CHƯƠNG 40 Thứ Hai
MƯA
Lúc này là bảy rưỡi. Mặt trời đang nhích dần về phía đỉnh Ullern, đúng trên hiên nhà ở phố Thomas Heftyes nhìn ra, bà góa Danielsen trông thấy vài đám mây trắng đã bồng bềnh dạt vào từ ngoài vịnh hẹp Oslo. Dưới phố, André Clausen và Truls đi ngang qua. Tuy không biết tên của người đàn ông hay con chó gold retriever đó, nhưng bà thường thấy họ đi dạo trên phố Gimle. Họ dừng lại chờ đèn đỏ tại ngã tư gần bãi đỗ taxi ở đại lộ Bygdøy. Bà Danielsen đoán rằng họ đang định tới công viên Frogner.
Cả chủ lẫn chó đều có vẻ bơ phờ, bà góa nghĩ thầm. Thậm chí con chó còn cần được tắm lắm rồi.
Bà nhăn mũi khi thấy con chó, đi sau chủ nửa bước, hạ mông xuống rồi đi bậy lên vỉa hè. Và khi người chủ không hề có ý định dọn dẹp hậu quả - thực ra, ông ta cứ thế lôi xềnh xệch con chó qua đường ngay khi đèn chuyển xanh - bà Danielsen đã trở nên bất bình, nhưng đồng thời lại có chút hoan hỉ. Bà bất bình vì bà là người luôn quan tâm đến lợi ích của thành phố - ừm, ít ra là lợi ích của khu này - và bà hoan hỉ vì giờ bà đã có đề tài để viết một lá thư độc giả nữa gửi đến tờ Aftenposten, dạo gần đây thư bà viết chẳng có bức nào được đăng.
Bà đứng đó trừng mắt nhìn hiện trường trong lúc con chó và chủ nó, lương tâm rõ ràng cắn rứt lắm, vội vã chuồn mất trên phố Frognerveien. Vậy là bà bỗng trở thành nhân chứng bất đắc dĩ, chứng kiến cảnh một phụ nữ đi ngược chiều hối hả băng qua ngã tư trước khi đèn lại chuyển đỏ và vô tình gánh chịu hậu quả do một kẻ hoàn toàn coi thường nghĩa vụ công dân để lại. Người phụ nữ kia rõ ràng đang cố gắng bắt taxi nên không chú ý bước chân mình đang giẫm lên đâu.
Bà Danielsen khịt mũi một cái rõ to, liếc nhìn lần cuối về phía những tầng mây đang ùn ùn kéo đến rồi đi vào nhà để bắt đầu lá thư độc giả của mình.
Một đoàn tàu lướt qua tựa hơi thở dài êm ái. Olaug mở mắt và phát hiện mình đang đứng trong vườn.
Lạ thật. Bà không nhớ mình đã rời khỏi nhà lúc nào. Vậy nhưng lúc này bà đang ở đây, đứng giữa những đường ray xe lửa với hương hoa hồng và hoa tử đinh hương còn vương nơi cánh mũi. Cảm giác nhức nhối nơi thái dương vẫn chưa dịu đi, ngược lại là khác. Bà ngước nhìn. Mây đã giăng kín trời - vì thế bốn bề mới tối đen như vậy. Olaug cúi nhìn đôi chân trần của mình. Làn da trắng bệch, chằng chịt gân xanh, bàn chân của người già. Bà biết vì sao mình lại đang đứng ở đúng chỗ này rồi. Đây là nơi họ từng đứng. Ernst và Randi. Hôm ấy bà đang đứng cạnh cửa sổ trong phòng của hầu gái, ngắm nhìn họ dưới ánh tà dương bên những khóm đỗ quyên, giờ thì chúng không còn đó nữa rồi. Mặt trời đang lặn dần, ông ta khẽ thì thầm điều gì đó bằng tiếng Đức và ngắt một bông hồng rồi gài lên tai vợ. Bà ta bật cười, dụi đầu vào cổ chồng. Thế rồi họ quay mặt về hướng Tây, vòng tay ôm lấy nhau và lặng im đứng đó. Bà ta ngả đầu lên vai chồng trong lúc họ cùng ngắm mặt trời lặn, cả ba người họ. Olaug không biết họ đang nghĩ gì, còn bà, lúc ấy bà đã nghĩ mặt trời lặn rồi ngày mai sẽ lại mọc lên thôi. Bà mới trẻ người non dạ làm sao.
