảm giác người này không xưng tên thật của mình. Có thể anh ta đến từ giáo đoàn khác. Thỉnh thoảng họ đến đây xưng tội vì nhà thờ này vừa nhỏ vừa vô danh, và không ai biết họ cả. Nikolai thường giải tội cho những thành viên của Giáo hội Na Uy danh giá. Nếu đó là mong muốn của họ, vậy thì mong muốn ấy sẽ được đáp ứng, vì lòng nhân từ của Chúa không bến bờ.
Người đàn ông đằng hắng. Nikolai nhắm mắt lại và thầm hứa sẽ thanh tẩy cho cơ thể của chính mình bằng cách tắm rửa và cho đôi tai của ông bằng nhạc Tchaikovsky ngay khi về đến nhà.
“Người ta nói rằng tà dục - cũng như nước - luôn tìm đến những nơi hạ đẳng nhất để trú ngụ, thưa cha. Nếu nhân cách ta có vết rạn, lỗ hổng hoặc thiếu sót, tà dục sẽ tìm thấy nó.”
“Tất cả chúng ta đều là những tội đồ, con trai ạ. Con có tội lỗi gì cần thú nhận không?”
“Có ạ. Con đã phản bội người phụ nữ con yêu. Con đã qua lại với một người đàn bà phóng đãng. Dù không yêu cô ta nhưng con không sao cưỡng được ham muốn quay lại với cô ta.”
Nikolai cố ghìm một cái ngáp. “Con nói tiếp đi.”
“Con… cô ta từng là nỗi ám ảnh đối với con.”
“Con nói là ‘từng’ ư? Nói vậy nghĩa là con đã không còn gặp cô ta nữa rồi?”
“Họ đã chết rồi.”
Không chỉ lời thú nhận ấy mà ngay trong giọng nói của anh ta cũng có điều gì đó khiến Nikolai giật mình.
“ ‘Họ’ ư?”
“Cô ta có thai. Con tin là vậy.”
“Xin chia buồn với mất mát của con, con trai. Vợ con có biết chuyện này không?”
“Không ai biết gì cả.”
“Vì sao cô gái ấy lại chết?”
“Bị bắn thủng sọ, thưa cha.”
Mồ hôi trên da Nikolai Loeb đột nhiên trở nên lạnh băng. Ông nuốt khan.
“Con còn tội lỗi gì muốn thú nhận nữa không, con trai?”
“Có ạ. Có một người đàn ông. Một cảnh sát. Con đã nhìn thấy người phụ nữ con yêu tìm đến với anh ta. Con đã nghĩ đến chuyện…”
“Chuyện gì?”
“Gây tội. Tất cả chỉ có vậy, thưa cha. Giờ cha đọc kinh giải tội được chứ?”
Nhà thờ bỗng trở nên lặng phắc.
“Ta…” Nikolai ngập ngừng nói.
“Con phải đi rồi, thưa cha. Cha làm ơn…?”
Nikolai lại nhắm nghiền mắt. Rồi ông bắt đầu đọc và chỉ mở mắt ra khi đến câu “Ta giải thoát cho con khỏi mọi tội lỗi, nhân danh Cha, Con và Thánh thần.”
Ông làm dấu thánh phía trên mái đầu đang cúi xuống của người đàn ông.
“Tạ ơn cha,” anh ta nói khẽ. Sau đó anh ta quay người và vội vã rời khỏi nhà thờ.
Nikolai vẫn đứng nguyên tại chỗ, lắng nghe tiếng vọng những lời lẽ đó vẫn còn văng vẳng khắp bốn bề. Giờ thì có lẽ ông đã nhớ ra được mình từng gặp anh ta ở đâu rồi. Tại sảnh nhà thờ Gamle Aker. Anh ta đã đem một Ngôi sao Bethlehem mới đến để thay thế ngôi sao bị hỏng.
Là một linh mục, Nikolai bị ràng buộc bởi lời thề giữ bí mật, và ông không có ý định phá vỡ lời thề ấy bất chấp những điều mình vừa mới nghe được. Vậy nhưng có điều gì đó bất thường trong giọng nói của người đàn ông nọ, trong cái cách anh ta nói mình đã nghĩ đến chuyện… chuyện gì nhỉ?
Nikolai đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ. Mây từ đâu kéo về vậy? Thời tiết oi bức thế này thì nhất định sẽ sớm có biến chuyển gì đó. Mưa. Nhưng trước hết sẽ là sấm chớp.
Ông đóng cửa lại, quỳ xuống trước bệ thờ nhỏ và bắt đầu cầu nguyện. Ông cầu nguyện bằng lòng nhiệt thành mãnh liệt mà đã lâu lắm rồi ông không cảm nhận được. Cầu xin được dẫn đường chỉ lối và ban thêm sức mạnh. Cả sự tha thứ nữa.
