← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 41 Thứ Hai
CÁI KẾT HẠNH PHÚC

“Ngủ ngon con nhé!”

Rakel thơm lên trán Oleg và dém chăn quanh mình thằng bé. Sau đó cô đi xuống nhà dưới, ngồi trong bếp ngắm mưa rơi.

Cô thích mưa lắm. Mưa làm sạch không khí, cuốn trôi đi quá khứ. Một sự khởi đầu mới. Đó là điều cô cần lúc này. Một sự khởi đầu mới.

Cô đi ra cửa chính, sờ xem cửa đã khóa chưa. Lần này là lần thứ ba cô làm vậy trong buổi tối hôm nay. Thực sự cô lo sợ điều gì mới được chứ?

Sau đó, cô bật ti vi lên.

Trên đài đang phát một chương trình ca nhạc nào đó. Có ba người cùng ngồi trên một chiếc ghế chơi dương cầm. Họ đang nhìn nhau mỉm cười. Trông như một gia đình nhỏ vậy, Rakel nghĩ thầm.

Cô giật mình khi nghe thấy tiếng sấm vang rền trong không gian.

“Anh không biết vừa rồi anh khiến tôi sợ đến thế nào đâu.”

Wilhelm Barli lắc lắc đầu, cái của quý đang dần nhỏ lại cũng theo đó mà đung đưa.

“Tôi có thể phần nào hình dung được,” Harry đáp. “Ý tôi là, vì tôi lẻn vào qua cửa sân thượng mà.”

“Không, Harry, anh thực sự không hình dung nổi đâu.”

Wilhelm nhoài người qua mép giường để nhặt tấm chăn lông vịt trên sàn và quấn nó quanh người.

“Tiếng động phát ra nghe như ông đang tắm cơ mà,” Harry nói.

Wilhelm lắc đầu và nhăn mặt.

“Không phải tôi,” ông ta nói.

“Thế thì ai?”

“Tôi có khách. Một… phụ nữ.”

Ông ta cười khẩy và chỉ vào một chiếc ghế, trên đó đang để một cái chân váy da lộn, áo ngực đen và một chiếc tất da chân cũng màu đen có thun co giãn ở cổ tất.

“Sự cô đơn khiến cánh đàn ông trở nên yếu lòng. Phải vậy không, Harry? Chúng ta kiếm tìm sự khuây khỏa từ bất cứ nguồn nào mình có thể. Có những người thì dựa vào men rượu. Những người khác…”

Wilhelm nhún vai.

“Chúng ta sẵn lòng chấp nhận sự thật là ai cũng có thể phạm sai lầm, phải không Harry? Và đúng, lương tâm tôi quả thật đang cắn rứt.”

Mắt Harry đã quen và giờ anh có thể trông thấy chúng, hai dòng lệ chảy dài trên má Wilhelm.

“Anh hứa sẽ không nói với ai chứ, Harry? Đó là một phút sa ngã.”

Harry bước tới chỗ chiếc ghế, vắt chiếc tất độc nhất lên lưng ghế rồi ngồi xuống.

“Tôi có thể nói với ai được chứ, Wilhelm? Vợ ông chắc?”

Căn phòng thình lình sáng rực khi ánh chớp vụt qua, theo sau là tiếng sấm đì đùng.

“Chẳng bao lâu nữa nó sẽ ở ngay trên đầu chúng ta,” Wilhelm nói.

“Đúng thế.” Harry đưa tay quệt cái trán ướt.

“Vậy rốt cuộc anh muốn gì?”

“Tôi nghĩ ông đã biết câu trả lời rồi, Wilhelm.”

“Dù sao thì anh cũng cứ nói đi.”

“Chúng tôi đến để đưa ông đi.”

“Không phải ‘chúng tôi’. Anh đến một mình thôi, phải không. Hoàn toàn đơn độc.”

“Điều gì khiến ông nghĩ vậy?”

“Ánh mắt anh. Ngôn ngữ cơ thể anh. Tôi có khả năng đọc vị người khác mà, Harry. Anh lẻn vào đây, định tận dụng yếu tố bất ngờ. Đó không phải là cách tấn công khi đi săn theo bầy, Harry ạ. Sao anh lại đi một mình? Những người khác đâu? Có ai biết anh đến đây không?”

“Điều đó không quan trọng. Cứ cho là tôi hành động một mình đi. Ông vẫn sẽ phải chịu sự trừng phạt vì đã giết hại bốn mạng người.”

Wilhelm đặt một ngón tay lên môi, có vẻ như đang trầm ngâm suy nghĩ trong lúc Harry kể ra từng cái tên, “Marius Veland. Camilla Loen. Lisbeth Barli. Barbara Svendsen.”

Wilhelm đưa mắt nhìn xa xăm hồi lâu. Sau đó ông ta chậm rãi gật đầu và bỏ ngón tay ra khỏi môi.

“Làm thế nào anh biết được, hả Harry?”

“Khi tôi hiểu ra nguyên nhân. Lòng ghen tuông. Ông muốn trả thù cả hai người đó, đúng chữ? Khi ông phát hiện Lisbeth đã gặp Sven Sivertsen và họ dan díu với nhau ngay trong tuần trăng mật của ông bà tại Praha.”

Wilhelm nhắm mắt lại và ngả đầu xuống giường. Cái đệm nước phát ra tiếng lóc bóc.

“Tôi không hề biết tấm ảnh ông và Lisbeth được chụp tại Praha, cho tới khi trông thấy bức tượng đó trong một tấm ảnh khác được gửi từ Praha tới cho tôi qua e-mail vào sáng nay.”

“Và sau đó anh hiểu ra mọi chuyện?”

“Ừm, khi ý nghĩ này xuất hiện lần đầu tiên, tôi đã gạt nó đi vì cho rằng nó là một ý tưởng thật ngớ ngẩn, nhưng rồi dần dần tôi lại thấy hợp lý. Đúng hơn là hợp lý ở mức độ có thể hiểu được đối với một việc làm điên rồ. Thật hợp lý khi Sát nhân Giao hàng không phải là tên sát nhân hàng loạt gây án nhằm thỏa mãn nhục dục, mà là kẻ dàn dựng sao cho nhìn bề ngoài những vụ giết người có vẻ như xoay quanh mục đích đó. Để khiến mọi người tin rằng Sven Sivertsen chính là hung thủ. Người duy nhất có thể dàn dựng một việc như thế phải là một người chuyên nghiệp, người mà công việc và đam mê của hắn chính là vậy.”

Wilhelm mở một bên mắt.

“Nếu tôi hiểu đúng, phải chăng ý anh đang muốn nói kẻ này lên kế hoạch giết hại bốn mạng người chỉ để trả thù một người duy nhất?”

“Trong số năm nạn nhân ông nhắm tới, chỉ có ba người được lựa chọn tình cờ. Ông dàn dựng các hiện trường gây án sao cho có vẻ như họ được chọn dựa theo các đỉnh ngẫu nhiên của ngôi sao của quỷ, nhưng thực ra, ông đã vẽ ngôi sao dựa trên hai đỉnh cố định là nhà của chính ông và nhà mẹ đẻ của Sven Sivertsen. Xảo quyệt đấy, nhưng cũng chỉ là hình học đơn giản.”

“Anh có thực sự tin vào giả thuyết của mình không, Harry?”