Olaug vô thức ngước nhìn ô cửa sổ phòng hầu gái. Chẳng thấy Ina, chẳng thấy một Olaug trẻ tuổi, chỉ thấy mặt kính đen ngòm phản chiếu hình ảnh những đám mây mang dáng dấp của những viên bỏng ngô.
Nước mắt bà sẽ không ngừng rơi cho tới khi mùa hè khép lại. Có lẽ còn lâu hơn thế nữa. Và quãng đời còn lại sẽ bắt đầu hệt như xưa nay vẫn vậy. Kế hoạch là thế. Ai cũng cần một kế hoạch.
Chợt có thứ gì đó dịch chuyển sau lưng bà. Olaug cảnh giác ngoái nhìn. Bà cảm thấy đám cỏ mát rượi bị xéo nát khi bà xoay người bằng gót chân. Thế rồi - giữa chừng động tác đó - bà khựng lại.
Đó là một con chó.
Nó ngước nhìn bà bằng cặp mắt như đang nài xin sự tha thứ cho tội lỗi vẫn còn chưa phạm phải. Đúng lúc ấy, có một thứ bước ra từ bên dưới tán cây ăn quả và đi tới bên con chó, không một tiếng động. Là một người đàn ông. Cặp mắt anh ta vừa to vừa đen, y hệt mắt con chó. Olaug có cảm giác như thể ai đó vừa nhồi một con vật nhỏ bé vào cổ họng bà, khiến bà không sao thở nổi.
“Chúng tôi đã vào nhà nhưng không thấy bà đâu,” anh ta nói, nghiêng đầu nhìn bà theo cái cách người ta vẫn thường quan sát một con côn trùng thú vị.
“Bà không biết tôi là ai đâu, bà Sivertsen, nhưng tôi đã mong được gặp bà từ lâu.”
Miệng Olaug mở ra rồi lại khép vào. Người đàn ông tiến tới gần hơn. Olaug đang nhìn qua vai anh ta, ánh mắt hướng về phía xa.
“Lạy Chúa tôi,” bà khẽ thì thầm, vươn dài hai cánh tay.
Cô chạy một mạch xuống bậc tam cấp, vừa cười vừa băng qua lối đi rải sỏi và lao vào vòng tay Olaug.
“Bà lo cho cháu lắm đấy,” Olaug nói.
“Thế ạ?” Ina đáp, giọng nói nhuốm vẻ ngỡ ngàng. “Bọn cháu chỉ ở lại căn nhà gỗ lâu hơn một chút so với dự tính thôi. Đang là kỳ nghỉ mà bà.”
“Ừ, ừ, dĩ nhiên rồi,” Olaug nói, ôm chặt lấy cô.
Con chó giống setter Anh quốc không thể kiềm chế trước niềm vui đoàn tụ, nó nhảy chồm lên và chống hai chân lên lưng Olaug.
“Thea!” người đàn ông ra lệnh. “Ngồi xuống!”
Thea ngoan ngoãn vâng lời.
“Còn đây là ai?” Olaug hỏi, cuối cùng cũng buông Ina ra.
“Đây là Terje Rye.” Đôi má Ina ửng lên trong ánh chiều tà. “Chồng chưa cưới của cháu ạ.”
“Ôi chao,” Olaug nói, vỗ tay hoan hỉ.
Người đàn ông chìa tay ra với một nụ cười tươi rói. Anh ta không được ưa nhìn cho lắm. Mũi hếch, tóc mỏng, hai mắt sát nhau. Nhưng bù lại, ánh mắt anh ta toát lên sự cởi mở, chính trực, và Olaug thích điều đó.
“Rất vui được gặp bà,” anh ta nói.
“Tôi cũng rất vui được gặp anh,” Olaug đáp, thầm mong bóng tối sẽ giúp bà giấu đi những giọt lệ đang lăn dài.
Toya Harang chẳng hề để ý thấy cái mùi phảng phất cho tới khi họ đi được một đoạn xa trên phố Josefines.
Cô quan sát người lái xe taxi bằng ánh mắt ngờ vực. Anh ta có nước da sẫm màu nhưng chắc chắn không phải dân châu Phi, nếu không cô đã chẳng dám lên xe rồi. Không phải cô phân biệt chủng tộc, chẳng qua số liệu thống kê khiến cô cảnh giác thôi.
Nhưng cái mùi đó là mùi gì mới được?