Lúc hai giờ, Bjørn Holm đứng ở ngưỡng cửa phòng làm việc của Beate để báo với cô rằng họ vừa phát hiện được một chi tiết và cô cần xem qua.
Cô đứng dậy, đi theo anh ta vào phòng rửa ảnh, anh ta trỏ vào một tấm ảnh vẫn còn đang treo trên dây cho khô.
“Tấm này chụp hôm thứ Hai tuần trước,” Bjørn nói. “Thời điểm chụp là năm rưỡi chiều, khoảng nửa giờ sau khi Barbara Svendsen bị giết ở quảng trường Carl Berners. Cô có thể dễ dàng đạp xe từ đó đến công viên Frogner trong thời gian ấy.”
Trong ảnh có một cô gái đang mỉm cười trước đài phun nước. Bên cạnh cô ta là một phần bức tượng điêu khắc. Beate biết bức tượng này. Đó là một trong những nhóm tượng cây, tượng cô thiếu nữ đang lao mình từ trên cao xuống. Cô luôn tới đứng trước bức tượng ấy mỗi khi gia đình cô lái xe tới Oslo dạo chơi trong công viên Frogner vào Chủ nhật. Bố cô đã giải thích rằng tác phẩm của Gustav Vigeland này tượng trưng cho nỗi sợ hãi của người thiếu nữ đang lao mình trước viễn cảnh trưởng thành và làm mẹ.
Thế nhưng, hôm nay thứ khiến Beate chú ý không phải cô thiếu nữ. Mà là phần phía sau đầu của một người đàn ông ở rìa bức ảnh. Người này đang đứng trước một cái thùng rác màu xanh lục. Trên tay anh ta cầm một chiếc túi nylon màu nâu. Anh ta đang mặc áo bó màu vàng và quần cua rơ màu đen. Trên đầu anh ta đội mũ bảo hiểm đen, kính râm và bịt mặt bằng khăn.
“Gã Nhân viên Giao hàng,” Beate khẽ nói.
“Có thể,” Bjørn Holm nói. “Tiếc là hắn vẫn bịt mặt.”
“Có thể.” Câu nói ấy nghe như một tiếng vọng. Beate xòe tay ra, mắt vẫn dán vào tấm ảnh. “Kính lúp.”
Holm tìm thấy chiếc kính trên bàn giữa những túi đựng dung dịch rửa ảnh và đưa nó cho cô.
Cô nhắm một mắt khi rà chiếc kính lúp qua tấm ảnh.
Bjørn Holm quan sát vị sếp của mình. Dĩ nhiên anh ta đã nghe kể nhiều chuyện về Beate Lønn hồi cô còn điều tra những vụ cướp ngân hàng, về việc cô đã ngồi một mạch mấy ngày liền trong “Nhà Đau đớn” - căn phòng lưu trữ video kín như hũ nút - để xem băng video quay cảnh vụ cướp, kỹ đến từng khung hình, vừa xem vừa soi chi tiết dáng người, ngôn ngữ cơ thể, những đường nét khuôn mặt đằng sau những chiếc mặt nạ. Cuối cùng cô phát hiện ra danh tính của tên cướp ngân hàng vì cô đã từng trông thấy hắn trong một cuộn băng khác quay cảnh vụ cướp xảy ra ở bưu điện từ mười lăm năm trước, hồi cô còn là cô nhóc chưa dậy thì, một cuộn băng được lưu trên ổ cứng chứa đến cả triệu khuôn mặt và tất cả những vụ cướp ngân hàng từng xảy ra ở Na Uy kể từ khi hệ thống camera an ninh ra đời. Một số người nói rằng bí quyết nằm ở việc Beate sở hữu hồi hình thoi khác thường - bộ phận của não có chức năng nhận diện khuôn mặt - và đó chắc hẳn là năng khiếu thiên bẩm. Chính vì thế, Bjørn Holm không để ý đến tấm ảnh mà chỉ nhìn cặp mắt Beate Lønn đang tập trung vào tấm ảnh trước mặt cô, kiểm tra kỹ từng chi tiết theo cái cách không thể học theo được.
Nhờ vậy anh ta mới nhận thấy khuôn mặt người đàn ông đó không phải là điều Beate đang chăm chú quan sát qua kính lúp.
“Đầu gối,” cô nói. “Anh có thấy không?”
Bjørn ghé lại gần hơn.
“Sao cơ?” anh ta hỏi.
“Đầu gối bên trái. Trông như dán băng cá nhân ấy.”
“Ý cô là chúng ta phải để ý canh chừng những người dán băng cá nhân trên đầu gối trái sao?”