“Sven Sivertsen chưa bao giờ nghe nói đến bất kỳ Lisbeth Barli nào cả. Nhưng ông biết sao không, Wilhelm? Anh ta lại nhớ bà nhà khá rõ khi tôi cho anh ta biết tên thời con gái của bà ấy: Lisbeth Harang.”

Wilhelm im lặng không đáp.

“Điều duy nhất tôi chưa hiểu,” Harry nói, “là tại sao ông lại đợi đến chừng ấy năm mới trả thù.”

Wilhelm dịch người lên đầu giường.

“Cứ cho rằng tôi không hiểu điều anh đang ám chỉ là gì đi Harry. Tôi không muốn thú tội và khiến cả hai chúng ta lâm vào thế khó. Tuy nhiên, vì may mắn đang nghiêng về phía tôi khi anh chẳng thể chứng minh được bất cứ điều gì, nên tôi không ngại tán gẫu với anh một lúc. Anh biết đấy, tôi đánh giá cao những người biết lắng nghe.”

Harry cựa mình trên ghế với vẻ thiếu thoải mái.

“Đúng vậy, Harry, đúng là tôi biết Lisbeth đã ngoại tình với gã đàn ông đó, nhưng chỉ đến hè này tôi mới phát hiện ra.”

Trời lại bắt đầu đổ mưa phùn. Những giọt mưa thi nhau táp vào cửa sổ.

“Bà ấy đã nói với ông à?”

Wilhelm lắc đầu. “Cô ta sẽ chẳng đời nào chịu nói đâu. Cô ta xuất thân trong một gia đình không có thói quen nói chuyện thẳng thắn với nhau. Nếu không vì sửa sang lại căn hộ thì có lẽ chuyện này sẽ chẳng bao giờ bị phơi bày. Tôi đã tìm thấy một lá thư.”

“Như thế nào?”

“Bức tường ngoài ở phòng làm việc của cô ta hoàn toàn là gạch thô. Nó là bức tường nguyên bản có từ khi tòa nhà được xây dựng vào thời khắc chuyển giao thế kỷ. Tuy vững chãi đấy nhưng đến mùa đông thì hoàn toàn lạnh cóng. Tôi muốn ốp ván lại cho nó và thêm các lớp cách nhiệt ở mặt trong. Lisbeth không đồng ý. Tôi thấy điều đó thật lạ, vì cô ta là người thực tế, sinh ra và lớn lên ở một nông trang, chứ không phải típ phụ nữ đa cảm đến mức quyết giữ lại một bức tường gạch cũ. Vì vậy, một hôm, khi cô ta đi vắng, tôi đã kiểm tra bức tường. Tôi không phát hiện được bất cứ thứ gì cho tới khi đẩy bàn làm việc của cô ta sang một bên. Dù vẫn không thể thấy điều gì bất thường, nhưng tôi đã chọc thử từng viên gạch. Một viên gạch nọ hơi xê dịch chút xíu. Tôi dùng tay kéo và rồi nó long ra. Cô ta đã dùng vữa màu xám để ngụy trang những khe hở xung quanh viên gạch. Trong cái hốc đó, tôi tìm được hai lá thư. Trên bì thư có ghi tên Lisbeth Harang cùng với địa chỉ lưu ký mà tôi không hề biết cô ta có sở hữu. Thoạt tiên, tôi đã định không đọc và đặt lại lá thư vào lại chỗ cũ, cố coi như mình chưa từng trông thấy chúng. Nhưng tôi là kẻ yếu đuối. Tôi không làm được. ‘Liebling, em luôn ngự trị trong tâm trí tôi. Môi kề môi, da kề da, cảm giác ấy vẫn còn đây’ - lá thư bắt đầu như thế đấy.”

Tấm đệm phát ra tiếng róc rách.

“Những câu từ ấy chẳng khác nào đòn rơi đau buốt quất vào tôi, nhưng tôi vẫn tiếp tục đọc. Thật kỳ quái, vì từng từ trong đó cứ như do chính tay tôi viết ra vậy. Sau khi bày tỏ tình yêu sâu đậm dành cho cô ta, hắn chuyển sang mô tả tương đối chi tiết những gì chúng đã làm trong phòng khách sạn ở Praha. Nhưng những lời kể về cuộc mây mưa giữa chúng không phải là điều khiến tôi đau đớn nhất. Mà đó là khi hắn dẫn lại một điều cô ta hẳn đã nói lúc đề cập đến mối quan hệ giữa tôi và cô ta. Rằng đối với cô ta, đó chỉ là ‘giải pháp thực tế cho mối quan hệ không có tình yêu’. Anh có hình dung nổi cảm giác ấy như thế nào không, Harry? Cảm giác khi anh phát hiện hóa ra người phụ nữ anh yêu không chỉ lừa dối anh, mà còn chưa bao giờ yêu anh. Không được yêu thương - đó chẳng phải là định nghĩa căn bản nhất về một cuộc đời thất bại hay sao?”

“Không,” Harry đáp.

“Không ư?”

“Vui lòng kể tiếp, nếu ông không phiền.”

Wilhelm nhìn Harry bằng ánh mắt thăm dò.

“Hắn gửi kèm một tấm ảnh của mình trong thư. Tôi đoán cô ta đã cầu xin hắn gửi nó. Tôi đã nhận ra hắn. Hắn chính là gã người Na Uy chúng tôi gặp trong một quán cà phê ở Perlova, một khu vực khá tệ nạn ở Praha với toàn đĩ điếm và hầu hết là nhà thổ. Hắn đang ngồi ở quầy bar khi chúng tôi bước vào quán. Tôi đã để mắt tới hắn vì trông hắn rất có phong cách quý ông từng trải, cao sang, kiểu người mẫu mà hãng Boss hay dùng. Ăn vận lịch duyệt và lớn tuổi, thực sự là thế. Nhưng sở hữu cặp mắt trẻ trung, tinh nghịch, khiến đám đàn ông phải để ý canh chừng vợ cẩn thận hơn. Bởi vậy, tôi không mấy ngạc nhiên khi một lát sau hắn đi sang bàn vợ chồng tôi, tự giới thiệu bản thân bằng tiếng Na Uy và mời chúng tôi mua một sợi dây chuyền. Tôi đã lịch sự cảm ơn hắn và từ chối, nhưng hắn vẫn rút sợi dây từ trong túi ra cho Lisbeth xem, khi trông thấy nó, dĩ nhiên cô ta liền không ngừng xuýt xoa và nói rằng mình thích nó. Mặt dây là một viên kim cương đỏ hình ngôi sao năm cánh. Tôi hỏi hắn bán ngôi sao đó bao nhiêu tiền, và khi hắn ra một cái giá quá ư trên trời đến nỗi chỉ có thể là lời khiêu khích, tôi đã đuổi hắn đi. Hắn mỉm cười với tôi như thể vừa giành được phần thắng, ghi địa chỉ một quán cà phê khác lên một mảnh giấy và nói chúng tôi có thể đến tìm hắn tại đó vào giờ này ngày mai nếu chúng tôi đổi ý. Dĩ nhiên, hắn đưa mảnh giấy cho Lisbeth. Tôi vẫn nhớ được tâm trạng mình không tốt cho tới hết buổi sáng. Nhưng rồi tôi cũng quên hết mọi chuyện. Lisbeth có tài khiến anh quên mau lắm. Có những khi cô ta” - Wilhelm quệt một ngón tay dưới mắt - “làm được điều ấy chỉ bằng cách hiện diện bên cạnh anh.”