Cô bắt gặp người lái xe nhìn mình trong gương. Có phải cô ăn mặc khêu gợi quá? Chiếc áo cánh màu đỏ khoét sâu quá chăng? Hay cái váy xẻ đùi đi với bốt cao bồi bị ngắn quá? Cô chuyển sang nghĩ đến điều khác vui vẻ hơn. Người lái xe nhận ra cô qua những bức ảnh chình ình trên trang nhất các số báo ra ngày hôm nay. “TOYA HARANG: TÂN NỮ HOÀNG NHẠC KỊCH”, dòng tít ca ngợi. Tuy nhà phê bình của tờ Dagbladet nhận xét cô “vụng về nhưng có sức hấp dẫn” và nói rằng vai Eliza khi còn là gái bán hoa có cách diễn thuyết phục hơn so với quý cô được giáo sư Higgins nhào nặn nên, nhưng nhìn chung tất cả các nhà phê bình đều đồng tình ở điểm khả năng ca hát và vũ đạo của cô đúng là khiến người xem phải ngả mũ bái phục. Vậy đó. Chẳng rõ Lisbeth sẽ nói sao về điều này?
“Cô đi dự tiệc à?” người lái xe hỏi.
“Gần như vậy,” Toya đáp.
Bữa tiệc dành cho hai người, cô nghĩ bụng. Tôn vinh Vệ Nữ và… Gì ấy nhỉ, cái tên anh ta nhắc đến là gì? Ừm, dù sao thì Vệ Nữ chính là cô. Anh ta đã tiếp cận cô trong bữa tiệc mừng thắng lợi sau buổi diễn mở màn và thì thầm vào tai cô rằng mình là một trong số những người thầm ái mộ cô. Sau đó anh ta mời cô ghé nhà vào tối nay. Anh ta chẳng buồn che giấu ý định của mình, lẽ ra cô nên từ chối. Để giữ gìn lễ giáo, lẽ ra cô nên từ chối mới phải.
“Thích nhỉ,” người lái xe nói.
Lễ giáo và từ chối. Đến giờ cô vẫn còn ngửi thấy mùi kho thóc và bụi bặm từ đống rơm rạ, đồng thời hình dung ra cảnh chiếc thắt lưng của bố cô cắt ngang những luồng sáng chiếu qua khe hở giữa các tấm ván gỗ trong kho lúc ông ra sức đánh cho cô tỉnh ngộ. Lễ giáo và từ chối. Và cô vẫn chưa quên cảm giác khi bàn tay mẹ vuốt ve mái tóc mình trong bếp sau trận đòn, khi bà hỏi vì sao cô không thể giống như Lisbeth. Vừa thùy mị vừa thông minh. Cho đến một hôm, Toya đã giằng ra khỏi vòng tay mẹ và nói con người cô là vậy, cha nào con nấy cả thôi, và chẳng lẽ mẹ không thấy ông ta giở trò đồi bại với Lisbeth chẳng khác nào cầm thú, hay đến chuyện đó mà bà cũng không biết? Toya đã nhận thấy nét mặt mẹ biến sắc, nhưng không phải vì bà không biết điều đó là bịa đặt, mà vì giờ đây bà đã hiểu ra Toya sẽ không từ bất cứ việc gì để có thể phá hoại gia đình này. Thế rồi Toya lấy hết sức gào lên thật to rằng cô căm ghét tất cả bọn họ, bố cô từ phòng khách đi vào với tờ báo trên tay, khi nhìn vẻ mặt họ, Toya có thể nhận ra rằng họ hiểu lần này những lời cô nói không còn là bịa đặt. Giờ đây, khi họ đã ra đi, cô có còn ghét họ nữa không? Cô không biết. Không. Bây giờ cô chẳng ghét ai cả. Nhưng đó không phải lý do khiến cô đồng ý làm điều này. Cô làm vì thích. Vì nó đi ngược lại lễ giáo, vì không muốn từ chối. Và còn vì đó là trái cấm có sức hấp dẫn khôn cưỡng.
Cô trả cho tài xế hai trăm krone kèm theo một nụ cười và bảo anh ta cứ giữ lấy tiền thừa, cho dù chiếc xe bốc mùi thấy gớm. Chỉ đến khi chiếc taxi đi rồi Toya mới hiểu vì sao anh ta cứ nhìn chằm chằm vào gương. Cái mùi đó không phải của anh ta, mà bốc ra từ người cô.
“Chết tiệt!”