“Anh cứ đùa, Holm ạ. Trước khi tìm được danh tính của người trong ảnh, chúng ta phải xác định xem liệu hắn có đúng là Sát nhân Giao hàng hay không đã.”
“Và bằng cách nào cơ?”
“Đến thăm nhân vật duy nhất chúng ta biết đã từng nhìn thấy Sát nhân Giao hàng ở khoảng cách gần. Anh chuẩn bị một bản sao của bức ảnh này trong lúc tôi đi lấy xe nhé.”
Sven Sivertsen nhìn chằm chằm Harry với vẻ sửng sốt cực độ. Harry vừa giải thích cho y nghe về giả thuyết anh đặt ra, một giả thuyết không tưởng.
“Tôi thực sự không biết,” Sivertsen nói khẽ. “Tôi chưa bao giờ xem bất kỳ bức ảnh nào của các nạn nhân mà báo chí đăng tải. Cảnh sát có nhắc đến tên họ khi thẩm vấn tôi, nhưng chẳng có cái tên nào tôi thấy quen.”
“Tạm thời đây mới chỉ là giả thuyết thôi,” Harry nói. “Chúng ta vẫn chưa biết hắn có đúng là Sát nhân Giao hàng không, cần phải có bằng chứng chắc chắn.”
Sivertsen mỉm cười, nói, “Tốt nhất trước hết anh nên thuyết phục được tôi về việc anh đủ khả năng giải oan cho tôi cái đã. Sau đó tôi sẽ đồng ý để hai chúng ta xuất đầu lộ diện và anh có thể dùng bằng chứng tôi có để buộc tội Waaler.”
Harry nhún vai.
“Tôi có thể gọi điện cho sếp tôi, Bjarne Møller, nhờ ông ấy đi xe tuần tra tới và đưa hai chúng ta ra khỏi đây một cách an toàn.”
Sivertsen kiên quyết lắc đầu.
“Chắc chắn còn nhiều kẻ khác dính líu đến đường dây này, những kẻ có cấp bậc cao hơn Waaler trong ngành cảnh sát. Tôi không tin ai hết. Anh sẽ phải tìm được bằng chứng trước đã.”
Harry xòe bàn tay ra rồi nắm chặt lại. “Vẫn còn lựa chọn khác. Một lựa chọn có thể bảo vệ được cả hai chúng ta.”
“Và đó là?”
“Liên lạc với báo giới và nói cho họ những gì chúng ta biết. Về Sát nhân Giao hàng và Waaler. Khi mọi chuyện vỡ lở thì đã quá muộn màng, sẽ chẳng ai làm được gì nữa cả.”
Sivertsen tỏ vẻ ngờ vực.
“Thời gian của hai chúng ta sắp hết rồi,” Harry nói. “Hắn đang mỗi lúc một tới gần. Anh không cảm thấy à?”
Sivertsen xoa xoa cổ tay.
“Thôi được,” y nói. “Vậy thì làm đi.”
Harry thò tay vào túi quần sau, lôi ra tấm danh thiếp nhàu nhĩ. Anh do dự một giây. Có lẽ vì anh đang tính đến những hậu quả của việc mình sắp làm. Hoặc cũng có thể anh chẳng tính gì hết. Anh nhập số điện thoại cơ quan vào di động. Bên kia nhấc máy nhanh đến không ngờ.
“Roger Gjendem nghe.”
Harry có thể nghe thấy tiếng nói rì rầm, tiếng gõ bàn phím lách cách và tiếng điện thoại reo ở hậu cảnh.
“Harry Hole đây. Tôi muốn anh nghe cho thật kỹ, Gjendem. Tôi đang nắm trong tay một số thông tin về Sát nhân Giao hàng. Và đường dây buôn lậu vũ khí. Một trong những đồng nghiệp của tôi ở Sở cũng dính dáng đến đường dây đó. Anh hiểu chứ?”
“Tôi tin là vậy.”
“Tốt. Chuyện này anh được độc quyền khai thác, với điều kiện anh phải đăng lên trang web của Aftenposten càng sớm càng tốt.”
“Dĩ nhiên rồi. Anh đang gọi điện từ đâu vậy, thanh tra Hole?”
Gjendem có vẻ không ngạc nhiên như Harry tưởng.
“Điều đó không quan trọng. Tôi có thông tin chứng minh được Sven Sivertsen không thể là Sát nhân Giao hàng, và sĩ quan cảnh sát đứng đầu cuộc điều tra là một mắt xích trong đường dây buôn lậu vũ khí đã hoạt động tại Na Uy trong nhiều năm qua.”
“Tuyệt lắm. Nhưng tôi tin chắc anh cũng hiểu tôi không thể đăng bài chỉ dựa trên một cuộc trao đổi qua điện thoại.”