“Ừm. Thế lá thư còn lại thì sao?”

“Đó là thư cô ta viết và rõ ràng đang cố gửi cho hắn. Trên phong bì có đóng dấu ‘Hoàn lại người gửi’. Cô ta kể rằng mình đã cố tìm đủ mọi cách để liên lạc với hắn nhưng khi gọi đến số điện thoại hắn đưa thì không ai nghe máy, cả tổng đài lẫn bưu điện đều không thể tìm ra tung tích của hắn. Cô ta còn bảo mình hy vọng bằng cách nào đó lá thư này sẽ đến được với hắn và hỏi có phải hắn bất đắc dĩ mới chạy trốn khỏi Praha hay không. Có thể hắn vẫn đang phải vật lộn với những khó khăn về tài chính như hồi hắn hỏi vay tiền cô ta chăng.”

Wilhelm bật cười khô khốc.

“Nếu đúng là thế thì hắn hãy cứ mạnh dạn liên lạc với cô ta, cô ta viết như vậy. Và cô ta sẽ giúp hắn lần nữa. Vì cô ta yêu hắn. Cô ta không thể nghĩ được điều gì khác - phải xa cách nhau thế này khiến cô ta như phát điên. Cô ta đã hy vọng thời gian sẽ giúp cô ta nguôi ngoai, vậy mà trái lại, cảm giác ấy cứ ngày một lan ra chẳng khác nào căn bệnh và từng xentimet trên thân thể cô ta đều đau đớn. Và có những chỗ rõ ràng là đau nhiều hơn cả, vì cô ta viết rằng những lúc cô ta để cho lão chồng - tức là tôi đây - làm tình với mình, cô ta đều nhắm mắt lại và giả bộ người đó là hắn. Tôi đương nhiên là bị sốc. Phải, choáng váng. Nhưng lòng tôi như chết hẳn khi trông thấy ngày tháng của dấu bưu điện trên phong bì.”

Wilhelm lại nhắm nghiền mắt.

“Bức thư được gửi đi hồi tháng Hai. Năm nay.”

Lại một tia chớp nữa vụt sáng, hắt những bóng đen lên tường. Chúng vẫn lưu lại trên đó như những bóng ma ánh sáng.

“Là anh, anh sẽ xử lý thế nào?” Wilhelm hỏi.

“Hỏi đúng lắm, ông đã xử lý thế nào?”

Wilhelm mỉm cười yếu ớt.

“Giải pháp của tôi là thưởng thức pate gan ngỗng cùng với rượu vang trắng. Tôi đã rải đầy hoa hồng trên giường, rồi chúng tôi ân ái suốt đêm. Trong lúc cô ta ngủ một mạch tới sáng, tôi nằm đó ngắm cô ta. Tôi biết mình không thể sống thiếu cô ta, nhưng đồng thời tôi cũng biết rằng để có được cô ta cho riêng mình, trước hết tôi phải để mất cô ta đã.”

“Và thế là ông vạch kế hoạch cho toàn bộ câu chuyện. Vừa lên kịch bản giết vợ như thế nào, vừa đảm bảo đổ tội cho nhân tình của bà ta.”

Wilhelm nhún vai.

“Tôi bắt tay vào việc theo cách tôi vẫn làm mỗi khi dàn dựng sân khấu. Cũng như tất cả những người khác trong nghề, tôi biết mấu chốt là làm sao tạo ra được ảo giác. Phải diễn màn kịch dối trá ấy cho thuyết phục để sự thật sẽ là điều khó ai tin nổi. Mục tiêu nghe thì có vẻ khó nhằn, nhưng khi đã bước chân vào nghề này, anh sẽ nhanh chóng hiểu ra rằng đạt được điều đó còn dễ hơn so với điều ngược lại. Con người ta đã quen với việc phải nghe những lời dối trá hơn là nghe sự thật.”

“Ừm. Kể cho tôi biết ông đã làm như thế nào đi.”

“Tại sao tôi lại phải mạo hiểm như thế?”

“Tôi đâu thể dùng bất kỳ điều nào ông nói để làm bằng chứng trước tòa đâu. Tôi không có nhân chứng, đã vậy còn đột nhập trái phép vào nhà ông.”

“Đúng vậy, nhưng anh là người thông minh, Harry ạ. Nhỡ tôi lỡ nói ra điều gì anh có thể lợi dụng cho cuộc điều tra thì sao.”

“Cũng có thể, nhưng tôi nghĩ ông sẵn lòng chấp nhận rủi ro.”

“Tại sao?”

“Vì ông thực sự muốn cho tôi biết. Ông đang vô cùng khao khát được giãi bày với tôi. Được nghe chính mình nói ra điều đó.”

Wilhelm Barli phá lên cười ha hả.

“Hóa ra anh tưởng anh hiểu tôi kia đấy, Harry?”

Harry lắc đầu trong lúc lục túi tìm bao thuốc lá. Nhưng vô vọng. Có thể nó đã rơi ra khi anh trượt ngã trên mái nhà.

“Tôi không hiểu ông, Wilhelm. Hay bất cứ ai trong số những người như ông. Tuy phải đối mặt với lũ sát nhân suốt mười lăm năm qua, nhưng tôi vẫn chỉ ngộ ra được một điều duy nhất: ấy là chúng luôn kiếm tìm một ai đó lắng nghe chúng tiết lộ những bí mật của mình. Ông còn nhớ lúc ở trong nhà hát ông đã bắt tôi hứa điều gì không? Đó là bắt bằng được hung thủ. Ừm, tôi đã giữ đúng lời hứa. Vì vậy chúng ta thỏa thuận thế này nhé. Ông kể tôi nghe cách thức ông gây án, tôi sẽ cho ông biết những bằng chứng chúng tôi thu được.”

Wilhelm chăm chú quan sát vẻ mặt Harry. Một tay vuốt ve tấm đệm.

“Anh nói đúng, Harry. Tôi muốn nói cho anh hay. Hay chính xác hơn là tôi muốn anh hiểu. Từ những gì tôi biết được về anh, tôi nghĩ anh đủ khả năng để tiếp nhận sự thật. Anh biết đây, tôi luôn theo sát từng bước đi của anh ngay từ khi vụ này bắt đầu.”

Wilhelm bật cười khi trông thấy vẻ mặt Harry.