Cô quệt phần đế bằng da của chiếc bốt cao bồi cao gót lên vỉa hè, để lại mấy vệt màu nâu. Cô đưa mắt tìm xem có vũng nước nào không, nhưng chẳng có nổi một vũng ở Oslo gần năm tuần nay rồi. Cuối cùng cô đành bỏ cuộc và bước tới nhấn chuông cửa.
“Ai đấy?”
“Vệ Nữ đây,” cô rủ rỉ nói.
Cô mỉm cười một mình.
“Còn đây là Pygmalion,” giọng nói đáp.
Chính là cái tên này!
Có tiếng rì rì vang lên trong ổ khóa. Toya chợt do dự một giây. Cơ hội cuối cùng để rút lui. Nhưng rồi, cô hất tóc ra sau và mở cửa.
Anh ta đang đứng ở ngưỡng cửa, tay cầm đồ uống trong lúc chờ cô.
“Có làm đúng như tôi dặn không đấy?” anh ta hỏi. “Cô không nói cho ai biết nơi cô sắp đến chứ?”
“Không, anh điên à?”
Cô đảo tròn mắt.
“Có thể,” anh ta nói, mở rộng cửa. “Cô vào đi, và nhớ chào Galatea nhé.”
Toya bật cười dù cô chẳng hiểu anh ta đang nói gì. Cô bật cười dù linh tính mách bảo một chuyện chẳng lành sắp xảy đến.
Harry tìm được chỗ đỗ xe phía dưới phố Markveien một đoạn, anh tắt máy rồi ra khỏi xe. Anh châm thuốc lá và đưa mắt dò xét xung quanh thật nhanh. Phố xá vắng tanh. Cứ như thể người người đều đã yên vị trong nhà cả rồi vậy. Những đám mây trắng thuần khiết lúc ban chiều giờ đã tản ra, tạo thành một tấm thảm màu xanh xám phủ kín bầu trời.
Anh đi dọc theo dãy nhà chi chít chữ graffiti trên mặt tiền cho đến khi dừng chân trước cổng. Điếu thuốc giờ chỉ còn trơ lại đầu lọc và anh ném nó đi. Harry nhấn chuông rồi chờ đợi. Tiết trời nồm đến nỗi hai lòng bàn tay anh đầm đìa mồ hôi. Hay đó là vì anh khiếp sợ? Anh xem đồng hồ đeo tay và ghi nhớ thời gian.
“Ai đấy?” một giọng nói cáu kỉnh vang lên.
“Chúc buổi tối tốt lành. Harry Hole đây.”
Không có lời đáp.
“Cảnh sát ấy,” anh nói thêm.
“Phải rồi. Xin lỗi, tôi đang mải nghĩ đến chuyện khác. Mời anh vào.”
Cửa chính rung lên rì rì.
Harry chậm rãi bước lên cầu thang.
Họ đang đúng chờ anh ở cửa ra vào, cả hai người.
“Ôi không,” Ruth nói. “Trời sắp sập rồi đây.”
Harry đứng trên chiếu nghỉ trước mặt họ.
“Mưa ấy mà,” cô nàng Trondheim Eagle chêm vào như để giải thích.
“À, ra vậy.” Harry chùi hai lòng bàn tay lên quần.
“Chúng tôi có thể giúp được gì cho anh, thanh tra?”
“Các cô có thể giúp tôi bắt Sát nhân Giao hàng,” Harry đáp.
Toya nằm co quắp như bào thai trong bụng mẹ ở chính giữa chiếc giường, đăm đăm nhìn chính mình trong tấm gương treo trên cửa tủ quần áo đang để mở, áp sát vào tường. Cô lắng nghe tiếng vòi sen trong phòng tắm ở tầng dưới. Anh ta đang gột sạch mùi hương của cô trên người. Toya trở mình. Cái đệm nước nhẹ nhàng lún xuống theo đường nét cơ thể cô. Cô nhìn tấm ảnh. Cả hai đều đang tươi cười nhìn vào camera. Lúc đó họ đang đi nghỉ. Chắc là ở Pháp. Cô vuốt những ngón tay lên ga giường mát rượi. Thân thể anh ta cũng lạnh lẽo. Lạnh lẽo, rắn chắc và nở nang đối với một người lớn tuổi nhường ấy. Nhất là phần mông và đùi. Anh ta nói đó là nhờ một thời anh ta từng làm vũ công. Anh ta đã luyện cơ bắp đều đặn hằng ngày suốt mười lăm năm trời. Chúng chẳng bao giờ mất đi.