“Ý anh là sao?”
“Không tờ báo nghiêm túc nào chịu đăng lời cáo buộc một thanh tra cảnh sát có tên tuổi là kẻ buôn lậu vũ khí mà không kiểm tra độ xác thực của nguồn tin. Tôi không mảy may nghi ngờ gì về nhân cách của anh, nhưng làm sao tôi biết được anh có đang say xỉn hoặc mất trí hoặc cả hai hay không? Nếu tôi không kiểm tra đúng quy trình thì tờ báo có thể sẽ bị kiện ra tòa. Chúng ta gặp trực tiếp đi được không, thanh tra Hole? Sau đó tôi sẽ đăng tất cả những gì anh kể cho tôi nghe. Tôi hứa đấy.”
Trong khoảng lặng diễn ra sau đó, Harry nghe thấy có tiếng cười vọng vào điện thoại. Một tiếng cười rì rầm thật vô ưu.
“Anh khỏi cần nghĩ đến chuyện gọi cho báo khác làm gì - họ cũng sẽ trả lời như tôi thôi. Tin tôi đi, thanh tra.”
Harry hít một hơi thật sâu.
“Được rồi,” anh nói. “Gặp nhau tại quán Underwater trên phố Dalsbergstien. Lúc năm giờ. Anh phải đi một mình, nếu không tôi sẽ không xuất hiện. Và cấm hở ra chuyện này với bất cứ ai đấy, anh hiểu chứ?”
“Đã hiểu.”
“Hẹn gặp lại.”
Harry nhấn nút ngắt máy rồi cắn môi dưới.
“Hy vọng đó là quyết định khôn ngoan,” Sven nói.
Bjørn Holm và Beate rời khỏi đại lộ Bygdøy đông đúc rồi lập tức rẽ vào một con đường yên tĩnh, một bên là những ngôi nhà gỗ biệt lập méo mó, còn bên kia là những tòa chung cư thời thượng xây bằng gạch. Sát mép vỉa hè hai bên đỗ đầy xe ô tô của Đức.
“Đúng là khu thượng lưu,” Bjørn nói.
Xe dừng lại bên ngoài một tòa chung cư nhỏ bé sơn vàng.
Một giọng nói cất lên trong máy điện thoại nội bộ sau hai hồi chuông reo.
“Ai đấy?”
“André Clausen phải không?”
“Vâng, tôi tin là vậy.”
“Beate Lønn, cảnh sát đây. Chúng tôi vào được chứ?”
André Clausen đã chờ sẵn ở ngưỡng cửa, mặc áo choàng ngủ dài đến đùi. Ông ta vừa đưa tay gãi vết thương đóng vảy trên má vừa nửa vời cố ghìm một cái ngáp.
“Xin lỗi nhé,” ông ta nói. “Tối qua tôi về muộn quá.”
“Từ Thụy Sĩ chăng?”
“Không, tôi chỉ lên núi thôi. Mời anh chị vào.”
Phòng khách của Clausen hơi nhỏ so với quy mô bộ sưu tập đồ mỹ nghệ mà ông ta sở hữu, và Bjørn Holm nhanh chóng xác định được rằng sở thích của Clausen thiên về phong cách Liberace hơn là phong cách tối giản. Nước chảy róc rách từ một đài phun nước trong góc, nơi đặt bức tượng nữ thần khỏa thân đang vươn người về phía những bức bích họa của nhà nguyện Sistine trên trần kiểu mái vòm.
“Trước hết, tôi muốn ông tập trung nhớ lại cái lần ông trông thấy gã Sát nhân Giao hàng tại khu lễ tân ở văn phòng luật kia,” Beate nói. “Sau đó xem qua tấm ảnh này.”
Clausen cầm lấy tấm ảnh và chăm chú xem nó trong lúc di ngón tay lên vết thương trên má. Bjørn Holm thì quan sát khu vực phòng khách. Anh ta nghe thấy tiếng sột soạt đằng sau một cánh cửa và tiếng chân động vật đang cào ở phía bên kia.
“Có thể,” Clausen nói.
“Có thể ư?” Beate ngồi mớm trên mép ghế.
“Rất có khả năng. Trang phục giống nhau. Mũ bảo hiểm và kính râm cũng giống nữa.”
“Tốt lắm. Và còn băng cá nhân trên đầu gối. Hắn có dán băng không?”
Clausen khẽ cười.
“Tôi đã nói rồi, tôi không có thói quen săm soi đàn ông kỹ thế. Nhưng nếu khiến cô vui hơn được, thì tôi có thể khẳng định phản ứng đầu tiên của tôi là đây chính là người tôi đã trông thấy. Ngoài điều đó ra thì…”
Ông ta dang hai cánh tay ra tỏ vẻ không biết.