“Anh không biết, đúng không. Việc tìm kiếm Sven Sivertsen không ngờ lại mất nhiều thời gian hơn dự kiến,” Wilhelm nói. “Tôi đã sao lại tấm ảnh được gửi đến cho Lisbeth rồi tới Praha. Tôi đã lê la khắp các quán cà phê và quán bar ở Mustek cùng Perlova, đưa tấm ảnh ra hỏi những người xung quanh xem họ có quen biết người Na Uy nào tên là Sven Sivertsen không. Nhưng chẳng thu được gì. Có điều, rõ ràng một số người biết nhiều hơn so với những gì họ sẵn lòng tiết lộ. Vậy là vài ngày sau tôi thay đổi chiến thuật. Tôi bắt đầu đi dò hỏi xem có mối nào kiếm cho tôi được vài viên kim cương đỏ không. Tôi biết thứ đó có thể mua được ở Praha này. Tôi đóng giả một nhà sưu tầm kim cương người Đan Mạch tên là Peter Sandmann và cũng nói rõ là tôi sẵn lòng trả mức giá cực kỳ hấp dẫn cho một viên kim cương đặc biệt được cắt thành hình ngôi sao năm cánh. Tôi để lại địa chỉ lưu trú và hai ngày sau, điện thoại trong phòng khách sạn của tôi đổ chuông. Tôi nhận ra hắn ngay khi nghe thấy giọng nói ở đầu dây bên kia. Tôi giấu giọng thật của mình và nói chuyện với hắn bằng tiếng Anh. Tôi bảo rằng mình đang bận thương lượng để mua một viên kim cương khác và đề nghị gọi lại cho hắn vào tối nay. Tôi hỏi hắn có số điện thoại nào chắc chắn liên hệ được hay không. Tôi có thể nhận ra từ giọng hắn rằng hắn đang cố kiềm chế để không tỏ ra quá sốt sắng và nghĩ mình có thể dễ dàng hẹn gặp hắn tại một con hẻm tối tăm nào đó ngay đêm nay. Tuy nhiên tôi ghìm lại, cũng như người thợ săn buộc phải kiềm chế bản thân khi con mồi đã lọt vào tầm ngắm nhưng vẫn cần đợi thêm cho tới khi mọi thứ đều hoàn hảo. Anh hiểu chứ?”

Harry chậm rãi gật đầu. “Tôi hiểu.”

“Hắn cho tôi số di động của mình. Ngày hôm sau tôi trở về Oslo. Mất tới một tuần để tôi thu thập những thông tin cần thiết về Sven Sivertsen. Tìm ra hắn là việc dễ dàng nhất. Có cả thảy hai mươi chín Sven Sivertsen trong hồ sơ đăng ký quốc gia, trong đó chín người ở vào độ tuổi phù hợp và chỉ một người duy nhất không có nơi ở cố định tại Na Uy. Tôi ghi lại địa chỉ gần đây nhất của người đó, tra số điện thoại qua tổng đài rồi gọi đến.

“Một bà già nghe máy. Bà ta nói Sven là con trai bà ta nhưng nhiều năm rồi hắn không sống ở nhà này nữa. Tôi nói với bà ta là tôi và vài người bạn học cũ của hắn đang cố liên lạc với các bạn để tổ chức họp lớp. Bà ta bảo hắn sống ở Praha nhưng đi công tác suốt và cũng không có địa chỉ cố định hay số điện thoại. Nhưng trên hết, bà ta nói hắn sẽ không hào hứng gặp gỡ bất cứ ai trong số bạn cũ đâu. Bà ta hỏi vừa rồi tôi nói mình tên gì? Tôi bảo hồi ấy tôi chỉ học cùng lớp với hắn trong sáu tháng nên chưa chắc hắn đã nhớ tên tôi. Mà nếu nhớ thì có thể là do hồi đó tôi vướng vào rắc rối với cảnh sát. Nghe đồn Sven cũng thế, có thật vậy không? Đến đây, giọng bà ta hơi đanh lại, bà ta nói chuyện xảy ra đã lâu lắm rồi, hơn nữa, cứ xem cách đối xử của đám bạn với hắn thì Sven có nổi loạn đôi chút cũng chẳng lạ. Tôi đã thay mặt các bạn trong lớp gửi lời xin lỗi tới hắn, sau đó cúp máy và gọi điện đến tòa án. Tôi tự xưng là phóng viên và hỏi họ có thể cho tôi biết Sven Sivertsen đã bị kết án gì không. Một tiếng đồng hồ sau, tôi phần nào biết được hắn làm công việc gì ở Praha. Buôn lậu kim cương và vũ khí. Một kế hoạch bắt đầu hình thành trong đầu tôi, dựa trên những dữ kiện tôi đã biết: hắn kiếm tiền bằng cách buôn lậu, những viên kim cương hình ngôi sao năm cánh, vũ khí, địa chỉ nhà mẹ hắn. Giờ anh bắt đầu thấy được các mối liên hệ rồi chứ?”

Harry không đáp.

“Sau đó, khi tôi gọi lại cho Sven Sivertsen thì đã ba tuần trôi qua kể từ chuyến viếng thăm Praha. Tôi dùng giọng thật trao đổi với hắn bằng tiếng Na Uy, đi thẳng vào vấn đề và nói với hắn rằng tôi đang tìm mối cung cấp vũ khí và kim cương lâu dài cho mình và tôi không muốn có bất kỳ trung gian nào dính dáng. Tôi nói tôi nghĩ mình đã tìm được đúng người: chính là hắn, Sven Sivertsen. Hắn hỏi tôi làm thế nào tôi biết được tên và số điện thoại của hắn, tôi đáp rằng sự kín tiếng của tôi cũng có thể có lợi cho hắn đấy. Tôi đề nghị hai bên tránh hỏi thêm những câu râu ria không cần thiết. Hắn đón nhận điều đó một cách không lấy gì làm vui vẻ nên cuộc nói chuyện suýt nữa chấm dứt ngay tức thì. Nhưng rồi tôi đề cập đến số tiền mình sẵn lòng chi trả để có hàng, trả trước vào một tài khoản ngân hàng tại Thụy Sĩ nếu được yêu cầu. Chúng tôi thậm chí còn có một đoạn trao đổi như phim kinh điển, trong đó hắn hỏi con số tính bằng krone à, tôi vờ ngạc nhiên đáp lại rằng tất nhiên là euro chứ. Tôi biết chỉ riêng số tiền ấy thôi cũng đã đủ xua tan mọi nghi ngờ còn sót lại về việc tôi có thể là cảnh sát. Giết một con gà như Sivertsen cần gì phải dùng đến dao mổ trâu. Hắn nói mọi chuyện đều có thể thu xếp được. Tôi hẹn sẽ sớm liên hệ lại với hắn.

“Và như thế, thời gian diễn tập cao điểm cho vở My Fair Lady cũng là lúc tôi hoàn tất những khâu cuối cùng cho kế hoạch của mình. Bấy nhiêu đó là đủ rồi chứ, Harry?”

Harry lắc đầu. Tiếng vòi sen chảy. Cô ta còn định ở trong phòng tắm đến bao giờ nữa?

“Tôi muốn biết chi tiết.”

“Chủ yếu là cách thức thực hiện thôi,” Wilhelm nói. “Những điều đó chẳng phải khá nhàm chán sao?”

“Tôi không thấy thế.”

“Thôi được. Việc đầu tiên tôi làm là xây dựng hình tượng cho Sven Sivertsen. Điều quan trọng nhất phải làm khi giới thiệu một nhân vật đến khán giả là cho họ thấy được động cơ của hắn, khát khao và mơ ước thầm kín nhất trong hắn: tóm lại là những gì có thể tác động được đến hắn. Tôi quyết định sẽ cho Sivertsen vào vai một tên sát nhân không có bất cứ động cơ gây án nào hợp lý, ngoài việc hắn giết người theo nghi thức để thỏa mãn ham muốn nhục dục. Lựa chọn này có thể hơi phổ biến, nhưng mấu chốt ở đây là phải làm sao để nhìn bề ngoài tất cả các nạn nhân, ngoại trừ mẹ của Sivertsen, đều có vẻ được lựa chọn ngẫu nhiên. Tôi đã tìm hiểu về các sát nhân hàng loạt và phát hiện ra một số chi tiết thú vị mình chọn để áp dụng. Chẳng hạn như nỗi ám ảnh đối với mẹ, cách chọn địa điểm gây án của Jack Kẻ Phanh Thây, vốn được các điều tra viên coi là một loại mật mã. Vậy là tôi đến Sở Quy hoạch Thành phố mua một tấm bản đồ chi tiết của khu vực trung tâm Oslo, về đến nhà, tôi kẻ một đường nối từ tòa chung cư tôi ở tại Sannergata tới nhà mẹ Sven Sivertsen đang sinh sống. Dựa vào đường kẻ này, tôi vẽ một ngôi sao năm cánh thật chính xác và tìm những địa chỉ gần nhất với ba đỉnh còn lại của ngôi sao. Và phải thú thực là tôi cảm thấy một luồng adrenaline trào dâng khi đặt đầu bút chì lên bản đồ và biết rằng ở đó - ngay tại địa điểm đó - có một người đang sống và số phận của họ vừa được định đoạt trong chính khoảnh khắc ấy.