Sự chú ý của Toya đột nhiên bị hút về phía cái thắt lưng đen đang lồng vào chiếc quần vứt lăn lóc trên sàn.
Mười lăm năm. Chúng chẳng bao giờ mất đi.
Cô nằm ngửa, dịch lên phía đầu giường và nghe thấy tiếng nước lõng bòng bên trong lớp đệm cao su. Nhưng từ nay về sau, mọi chuyện sẽ khác. Giờ Toya đã thông minh hơn xưa. Một cô gái ngoan. Đúng như ước nguyện của bố mẹ. Giờ cô đã trở thành Lisbeth rồi.
Toya tựa đầu vào tường và lún người xuống sâu hơn. Có thứ gì đó cù nhẹ giữa hai bả vai cô. Cảm giác như đang ở trên một con thuyền dập dềnh theo sông nước. Cô nằm đó miên man nghĩ ngợi.
Wilhelm đã hỏi cô có muốn dùng dương cụ giả trong lúc anh ta quan sát không. Cô đồng ý. Ngoan lắm. Anh ta mở hộp dụng cụ. Toya nhắm mắt lại, vậy mà những luồng sáng - thứ ánh sáng chiếu qua khe hở giữa các tấm ván trên tường kho thóc - vẫn hiện lên đằng sau mí mắt cô. Rồi khi anh ta xuất ra trong miệng cô, cô thấy có vị của kho thóc nhưng cô không nói gì. Vậy mới thông minh.
Thật thông minh khi Wilhelm luyện cho cô cách nói và hát giống như em gái. Cố bắt chước nụ cười của nó. Wilhelm đã đưa cho thợ trang điểm tấm ảnh chụp Lisbeth và yêu cầu họ hóa trang cho Toya trông giống hệt như vậy. Điều duy nhất cô chưa học được là điệu cười của Lisbeth, vì thế Wilhelm bảo cô đừng cố nữa. Đôi lúc cô tự hỏi nỗ lực đó chẳng biết có mấy phần là để giúp cô diễn tròn vai Eliza Doolittle, và mấy phần là vì Wilhelm khát khao Lisbeth đến tuyệt vọng. Giờ cô đang ở trên giường của anh ta. Và có lẽ điều này cũng liên quan đến Lisbeth, vì anh ta và vì cả cô nữa. Wilhelm đã nói thế nào nhỉ? Tà dục luôn tìm đến những nơi hạ đẳng nhất để trú ngụ?
Thứ đó lại đang chọc vào lưng cô, cô bực bội cựa mình.
Về phần cô, nếu buộc phải hoàn toàn thành thật, Toya sẽ thú nhận cô chẳng nhung nhớ Lisbeth lắm. Nói vậy không có nghĩa cô không sửng sốt như bao người khác khi hay tin Lisbeth mất tích. Nhưng điều đó đã mở ra cho cô nhiều cơ hội mới. Toya được mời phỏng vấn, còn Xa Kéo Sợi vừa nhận được lời mời tham gia loạt chương trình ca nhạc để tưởng nhớ Lisbeth với mức cát xê hậu hĩnh. Giờ lại đến vai nữ chính trong vở My Fair Lady nữa chứ. Tuyệt hơn cả là ở chỗ, nó đang trên đà trở thành vở nhạc kịch ăn khách. Wilhelm đã bảo cô trong đêm công diễn rằng sắp tới cô hãy chuẩn bị tinh thần để làm người nổi tiếng. Một ngôi sao. Một nữ danh ca. Cô luồn tay xuống dưới lưng. Thứ gì cứ chọc vào người cô thế nhỉ? Một cục u. Bên dưới lớp ga trải giường. Cô ấn xuống thì nó biến mất. Sau đó nó lại trồi lên. Phải tìm hiểu cho ra nhẽ mới được.
“Wilhelm?”
Cô định gọi to hơn để át đi tiếng vòi sen ở tầng dưới, rồi cô chợt nhớ ra Wilhelm đã nghiêm khắc yêu cầu cô để cho giọng nói được nghỉ ngơi. Sau khi nghỉ xả hơi ngày hôm nay, kể từ mai cho tới hết tuần, tối nào họ cũng phải diễn. Khi cô đến, anh ta đã dặn cô tuyệt đối đừng nói gì, bất luận thế nào cũng không được lên tiếng. Thế mà lúc trước anh ta còn bảo muốn cùng cô ôn lại một vài đoạn thoại còn chưa ổn và bảo cô hóa trang thành Eliza để cảm giác được chân thật cơ đấy.