“Cảm ơn ông,” Beate nói và đứng dậy.
“Không có gì,” Clausen nói, tiễn họ ra cửa và chìa tay ra. Hành động thật lạ lùng, Holm thầm nghĩ, nhưng vẫn bắt tay ông ta. Tuy nhiên, khi Clausen chìa tay sang Beate thì cô lắc đầu với một nụ cười khẽ:
“Xin lỗi, nhưng… tay ông dính máu. Và cằm ông cũng đang chảy máu kìa.”
Clausen đưa tay sờ lên mặt.
“Đúng rồi,” ông ta cười. “Tất cả là tại Truls. Con chó của tôi. Mấy trò chúng tôi chơi hôm cuối tuần có hơi quá đà.”
Ông ta nhìn vào mắt Beate, nụ cười càng lúc càng nở rộng.
“Tạm biệt,” Beate nói.
Bjørn Holm không hiểu sao anh ta lại rùng mình khi bước ra bầu không khí nóng bức ngột ngạt lúc trước.
Klaus Torkildsen đã chĩa cả hai cái quạt trong phòng về phía mặt mình, nhưng cảm giác cứ như thể chúng chỉ thổi hơi nóng tỏa ra từ đống máy móc ngược vào anh ta vậy. Anh ta gõ những ngón tay lên lớp kính dày trên màn hình. Dưới số điện thoại nội bộ ở Kjølberggata. Người nghe vừa cúp máy. Đó là lần thứ tư trong ngày hôm nay người đó nói chuyện với thuê bao di động kia. Những cuộc gọi diễn ra trong thời gian khá ngắn.
Anh ta nhấp đúp vào số di động để tìm tên thuê bao. Một cái tên hiện lên. Anh ta lại nhấp đúp vào để xem địa chỉ và nghề nghiệp của người đó. Khi kết quả xuất hiện, Klaus ngồi ngây ra nhìn thông tin một lúc. Sau đó anh ta quay số điện thoại được dặn gọi đến khi có tin cần báo cáo.
Có người nhấc máy.
“A lô?”
“Torkildsen ở Telenor đây. Tôi đang nói chuyện với ai vậy?”
“Không cần quan tâm chuyện đó, Torkildsen. Anh có tin gì cho chúng tôi?”
Torkildsen cảm thấy hai bắp tay nhớp nháp mồ hôi như dính vào lồng ngực.
“Tôi đã kiểm tra đôi chút,” anh ta nói. “Di động của Hole không ngừng di chuyển và không thể truy dấu được vị trí. Nhưng còn một số di động khác đã gọi đến số máy nội bộ trên phố Kjølberggata vài lần.”
“Được rồi. Số đó của ai?”
“Thuê bao đăng ký dưới tên Øystein Eikeland. Nghề nghiệp khai báo là tài xế taxi.”
“Thì sao?”
Torkildsen trề môi dưới, cố thổi hơi nóng lên trên để xua đi lớp hơi nước đọng lại trên mắt kính.
“Tôi chỉ nghĩ có thể có mối liên hệ nào đó giữa chiếc điện thoại không ngừng chạy khắp thành phố và người lái taxi.”
Đầu dây bên kia im lặng.
“A lô?” Torkildsen nói.
“Đã nghe và đã hiểu,” giọng nói kia trả lời. “Cứ tiếp tục theo dõi những số máy đó đi, Torkildsen.”
Bjørn Holm và Beate vừa đặt chân vào khu lễ tân ở cơ quan trên phố Kjølberggata thì điện thoại di động của Beate đổ chuông.
Cô rút nó ra khỏi đai lưng, nhìn màn hình rồi áp lên tai bằng một động tác nhanh nhẹn.
“Harry à? Anh bảo Sivertsen kéo ống quần bên trái lên đi. Chúng tôi vừa tìm ra bức ảnh chụp một người đi xe đạp bịt mặt đứng trước đài phun nước lúc năm rưỡi ngày thứ Hai tuần trước, đầu gối có dán băng cá nhân. Trên tay hắn cầm một cái túi nylon màu nâu.”
Bjørn phải sải bước dài hơn mới theo kịp được cô đồng nghiệp nhỏ nhắn đang vội vã đi trên hành lang. Anh ta nghe thấy tiếng nói lẹt xẹt trong điện thoại.
Beate quay ngoắt vào văn phòng.
“Không có băng dán và vết thương ư? Không, tôi biết điều đó chẳng chứng minh được gì, có điều, André Clausen đã phần nào khẳng định người trong ảnh chính là người ông ta trông thấy ở Halle, Thune & Wetterlid.”
Cô ngồi xuống bàn làm việc của mình.