“Mấy đêm sau đó tôi vẽ ra đủ thứ ảo tưởng về việc họ có thể là ai, trông thế nào, cuộc sống trước nay ra sao. Nhưng rồi tôi nhanh chóng quên họ đi. Họ không quan trọng - họ chỉ là phông cảnh, là yếu tố phụ trợ, những vai diễn không thoại mà thôi.”

“Vật liệu xây dựng.”

“Gì cơ?”

“Không có gì. Ông kể tiếp đi.”

“Tôi biết những viên kim cương máu và hung khí gây án sẽ bị truy ngược về Sven Sivertsen khi hắn bị bắt. Để củng cố thêm ảo tưởng về những vụ giết người theo nghi thức, tôi gài vào đó một vài manh mối: ngón tay bị chặt đứt, khoảng thời gian năm ngày giữa các vụ, năm giờ và tầng năm.”

Wilhelm mỉm cười.

“Tôi không muốn thử thách mình đặt ra quá dễ, nhưng cũng không được quá khó. Và tôi còn muốn thêm vào chút khôi hài. Những tấn bi kịch hay luôn đi kèm một chút khôi hài, Harry ạ.”

Harry thầm ép bản thân phải ngồi im.

“Ông đã nhận được khẩu súng đầu tiên chỉ vài ngày trước khi giết Marius Veland. Tôi nói có đúng không?”

“Đúng. Khẩu súng được đặt trong thùng rác ở công viên Frogner theo thỏa thuận.”

Harry hít một hơi thật sâu. “Cảm giác ra sao hả Wilhelm? Ông cảm thấy thế nào khi xuống tay giết người?”

Wilhelm trề môi dưới, vẻ như đang trầm ngâm nghĩ ngợi.

“Họ nói đúng, những người bảo rằng lần đầu tiên luôn là lần khó khăn nhất. Tôi lẻn vào ký túc xá sinh viên mà không gặp trở ngại gì, nhưng tôi mất nhiều thời gian hơn dự tính để dùng súng nhiệt hàn kín cái túi cao su đựng xác cậu ta. Hơn nữa, dù đã dành đến nửa đời người để nâng đỡ những vũ công ba lê khỏe mạnh người Na Uy, vậy mà chật vật lắm tôi mới vác được cậu ta lên tầng áp mái.”

Một khoảng lặng bao trùm. Harry hắng giọng.

“Và sau đó thì sao?”

“Sau đó tôi đạp xe tới công viên Frogner lấy khẩu súng và viên kim cương thứ hai. Tên con lai người Đức Sven Sivertsen quả là đúng giờ và tham lam hệt như tôi mong đọi. Kỹ thuật cài cắm để hắn xuất hiện tại công viên Frogner vào thời điểm xảy ra các vụ án mạng đúng là một chi tiết đáng giá, anh có nghĩ vậy không? Rốt cuộc thì chính hắn cũng đang thực hiện một hành vi phạm tội nên hắn sẽ chuẩn bị kỹ càng để không bị nhận diện và đảm bảo không ai biết hắn đã đi đâu. Tôi chỉ cần làm sao để khiến hắn không có được bằng chứng ngoại phạm thôi.”

“Hoan hô,” Harry nói và đưa một ngón tay lên quệt hai hàng lông mày ướt đẫm.

Anh có cảm giác khắp nơi toàn là hơi ẩm và nước ngưng tụ, như thể nước đang xâm nhập qua các bức tường, qua mái ở sân thượng, rồi còn cả vòi sen nữa chứ.

“Nhưng những gì ông kể với tôi nãy giờ tôi đều tự đoán ra được hết, Wilhelm ạ. Hãy nói điều gì đó tôi không biết đi. Kể cho tôi nghe về vợ ông. Ông đã làm gì bà ấy? Mấy người hàng xóm trông thấy ông chốc chốc lại xuất hiện sân thượng, vậy ông làm thế nào để đưa được vợ ra khỏi nhà và giấu bà ấy đi trước khi chúng tôi đến?”

Wilhelm mỉm cười.

“Vậy là ông không chịu tiết lộ,” Harry nói.

“Để giữ lại một chút bí ẩn cho vở kịch, tác giả nên biết tiết chế, không giải thích quá nhiều.”

Harry thở dài.

“Thôi được rồi, vậy ông vui lòng giải thích giùm tôi điều này. Sao ông lại phải phức tạp hóa vấn đề như thế? Sao không chỉ việc giết quách Sven Sivertsen đi là xong? Ông đã có cơ hội ra tay ở Praha kia mà. Như vậy sẽ đỡ rắc rối và an toàn hơn nhiều so với việc giết ba mạng người vô tội và cả vợ ông.”

“Thứ nhất, tôi cần một kẻ chịu tội thay. Nếu Lisbeth mất tích và vụ án trở nên bế tắc, mọi người đều sẽ nghĩ tôi là thủ phạm. Vì kẻ có tội luôn là các ông chồng, phải không nào, Harry? Nhưng lý do chủ yếu khiến tôi làm vậy là vì tình yêu là một cơn khát, Harry ạ. Nó cần được uống. Nước. Cơn khát báo thù. Một cách nói khá hay, đúng không? Anh hiểu ý tôi đang nói gì mà, Harry. Cái chết không phải là cách báo thù. Nó là sự giải thoát, một cái kết hạnh phúc. Điều tôi muốn Sven Sivertsen phải gánh chịu là một bi kịch thực sự, là sự đày ải không có hồi kết. Và tôi đã đạt được mục đích. Sven Sivertsen đã trở thành một trong những linh hồn tuyệt vọng lang thang bên bờ sông Styx, còn tôi là lão lái đò Charon, người từ chối đưa hắn qua sông để đến với vương quốc của người chết. Nghe đậm chất Hy Lạp đúng không? Tôi đã ban cho hắn bản án chung thân, Harry ạ. Hắn sẽ bị lòng hận thù thiêu đốt, giống như tôi vậy. Hận mà chẳng biết hận ai, điều đó khiến anh quay sang hận bản thân, hận chính mình số khổ. Đó là những gì anh phải gánh chịu khi bị chính người anh yêu thương phản bội. Phải ngồi sau song sắt vĩnh viễn vì tội lỗi nào đó mà anh không biết rằng mình đã phạm. Anh có thể tưởng tượng ra sự trả thù nào ngọt ngào hơn thế không hả Harry?”

Harry lục túi áo để xem cái đục có còn trong đó không.

Wilhelm khẽ cười. Điều tiếp theo ông ta nói khiến Harry cảm thấy như đã từng nghe qua.