Toya gỡ lớp ga giường kéo căng ở một bên đệm nước và lật nó sang bên. Dưới đó không còn lớp ga giường nào khác, chỉ có tâm đệm cao su màu xanh dương mờ đục. Nhưng cái thứ đang nhô lên kia là gì vậy nhỉ? Cô áp tay lên đệm. Nó đó, ẩn dưới lớp cao su. Chẳng thấy được gì cả. Cô nhoài người sang bên kia, với tay bật chiếc đèn trên kệ đầu giường và xoay đèn lại sao cho ánh sáng rọi vào đúng vị trí. Cục u lại biến mất rồi. Cô đặt tay lên lớp đệm cao su và chờ đợi. Nó từ từ trồi lên, và cô nhận ra bất kể là gì đi chăng nữa thì thứ kia cũng luôn chìm xuống khi bị ấn rồi lại nổi lên. Cô bỏ tay ra.
Thoạt tiên, cô trông thấy những đường nét ẩn hiện dưới lớp cao su. Nhìn giống như dáng người nằm nghiêng vậy. Không phải giống như. Đúng là dáng người nằm nghiêng thật. Toya nằm bẹp xuống giường. Cô nín thở. Giờ cô cảm nhận được nó rồi. Bắt đầu từ bụng xuống tới tận ngón chân cô. Có một cơ thể hoàn chỉnh đang nằm bên trong tấm đệm. Cơ thể đó được đẩy lên bởi sức nổi của nước và bị dìm xuống dưới sức nặng của Toya, như là hai người đang cố gắng nhập vào làm một. Và có lẽ đúng là thế thật. Vì cô ngỡ như mình đang soi vào gương.
Giờ đây, cô muốn thét lên thật to. Muốn hủy hoại giọng nói này. Không muốn làm một cô gái ngoan. Hay thông minh. Cô muốn trở lại làm Toya của ngày xưa. Nhưng đó là điều không thể. Cô chỉ biết nhìn chằm chằm vào khuôn mặt tái xanh của người em gái cũng đang nhìn cô không chớp bằng cặp mắt mờ đục. Và lắng nghe tiếng xì xì của vòi sen, chẳng khác gì tiếng nhiễu của ti vi sau khi chương trình phát sóng đã kết thúc. Và tiếp đó là tiếng nước rỏ tong tỏng trên sàn gỗ ở cuối giường phía sau lưng cô, nói với cô rằng Wilhelm đã không còn ở trong nhà tắm nữa.
“Không thể là ông ta,” Ruth nói. “Không… không… thể nào như thế được.”
“Lần cuối tôi tới đây, cô đã bảo cô định thử trèo lên mái để nhảy sang nhà Barli nhòm trộm một tí,” Harry nói. “Và rằng cửa sân thượng nhà ông ta mở toang suốt cả mùa hè. Cô có chắc vậy không?”
“Chắc như bắp, nhưng chẳng lẽ anh không thể chỉ việc gọi điện sang đó được sao?” cô nàng Trondheim Eagle hỏi.
Harry lắc đầu.
“Làm thế sẽ khiến ông ta nghi ngờ, mà chúng tôi thì không thể liều lĩnh để ông ta trốn mất. Tôi phải bắt được ông ta trong đêm nay, nếu còn chưa quá muộn.”
“Quá muộn để làm gì?” cô nàng Trondheim Eagle hỏi, một mắt nheo lại.
“Nghe này, tất cả những gì tôi muốn nhờ hai cô chỉ là các cô làm ơn cho tôi trèo qua ban công để lên mái nhà.”
“Thực sự không còn ai khác đi cùng anh ư?” cô nàng Trondheim Eagle hỏi. “Anh không có giấy khám nhà hay gì đó à?”
Harry lắc đầu.
“Có căn cứ xác thực để nghi ngờ là đủ,” anh đáp. “Không cần giấy tờ nào cả.”
Một tiếng sấm ì ùng vang lên phía trên đầu Harry nghe đầy hăm dọa. Máng nước trên ban công được sơn màu vàng, nhưng lớp sơn đã tróc gần hết, để lộ những mảng gỉ đỏ to tướng. Harry bám cả hai tay vào đó và kéo nhẹ để thử độ chắc chắn của nó. Cái máng lỏng ra kèm theo tiếng rên rỉ, chiếc đinh ốc bật tung khỏi lớp vữa thạch cao, rơi xuống sân đánh keng một tiếng. Harry buông tay và rủa thầm. Nhưng vì chẳng còn cách nào khác nên anh đành đặt một chân lên lan can rồi đu người lên. Anh nhòm qua thành lan can. Và hít mạnh một hơi theo phản xạ. Tấm ga giường trên giá phơi đồ xoay 360 độ trông chẳng khác gì một con tem màu trắng phất phơ trong gió.