“Gì cơ?”
Bjørn Holm nhận thấy ba nếp nhăn hình chữ V ngược hằn sâu trên trán cô.
“Được.”
Cô bỏ điện thoại xuống rồi nhìn chằm chằm vào nó như thể không tin nổi điều mình vừa nghe có phải là sự thật hay không.
“Harry cho rằng anh ấy đã biết Sát nhân Giao hàng là ai rồi,” cô nói.
Bjørn không đáp.
“Anh kiểm tra xem phòng thí nghiệm có bận không,” cô nói. “Harry vừa giao cho chúng ta công việc mới đấy.”
“Việc gì?” Bjørn hỏi.
“Một việc rất bẩn thỉu.”
Øystein Eikeland đang ngồi trong chiếc taxi tại khu vực đỗ xe dưới phố St Hanshaugen, mắt khép hờ, nhìn ra phố về phía một cô gái chân dài đang ngồi uống cà phê trên chiếc ghế ở vỉa hè bên ngoài quán Java. Tiếng điều hòa chạy ro ro đã bị tiếng nhạc phát ra từ loa át đi.
Những kẻ ác khẩu đồn rằng bài hát này là sáng tác của Gram Parsons và đã bị Keith cùng ban nhạc the Stones hớt tay trên để cho vào album Sticky Fingers trong thời gian họ ở Pháp. Thập niên sáu mươi đã qua và họ đang phải cố viện đến ma túy để khơi nguồn sáng tạo: Wild Horses.
Cửa sau bất ngờ mở ra. Øystein giật bắn mình. Người vừa vào chắc chắn đi từ đằng sau xe, ở phía công viên. Khi nhìn vào gương, anh ta trông thấy một khuôn mặt rám nắng có quai hàm rắn chắc, đeo kính râm phản quang.
“Đến hồ Maridal, bác tài.” Giọng nói tuy khẽ nhưng chất uy quyền trong đó thì không thể nhầm được. “Nếu không phiền…”
“Không có gì,” Øystein lẩm bẩm, vặn nhỏ nhạc và rít điếu thuốc lá lần cuối trước khi ném nó ra ngoài cửa sổ.
“Chỗ nào ở hồ Maridal?”
“Cứ lái đi. Tôi sẽ dẫn đường cho anh.”
Xe chạy qua phố Ullevålsveien.
“Dự báo sắp có mưa đấy,” Øystein nói.
“Tôi sẽ dẫn đường cho anh,” giọng nói đó lặp lại.
Kiểu này là không có tiền boa rồi, Øystein nghĩ bụng.
Mười phút sau, xe ra khỏi khu vực dân cư và đột nhiên bốn bề toàn đồng cỏ, nông trại và hồ Maridal. Sự biến chuyển ấy tuyệt diệu đến mức có lần một du khách người Mỹ đã hỏi Øystein có phải họ đang ở trong công viên giải trí không.
“Tới ngã rẽ phía trước thì rẽ trái,” giọng nói cất lên.
“Chỗ khu rừng á?” Øystein hỏi.
“Phải. Sao, sợ à?”
Ý nghĩ đó chưa từng xuất hiện trong đầu Øystein. Cho tới lúc này. Anh ta lại nhìn vào gương lần nữa, nhưng vị khách đã ngồi dịch sang phía cửa sổ nên anh ta chỉ có thể nhìn thấy nửa khuôn mặt người đó.
Øystein giảm tốc độ, xi nhan báo hiệu rồi đánh xe sang trái. Con đường đầy sỏi đá trước mặt vừa bé vừa gồ ghề, lại còn có cỏ dại mọc giữa đường.
Øystein ngần ngừ.
Hai bên đường, những cành lá xanh mướt sà xuống phản chiếu ánh đèn trông như thể đang vẫy tay mời họ đi tiếp. Øystein đạp thắng. Sỏi đá lạo xạo dưới lốp xe, và chiếc xe khựng lại.
“Xin lỗi,” anh ta nói và nhìn vào gương. “Xe tôi vừa sửa khung sườn hết bốn chục ngàn và không được phép chạy trên những con đường kiểu này. Nếu anh cần thì tôi sẽ gọi xe khác cho.”
Người đàn ông trên ghế sau dường như đang mỉm cười, ít ra là nửa khuôn mặt anh ta có thể quan sát được cho thấy vậy.
“Anh đang định dùng điện thoại nào để gọi hả Eikeland?” Øystein cảm thấy tóc gáy dựng đứng.
“Điện thoại của mày?” giọng nói thì thào. “Hay của Harry Hole?”
“Tôi không hiểu chính xác anh đang nói gì cả, nhưng chuyến xe kết thúc tại đây, thưa anh.”
Gã đàn ông phá lên cười.