“Anh không cần trả lời đâu, Harry. Nhìn mặt anh là tôi biết rồi.”

Harry nhắm mắt lại và lắng nghe giọng nói trầm vang của Wilhelm tiếp tục cất lên.

“Anh chẳng khác gì tôi. Niềm đam mê cũng chính là động lực thúc đẩy anh. Mà đam mê thì cũng như tà dục, luôn tìm đến…”

“… những nơi hạ đẳng nhất để trú ngụ.”

“Những nơi hạ đẳng nhất. Nhưng tôi nghĩ giờ đến lượt anh rồi, Harry. Bằng chứng mà anh nói khi nãy là gì? Đó có phải là điều mà tôi nên lo ngại không nhỉ?”

Harry lại mở mắt ra.

“Trước hết, ông phải cho tôi biết bà nhà đang ở đâu đã, Wilhelm.”

Wilhelm bật cười khẽ và đặt tay lên trái tim.

“Cô ấy ở đây này.”

“Ông nói xằng,” Harry nói.

“Nếu Pygmalion có thể đem lòng yêu Galatea, bức tượng người đàn bà ông ta chưa một lần được gặp, thì tại sao tôi lại không thể yêu bức tượng của vợ mình chứ?”

“Tôi không hiểu ông đang nói gì cả, Wilhelm.”

“Anh không cần phải hiểu, Harry ạ. Tôi biết để người khác hiểu được là rất khó.”

Trong sự im lặng bao trùm sau đó, Harry có thể nghe thấy tiếng nước chảy rào rào trong phòng tắm tầng dưới với một sức mạnh không suy suyển. Làm thế nào anh đưa được người phụ nữ đó ra khỏi căn hộ này mà vẫn kiểm soát được tình hình nhỉ?

Giọng nói trầm trầm của Wilhelm hóa thành những thanh âm nhạt nhòa.

“Sai lầm của tôi là ở chỗ tôi cứ tưởng có thể khiến bức tượng sống lại một lần nữa. Nhưng người nhận trách nhiệm này lại không chịu thấu hiểu. Ảo tưởng đó mạnh mẽ hơn thứ được gọi là thực tế.”

“Ông đang nói đến ai vậy?”

“Người thay thế. Galatea sống, Lisbeth mói. Cô ta hoảng sợ và đe dọa sẽ phá hỏng tất cả. Giờ tôi có thể nhận ra rằng mình đành phải chấp nhận sống với bức tượng vậy. Nhưng mà không sao hết.”

Harry cảm thấy có thứ gì đó đang từ từ trào lên. Một thứ lạnh lẽo bắt nguồn từ dạ dày của anh.

“Anh đã bao giờ sờ vào một bức tượng chưa, Harry? Cảm giác làn da người chết mang lại thực sự rất đặc biệt. Không ấm lắm, nhưng cũng không lạnh hẳn.”

Wilhelm vuốt ve tấm đệm màu xanh dương.

Harry có cảm giác cái lạnh khiến nội tạng anh đông cứng, như thể ai đó vừa tiêm nước đá vào người anh. Anh thấy cổ họng mình nghẹn lại khi nói, “Ông xong đời rồi, ông biết chứ?”

Wilhelm vươn người qua bên kia giường.

“Sao thế được, Harry? Tôi chỉ đóng vai người kể chuyện để kể cho anh nghe một câu chuyện thôi mà. Anh chẳng thể chứng minh được gì hết.”

Ông ta nhoài người với lấy một thứ gì đó trên kệ đầu giường. Ánh kim loại lóe sáng và cơ bắp Harry căng ra. Wilhelm giơ thứ đó lên. Một chiếc đồng hồ đeo tay.

“Giờ cũng muộn rồi đấy Harry. Chúng ta kết thúc cuộc gặp tại đây được chú? Đừng bận tâm nếu anh ra về mà cô ta vẫn chưa rời khỏi phòng tắm.”

Harry vẫn ngồi im. “Tìm ra kẻ sát nhân mới chỉ là một nửa trong số những gì ông bắt tôi hứa thôi, Wilhelm. Nửa còn lại là tôi hãy trừng phạt hắn. Thật nặng. Và tôi nghĩ ông thật sự muốn như vậy. Một phần nào đó trong ông đang khao khát bị trừng phạt, phải vậy không?”

“Lý thuyết của Freud đã hết thời rồi, Harry ạ. Chuyến viếng thăm này cũng y như vậy.”

“Ông không muốn nghe bằng chứng trước sao?”

Wilhelm thở dài vẻ bực bội.

“Nếu sau đó anh chịu về, thì làm ơn nói đi.”

“Đáng lẽ tôi phải hiểu ra mọi chuyện khi nhận được ngón tay đeo nhẫn kim cương của Lisbeth gửi qua bưu điện. Ngón thứ ba bàn tay trái. Vena amoris. Bà ấy là người mà hung thủ muốn có được tình yêu. Oái oăm thay, cũng chính ngón tay này đã khiến hắn lộ tẩy.”

“Lộ tẩy…”

“Chính xác hơn là, mẫu phân nằm dưới móng tay.”

“Trong đó có lẫn máu của tôi. Đúng vậy, nhưng đó là chuyện xưa rồi, Harry ạ. Hơn nữa, tôi đã giải thích rằng chúng tôi thích…”

“Phải, và khi phát hiện ra điều này, mẫu phân đã được chúng tôi xét nghiệm cẩn thận hơn. Thường thì việc đó không mang lại nhiều kết quả cho lắm. Thức ăn mà chúng ta ăn vào sẽ mất khoảng mười hai cho tới hai mươi tư giờ để đi từ miệng tới trực tràng, trong quá trình đó, dạ dày và hệ ruột sẽ biến thức ăn thành chất thải không thể nhận biết được. Đến nỗi dù có soi dưới kính hiển vi cũng khó mà xác định nổi người ta đã ăn món gì. Thế nhưng, có một vài thứ vẫn còn nguyên sau khi đi qua hệ tiêu hóa. Chẳng hạn như hột nho và…”

“Anh bỏ qua phần rao giảng kiến thức này đi được không, Harry?”

“Hạt. Chúng tôi đã tìm được hai cái hạt. Điều đó cũng chẳng có gì đặc biệt. Vì thế mãi đến ngày hôm nay, khi tôi phát hiện ra ai có thể là hung thủ, tôi mới nhờ phòng thí nghiệm giám định hai cái hạt kỹ hơn. Ông có biết họ tìm được gì không?”

“Tôi chịu.”

“Đó là một hạt tiểu hồi còn nguyên vẹn.”

“Thì sao?”

“Tôi đã nói chuyện với bếp trưởng nhà hàng Theatre Café. Ông đã đúng khi nói rằng đó là nhà hàng duy nhất ở Na Uy làm bánh mì tiểu hồi nguyên hạt. Rất hợp với món…”

“Cá trích,” Wilhelm nói. “Anh biết tôi thường dùng bữa ở đó. Anh đang muốn ám chỉ điều gì?”

“Lúc trước ông có nói, vào thứ Tư hôm Lisbeth mất tích, ông đã ăn món cá trích trong bữa sáng ở nhà hàng Theatre Café như thường lệ, trong khoảng từ chín đến mười giờ. Điều tôi đang tự hỏi là làm thế nào cái hạt ấy lại từ dạ dày ông chui vào dưới móng tay Lisbeth được nhỉ.”

Harry chờ để đảm bảo Wilhelm nhận thức đầy đủ những điều anh nói trước khi tiếp tục.