Anh cố vắt một chân lên máng nước và trèo qua. Mái nhà tuy dốc nhưng đôi bốt bền chắc Doc Martens có độ bám trên mặt ngói khá tốt, đủ để anh bước hai bước về phía đường ống nước và ôm ghì lấy nó vào lồng ngực như thể một người bạn đã lâu không gặp. Anh đứng thẳng, đưa mắt nhìn quanh. Một ánh chớp lóe lên phía khu Nesodden. Bốn bề vốn lặng gió lúc anh mới đến thì giờ gió đã đang khẽ vờn áo khoác của anh. Chợt Harry giật mình khi một bóng đen bỗng vụt qua trước mặt. Cái bóng cắt ngang khoảng không phía trên sân trung tâm. Hóa ra là một con én. Harry chỉ kịp nhác thấy nó trong lúc con chim đi tìm chỗ trú ẩn dưới mái hiên.
Harry lập cập leo lên đỉnh mái nhà, nhìn thẳng về phía mục tiêu là cột chong chóng chỉ hướng gió màu đen ở cách đó mười lăm mét, hít một hơi thật sâu rồi bắt đầu bước từng bước dọc theo gờ đỉnh mái, hai cánh tay dang ra như đang bước trên dây.
Anh đi được nửa đường thì có biến.
Harry nghe thấy tiếng gió rít, lúc đầu anh tưởng là nó bắt nguồn từ những ngọn cây dưới kia. Âm thanh mỗi lúc một lớn, cùng lúc đó, giá phơi đồ xoay 360 độ trong sân cũng bắt đầu quay tít và rít lên the thé. Anh không thể cảm nhận được gió thổi, chưa thấy gì cả. Thế rồi nó đột ngột tấn công anh. Trận hạn hán thế là đã chấm dứt. Gió thốc thẳng vào ngực anh chẳng khác nào đợt không khí ùa đến như thác lũ do tác động của một khối nước lớn thình lình ập xuống. Anh loạng choạng lùi lại một bước rồi đứng chới với trên gờ mái. Anh nghe thấy nó đang tiến nhanh về phía mình, át cả tiếng ngói khua lạch cạch. Mưa. Mưa xối xả. Mưa sầm sập trút xuống mái nhà, chưa đầy một giây đã khiến mọi thứ ướt nhẹp. Harry cố giữ thăng bằng nhưng xung quanh chẳng có gì để bấu víu, tưởng như anh đang bước đi trên xà phòng. Bỗng một bên giày trượt đi, khiến anh hốt hoảng nhào về phía cột chong chóng chỉ hướng gió. Hai cánh tay anh vươn dài về phía trước, bàn tay xòe ra. Tay phải qườ quạng trên mặt ngói hòng tìm được chỗ bám nhưng chẳng thấy gì. Trọng lực đang kéo anh xuống. Những móng tay anh cào lên mặt ngói nghe như tiếng mài lưỡi hái khi anh trượt từ trên xuống. Anh nghe thấy tiếng rít chói tai của giá phơi đồ xoay 360 độ cứ nhỏ dần, cảm thấy cái máng nước sượt qua đầu gối và biết rằng anh sắp rơi ra khỏi mái nhà. Anh vươn dài thân người trong nỗ lực tuyệt vọng cuối cùng, cố khiến mình dài ra, biến bản thân thành một cột ăng ten. Cột ăng ten. Bàn tay trái của anh tóm được cây cột và bám chắc. Cái cột kim loại mềm oặt đi, bị uốn cong và oằn cả lại. Trông nó như thể sắp rơi xuống sân cùng với anh đến nơi. Nhưng nó vẫn đứng vững.
Harry nắm chặt cây cột bằng cả hai tay và đu người lên. Anh xoay xở co được đôi chân đang đi giày có đế cao su, lấy hết sức bình sinh đạp vào bề mặt và tìm được điểm tựa. Mặc cho mưa quất vun vút vào mặt, anh lại bò lên đến đỉnh mái, ngồi giạng chân trên đó và nhẹ nhõm thở phào một hơi. Cột ăng ten bằng kim loại cong queo dưới kia giờ đang chỉ xuống đất. Tối nay ti vi nhà ai đó chắc sẽ khó mà bắt được tín hiệu của chương trình Beat for Beat phát lại.