“Thưa anh? Tao không nghĩ thế đâu, Eikeland.”
Øystein bỗng nhiên cảm thấy muốn nuốt khan một cái, nhưng cố ghìm lại.
“Nghe này, anh không cần phải trả tiền vì tôi không thể đưa anh đến được nơi cần đến. Mời anh xuống xe và đợi ở bên ngoài, tôi sẽ gọi xe khác cho anh.”
“Hồ sơ của mày cho thấy mày là kẻ khôn ngoan, Eikeland. Vì vậy chắc mày hiểu ý tao. Tao không thích cách nói cũ rích này, nhưng mọi việc diễn ra theo cách nào, dễ hay khó, đều phụ thuộc vào mày cả đấy.”
“Tôi thực sự không biết… Ái!”
Gã đàn ông táp một phát lên phía sau đầu Øystein, ngay bên trên chỗ tựa đầu, và khi Øystein chúi đầu về đằng trước theo phản xạ, anh ta ngỡ ngàng cảm thấy mắt mình đang ứa lệ. Thực ra cú đánh không đau lắm. Nó là kiểu đánh của bọn học sinh cấp hai: nhẹ thôi, chủ yếu để dằn mặt. Thế nhưng tuyến lệ của Øystein đã nhận thức được một điều mà não bộ còn chưa chịu hiểu ra. Rằng anh ta gặp rắc rối to rồi.
“Điện thoại của Harry đâu, Eikeland? Trong hộc đựng găng? Trong cốp xe? Hay có lẽ là trong túi mày?”
Øystein không đáp. Anh ta ngồi im trong lúc đưa mắt nhìn quanh để tính toán. Hai bên đều là rừng. Có điều gì đó mách bảo anh ta rằng gã đàn ông ngồi trên ghế sau có thân hình khỏe mạnh và chỉ cần vài giây là hắn sẽ tóm được anh ta ngay. Hắn đi một mình à? Có nên bật hệ thống báo động để kết nối với những xe khác không? Lôi kéo người khác vào chuyện này liệu có phải ý hay?
“Hiểu rồi,” gã đàn ông nói. “Vậy là mày chọn cách khó. Mà mày biết sao không?” Øystein chưa kịp phản ứng thì đã cảm thấy một cánh tay chẹn vào cổ, ép chặt đầu anh ta lên phần tựa ghế. “Thực lòng tao cũng đã hy vọng thế đấy.”
Cặp kính của Øystein rơi xuống. Anh ta vươn tay về phía vô lăng nhưng không thể với tới.
“Mày mà bật báo động là tao giết,” gã đàn ông thì thào vào tai Øystein. “Tao không nói chơi đâu, Eikeland, mà tao sẽ tước đoạt mạng sống của mày theo đúng nghĩa đen đấy.”
Bất chấp sự thật rằng não bộ lúc này đang bị thiếu ôxy, thị giác, thính giác và khứu giác của Øystein Eikeland vẫn trở nên tinh tường đến lạ. Anh ta có thể nhìn thấy những mạch máu chằng chịt bên dưới mí mắt mình, ngửi thấy mùi nước hoa sau cạo râu của gã đàn ông và nghe thấy âm sắc vui sướng hơi rin rít - gần giống tiếng dây cua roa - trong giọng nói của hắn.
“Hắn đang ở đâu, Eikeland? Harry Hole đâu?”
Øystein há miệng và gã đàn ông nới lỏng tay.
“Tôi không biết anh đang nói…”
Rồi cánh tay lại trở về trên cổ anh ta, siết chặt.
“Tao hỏi lần cuối, Eikeland. Thằng bạn nát rượu của mày hiện ở đâu?”
Øystein cảm thấy cơn đau và khát vọng sống lì lợm trỗi dậy, nhưng anh ta cũng hiểu tất cả sẽ sớm kết thúc. Anh ta đã từng trải qua những chuyện kiểu này rồi. Đây chỉ là một thời kỳ, một giai đoạn xảy ra trước khi cảm giác buông xuôi thú vị hơn nhiều ùa đến. Từng giây trôi qua thật chậm. Não bộ bắt đầu mất dần mối liên kết với các cơ quan chính. Đầu tiên là thị giác.
Thế rồi gã đàn ông lại buông tay, ôxy tràn vào trong não Øystein. Thị giác đã trở về. Cùng với cả cơn đau.
“Kiểu gì bọn tao cũng sẽ tìm ra hắn thôi,” hắn nói. “Nhưng trước hay sau khi mày về chầu trời thì cho mày chọn đấy.”
Øystein cảm thấy một vật vừa cứng vừa lạnh kéo rê trên thái dương mình. Sau đó lướt qua sống mũi. Øystein đã xem phim Viễn Tây không ít, nhưng anh ta chưa bao giờ nhìn thấy một khẩu súng lục 0.45 ở khoảng cách gần trước đây.