“Ông khai rằng Lisbeth đã rời khỏi nhà vào khoảng năm giờ. Tức là tám tiếng sau khi ông dùng bữa sáng với cá trích. Giả sử việc cuối cùng vợ chồng ông làm trước khi bà ấy ra ngoài là ân ái và bà ấy đã dùng tay để quan hệ với ông. Cho dù ruột ông có làm việc hiệu quả đến mấy đi nữa thì cũng không thể đẩy cái hạt tiểu hồi tới trực tràng chỉ sau tám tiếng đồng hồ được. Xét về mặt y học, điều đó là bất khả thi.”

Harry nhận thấy khuôn mặt Wilhelm khẽ giật trong khi miệng há hốc lúc nghe anh thốt ra ba từ “bất khả thi”.

“Nhanh nhất cũng phải chín giờ tối thì hạt tiểu hồi mới có thể xuống tới trực tràng. Vì vậy ngón tay Lisbeth chắc chắn chỉ được đưa vào trong người ông vào buổi tối muộn hoặc đêm hôm đó, hoặc ngày hôm sau. Tức là sau khi ông trình báo bà ấy mất tích. Ông hiểu ý tôi đang muốn nói gì chứ, Wilhelm?”

Wilhelm nhìn Harry chòng chọc. Đúng hơn là nhìn về phía Harry, còn ánh mắt lại dán vào một điểm nào đó xa xôi hơn nhiều.

“Chúng tôi gọi đó là bằng chứng pháp y,” Harry nói.

“Tôi hiểu.” Wilhelm chậm rãi gật đầu. “Bằng chứng pháp y.”

“Phải.”

“Một thực tế rõ ràng, không thể chối cãi?”

“Đúng vậy.”

“Các thẩm phán và bồi thẩm đoàn khoái những thứ kiểu này lắm, phải không? Còn hay hơn cả lời nhận tội, Harry nhỉ?”

Người cảnh sát gật đầu.

“Một trò hề, Harry ạ. Với tôi, tất cả đều chỉ là trò hề. Người ta đổ xô ra sân khấu rồi lại rút về phía sau. Tôi đã sắp xếp cho hai chúng tôi xuất hiện trên sân thượng để hàng xóm trông thấy chúng tôi trước khi tôi gọi Lisbeth vào phòng ngủ, lấy khẩu súng trong hộp dụng cụ ra, và cô ta trợn tròn mắt - phải, trông hệt như trò hề - nhìn trân trối vào họng súng dài được lắp ống giảm thanh.”

Wilhelm rút tay ra từ bên dưới chiếc chăn lông vịt. Harry chằm chằm nhìn khẩu súng với khối kim loại màu đen quanh nòng, thứ đang chĩa vào mình.

“Ngồi xuống, Harry.”

Harry cảm thấy cái đục chọc vào sườn khi anh lại ngồi phịch xuống ghế.

“Cô ta hiểu nhầm ý tôi theo cách ngớ ngẩn nhất trần đời. Đáng lẽ đó sẽ là sự trừng phạt xúng đáng nhất. Để cô ta cưỡi lên tay tôi khi tôi phun chì nóng vào nơi cô ta cho hắn được thỏa mãn.”

Wilhelm đứng dậy khỏi giường, cái đệm dập dềnh và phát ra tiếng lóc bóc.

“Nhưng mấu chốt của trò hề nằm ở tốc độ, là tốc độ, vì thế tôi buộc phải nhanh chóng nói lời giã biệt.”

Ông ta đứng trước mặt Harry trong bộ dạng khỏa thân, giương súng lên.

“Tôi đã gí họng súng vào trán cô ta. Cô ta cau mày vẻ ngạc nhiên như mọi lần, những khi cô ta cảm thấy thế giới này đầy rẫy sự bất công hoặc đơn giản thật khó hiểu. Chẳng hạn như buổi tối hôm tôi kể cho cô ta nghe về vở kịch Pygmalion của Bernard Shaw, nguyên tác của vở My Fair Lady. Trong đó Eliza Doolittle không kết hôn với giáo sư Higgins, người đã dạy dỗ và giúp cô ta lột xác từ gái bán hoa trở thành một quý cô lịch thiệp. Thay vào đó, cô ta đã bỏ trốn cùng gã trai Freddy. Lisbeth rất tức giận và nói Eliza nợ ông giáo sư quá nhiều, còn Freddy thì là gã vô danh đần độn. Anh biết sao không, Harry? Tôi đã khóc khi nghe những lời ấy.”

“Ông điên rồi,” Harry khẽ nói.

“Có lẽ vậy,” Wilhelm nghiêm trang đáp. “Tôi đã làm những việc táng tận lương tâm. Tôi không có khả năng kiềm chế thường thấy ở những người có động cơ bắt nguồn từ lòng oán hận. Tôi chỉ là một người đàn ông suy nghĩ đơn giản, tuân theo lời mách bảo của trái tim. Và trái tim tôi bảo hãy làm vì tình yêu, tình yêu do Chúa ban tặng cho chúng ta, biến chúng ta thành công cụ của Người. Chẳng phải các nhà tiên tri và cả Chúa Jesus đều từng bị coi là những kẻ điên hay sao, có lẽ vậy? Dĩ nhiên chúng ta đều điên cả, Harry ạ. Điên ấy, đồng thời cũng là những người sáng suốt nhất trên cõi đời này. Khi họ nói những việc tôi làm là điên rồ và chắc hẳn trái tim tôi đang mang trong mình là khiếm khuyết, thì tôi sẽ đáp rằng: Trái tim ai khiếm khuyết hơn chứ, trái tim không thể ngừng yêu, hay trái tim được trao yêu thương nhưng không thể đáp lại tình yêu ấy?”

Sau đó là một khoảng lặng kéo dài. Rồi Harry hắng giọng.

“Vậy là ông đã bắn bà ấy?”

Wilhelm chậm rãi gật đầu.

“Trên trán cô ta có một vết sưng nhỏ,” ông ta nói, giọng chất chứa vẻ ngỡ ngàng. “Và một lỗ đen be bé. Y như khi ta đóng đinh vào một tấm kim loại.”

“Sau đó ông giấu bà ấy đi. Ở nơi duy nhất mà ngay cả chó cảnh sát cũng không thể tìm ra bà ấy được.”

“Trong căn hộ nóng lắm.” Wilhelm lại dõi mắt nhìn đâu đó phía trên đầu Harry. “Có một con ruồi vo ve ở cửa sổ, và tôi đã cởi hết đồ ra cho máu khỏi dính vào. Mọi thứ đều được sắp xếp đâu ra đấy trong hộp dụng cụ. Tôi dùng kìm cắt đứt ngón giữa ở bàn tay trái của cô ta. Sau đó tôi cởi đồ cho cô ta, dùng bình xịt silicon dạng bọt nhanh chóng bịt kín lỗ đạn, vết thương trên ngón tay và các khiếu trên người cô ta. Trước đó tôi đã xả bớt một nửa nước trong tấm đệm. Hầu như tôi không làm rớt một giọt nào khi nhét cô ta vào qua khe hở mình đã rạch trên đệm. Sau đó tôi hàn kín nó lại bằng keo dán, cao su và súng nhiệt. Mọi chuyện suôn sẻ hơn nhiều so với lần đầu tiên.”