Harry chờ cho tới khi mạch trong người đập chậm lại đôi chút. Sau đó anh đứng dậy và tiếp tục màn đi trên dây. Cột chong chóng chỉ hướng gió nhận về một nụ hôn.
Sân thượng nhà Barli là sân áp mái, nhờ vậy Harry chỉ cần vung chân là có thể dễ dàng đáp xuống mặt sân lát gạch đất nung màu đỏ. Chân anh tiếp đất với một tiếng “bõm”, nhưng âm thanh đó đã bị nhấn chìm bởi tiếng gầm rú và ồ ồ của máng xối trên mái nhà bị ngập.
Ghế đã được cất vào nhà, chiếc bếp nướng ngoài trời đen sì nằm chết gí trong góc, nhưng cửa sân thượng đang mở hé.
Thoạt tiên, anh chỉ nghe thấy mỗi tiếng mưa rào rào trên mái ngói, nhưng khi thận trọng bước qua ngưỡng cửa và đặt chân vào phòng, anh đã có thể phát hiện ra một âm thanh khác cũng do nước gây ra. Nó xuất phát từ phòng tắm dưới nhà. Tiếng vòi sen. Cuối cùng thì may mắn cũng mỉm cười với anh đôi chút. Harry vỗ vỗ vào các túi áo khoác ướt nhẹp để tìm cái đục. Anh chỉ hy vọng sẽ bắt được Barli trong tình trạng không mảnh vải che thân, cũng chẳng có vũ khí, nhất là khi ông ta có thể vẫn còn giữ khẩu súng do Sven giao cho vào thứ Bảy tại công viên Frogner.
Harry thấy cửa phòng ngủ đang mở. Trong hộp dụng cụ đặt cạnh giường có một con dao Sami. Anh nhón chân bước tới cửa và lẻn vào phòng.
Căn phòng tối om, chỉ được chiếu sáng tù mù nhờ ngọn đèn đọc sách trên kệ đầu giường. Harry đứng ở cuối giường, ánh mắt anh chằm chằm nhìn về phía bức tường cùng ảnh chụp hai vợ chồng Lisbeth và Barli trong kỳ trăng mật trước một tòa nhà cổ kính tráng lệ với bức tượng kỵ sĩ trên lưng ngựa. Giờ Harry đã biết tấm ảnh này không phải chụp ở Pháp. Theo Sven thì một người dù chỉ được ăn học nửa vời hẳn cũng sẽ nhận ra bức tượng đó là của người anh hùng dân tộc Séc, Václav, sừng sững trước cổng Bảo tàng Quốc gia ở quảng trường Václav tại thủ đô Praha.
Mắt Harry giờ đã quen với bóng tối. Anh chuyển sự chú ý sang chiếc giường đôi và chết trân tại chỗ: anh nín thở, bất động đứng đó chẳng khác gì người tuyết. Tấm chăn lông vịt đã bị vứt xuống sàn, ga giường bị lật lên một nửa, để lộ ra tâm đệm cao su màu xanh da trời. Trên giường có một người khỏa thân đang nằm sấp, khuỷu tay chống đỡ lấy phần thân trên. Cặp mắt đang hướng về vị trí ánh sáng từ chiếc đèn đọc sách rọi lên tấm đệm xanh.
Cơn mưa trên mái gõ hồi trống cuối cùng của riêng nó trước khi đột ngột ngừng hẳn. Người nằm đó rõ ràng không nghe thấy tiếng Harry vào phòng, nhưng Harry, cũng giống như phần lớn người tuyết vào tháng Bảy, đều gặp phải một vấn đề. Toàn thân anh ướt sũng. Nước từ áo khoác anh rỏ tong tỏng xuống sàn gỗ, âm thanh vang lên chẳng khác nào tiếng sấm nổ bên tai Harry.
Thân thể đang nằm trên giường bỗng căng cứng. Rồi xoay lại. Trước hết là toàn bộ cái đầu. Sau đó là nguyên tấm thân trần truồng lồ lộ của ông ta hiện ra.
Thứ đập vào mắt Harry trước tiên chính là cái của quý đang cương lên, đung đưa hệt như máy đánh nhịp.
“Chúa ơi! Harry đây à?”
Giọng Wilhelm Barli nghe vừa sợ hãi lại như vừa trút được gánh nặng.