“Há miệng ra.”
Chứ đừng nói là nếm thử.
“Tao sẽ đếm đến năm. Sau đó tao sẽ bắn. Gật đầu nếu mày có điều gì muốn nói với tao. Tốt nhất là trước khi tao đếm hết. Một…”
Øystein cố gắng trấn áp nỗi sợ chết. Cố gắng tự nhủ con người là giống loài có lý trí, và rằng gã đàn ông đang ngồi phía sau kia sẽ chẳng được lợi lộc gì nếu giết anh ta.
“Hai…”
Logic đúng về phía mình, Øystein thầm nghĩ. Họng súng có thứ mùi buồn nôn của kim loại và máu.
“Ba. Và khỏi lo chuyện bẩn ghế, Eikeland. Tao sẽ dọn dẹp, vệ sinh sạch sẽ sau khi ra tay.”
Øystein cảm thấy toàn thân bắt đầu run rẩy, một phản ứng không thể kiểm soát mà xưa nay anh ta mới chỉ được chứng kiến, nó gọi cho anh ta nhớ đến quả tên lửa trên ti vi cũng rung lên như thế, một vài giây trước khi được phóng vào khoảng không vũ trụ lạnh lẽo, trống rỗng.
“Bốn.”
Øystein gật đầu. Lia lịa và thật mạnh.
Khẩu súng biến mất.
“Điện thoại ở trong hộc để găng,” Øystein hổn hển nói. “Anh ta nói tôi phải để máy bật liên tục và không được chạm vào nếu chuông reo. Anh ta đã lấy máy của tôi.”
“Tao không quan tâm đến điện thoại,” hắn nói. “Mà tao muốn biết Hole đang ở đâu.”
“Tôi không biết. Anh ta không nói gì cả. À, có. Anh ta bảo sẽ tốt hơn cho cả hai nếu tôi không biết gì.”
“Hắn nói láo,” gã đàn ông nói.
Lời thốt ra chậm rãi và bình thản, Øystein không thể xác định được hắn đang tức hay đang vui.
“Điều đó chỉ tốt cho hắn thôi, Eikeland. Không phải cho mày.”
Họng súng lạnh lẽo chọc vào má Øystein, cảm giác chẳng khác gì một thanh sắt nung đỏ.
“Khoan đã! Harry có nói một câu. Giờ tôi nhớ ra rồi. Anh ta bảo anh ta sẽ trốn ở nhà.”
Những câu từ tuôn ra ào ào từ miệng Øystein, tưởng như chúng bị đẩy ra ngoài khi còn chưa thành hình trọn vẹn.
“Bọn tao đã tới đó tìm rồi, đồ ngu,” giọng nói đáp.
“Ý tôi không phải là căn hộ của anh ta. Mà là nhà anh ta ở Oppsal. Nơi anh ta lớn lên.”
Gã đàn ông bật cười, Øystein cảm thấy nhức nhối đau khi họng súng chọc vào lỗ mũi mình.
“Bọn tao đã theo dõi máy điện thoại của mày suốt mấy tiếng qua, Eikeland. Bọn tao biết hắn đang ở khu nào của thành phố. Và đó không phải là Oppsal. Mày đang nói dối: trắng trợn. Hay nói cách khác là: năm.”
Một tiếng bíp vang lên. Øystein nhắm nghiền mắt. Tiếng bíp vẫn không ngừng lại. Anh ta chết rồi ư? Những tiếng bíp nối tiếp nhau tạo thành một giai điệu. Purple Rain. Của Prince. Tiếng nhạc chuông kỹ thuật số của điện thoại di động.
“A lô, có chuyện gì?” giọng nói cất lên phía sau anh ta.
Øystein không dám mở mắt.
“Ở quán Underwater? Lúc năm giờ? Được, lập tức huy động toàn bộ nhân lực. Tao đến ngay.”
Øystein nghe thấy tiếng quần áo sột soạt sau lưng mình. Số anh ta thế là đã tận. Anh ta nghe thấy tiếng chim hót véo von bên ngoài. Âm rung cao vút tuyệt hay. Thậm chí anh ta còn không biết đó là loài chim gì. Phải chi anh ta biết được. Giờ thì anh ta sẽ chẳng bao giờ biết. Đột nhiên anh ta cảm thấy một bàn tay đặt lên vai mình.
Øystein rón rén mở mắt và liếc nhìn vào gương.
Một hàm răng trắng lóa phô ra, sau đó là giọng nói với âm điệu vui sướng y như lúc nãy, “Trung tâm thành phố, bác tài. Vọt lẹ đi.”