“Vậy là suốt thời gian qua bà ấy nằm ở đó? Bị chôn vùi trong chính tấm đệm nước của mình?”

“Không, không,” Wilhelm nói, trầm ngâm dán mắt lên một điểm phía trên đầu Harry. “Tôi đâu có chôn cô ta. Ngược lại, tôi đặt cô ta về lại dạ con thôi. Đó là khởi đầu cho sự tái sinh của cô ta.”

Harry biết mình nên thấy sợ mới phải. Bây giờ mà không sợ thì thật nguy hiểm, miệng anh đúng ra phải khô khốc và anh nên cảm thấy tim đang đập dồn dập. Đúng ra anh không nên cảm thấy cơn mệt mỏi rã rời dần dần choán lấy mình như thế này.

“Rồi ông giấu phần ngón tay cụt trong hậu môn của mình,” Harry nói.

“Hừm,” Wilhelm nói. “Nơi cất giấu hoàn hảo. Như tôi đã nói, tôi đã lường trước các anh sẽ dùng chó cảnh sát.”

“Vẫn còn những chỗ cất giấu khác không làm lộ mùi mà, nhưng chắc hẳn việc đó mang lại cho ông niềm vui thích bệnh hoạn? Nhân tiện thì ông đã làm gì với ngón tay của Camilla Loen? Ngón tay đã bị ông cắt đứt trước khi ông giết cô ấy.”

“Camilla, phải rồi…” Wilhelm gật gù mỉm cười như thể Harry vừa gọi lại một kỷ niệm vui vẻ. “Đó sẽ mãi là bí mật giữa tôi và cô ta, Harry ạ.”

Wilhelm mở chốt an toàn của khẩu súng. Harry nuốt khan.

“Đưa súng cho tôi, Wilhelm. Mọi chuyện kết thúc rồi. Việc đó chẳng ích gì đâu.”

“Tất nhiên là có chứ.”

“Ích gì?”

“Xưa nay vẫn vậy mà, Harry. Màn trình diễn nào cũng cần phải có một cái kết tử tế. Chắc anh không cho rằng khán giả sẽ chịu tin tôi ngoan ngoãn rút êm chứ? Chúng ta cần một đoạn kết hoành tráng, Harry ạ. Một cái kết hạnh phúc. Nếu không có được nó, tôi sẽ tự mình viết nên. Đó là…”

“Phương châm sống của ông,” Harry khẽ nói.

Wilhelm mỉm cười, gí súng vào thái dương Harry. “Tôi định nói, đó là phương châm chết của tôi cơ.”

Harry nhắm mắt lại. Anh không muốn gì hơn là được chìm vào giấc ngủ. Được trôi theo dòng sông với nước chảy êm đềm. Và sang tới bờ bên kia.

Rakel giật mình, choàng mở mắt.

Cô vừa nằm mơ thấy Harry. Họ đang ở trên một con thuyền.

Phòng ngủ chìm trong bóng tối. Có phải cô vừa nghe thấy tiếng gì đó không? Có phải đã xảy ra chuyện gì rồi?

Cô lắng nghe tiếng mưa rì rào trấn an rơi trên mái. Để đảm bảo an toàn, cô kiểm tra lại chiếc di động đang để trên kệ đầu giường xem máy đã bật chưa. Phòng khi anh gọi đến.

Cô nhắm mắt lại. Nhẹ nhàng xuôi theo dòng nước.

Harry không còn nhận biết được thời gian. Khi mở mắt, anh có cảm giác ánh sáng trong căn phòng không người dường như đổi khác, nhưng lại chẳng biết một giây hay một phút đã trôi qua.

Chiếc giường trống trơn. Wilhelm đi rồi.

Tiếng nước lại vọng đến tai anh. Tiếng mưa. Tiếng vòi sen.

Harry lảo đảo đứng dậy, nhìn chằm chằm vào tấm đệm màu xanh dương. Anh tưởng như có thứ gì đó đang bò lổm ngổm bên trong lớp áo quần của mình. Nhờ ánh sáng tỏa ra từ chiếc bàn cạnh giường, anh lờ mờ trông thấy bóng dáng một thân người bên trong tấm đệm nước. Cái mặt đã nổi lên trên, hằn lên lớp cao su tạo thành một cái khuôn thạch cao.

Anh rời khỏi phòng ngủ. Cửa sân thượng mở toang. Anh liếc về phía lan can và nhìn xuống sân, rồi bước những bước chân ướt nhẹp trên cầu thang trắng để xuống tầng dưới. Anh mở cửa phòng tắm. Một thân thể phụ nữ in bóng lên cửa sổ phía sau tấm rèm xám quây quanh khu tắm đứng. Harry kéo rèm sang bên. Cái cổ của Toya Harang gập xuống theo dòng nước, cằm gần chạm đến ngực. Một chiếc tất da chân màu đen siết lấy cổ cô ta và buộc vào đầu vời sen. Mắt cô ta nhắm nghiền, những giọt nước đọng lại trên hai hàng mi đen rợp bóng. Cái miệng mở nửa vời và chứa đầy đống màu vàng giống như bọt xốp đã cứng lại. Chất đó cũng được trét vào các lỗ mũi, tai và cái lỗ nhỏ ở thái dương.

Harry tắt vòi sen trước khi đi.

Trên cầu thang không còn ai khác.

Harry thận trọng bước từng bước. Anh có cảm giác tê liệt, như thể toàn thân đã hóa đá.

Bjarne Møller.

Anh phải gọi điện cho Bjarne Møller.

Harry đi qua sảnh trước và bước ra sân. Mưa trút xuống đầu anh nhưng anh không cảm thấy gì. Chẳng mấy chốc anh sẽ tê liệt hoàn toàn. Cái giá phơi đồ xoay 360 độ không còn rít lên nữa. Anh tránh nhìn về phía nó. Nhác thấy một bao thuốc màu vàng trên mặt sân trải nhựa, anh liền bước tới nhặt lên. Harry mở nó ra, rút lấy một điếu thuốc đưa lên miệng. Anh cố dùng bật lửa châm thuốc nhưng rồi phát hiện ra rằng đầu điếu thuốc bị ướt. Chắc hẳn nước đã ngấm vào bao.

Gọi cho Bjarne Møller. Bảo họ tới đây. Đi cùng Møller tới ký túc xá sinh viên. Thẩm vấn Sven Sivertsen tại đó. Lập tức ghi âm lại lời tố cáo của anh ta đối với Tom Waaler. Nghe Møller ra lệnh bắt giữ thanh tra Waaler. Sau đó về nhà. Về với Rakel.

Qua khóe mắt, anh có thể trông thấy cái giá phơi đồ xoay 360 độ.

Anh chửi thề, bứt điếu thuốc làm đôi, đưa phần đầu lọc lên môi và một lần nữa cố châm lửa. Sao anh lại căng thẳng như vậy chứ? Còn việc gì để làm nữa đâu. Tất cả đã chấm dứt, kết thúc rồi.

Anh quay về phía giá phơi đồ.

Nó hơi nghiêng về một bên, nhưng cái cột chống trên mặt sân trải nhựa rõ ràng mới là thứ gánh chịu hậu quả nặng nề. Trong số những sợi dây đang đỡ lấy Wilhelm Barli, chỉ có đúng một sợi bị đứt. Tay ông ta dang sang hai bên, mái tóc ướt dính vào mặt, cặp mắt ngước lên như đang cầu nguyện. Đột nhiên Harry cảm thấy cảnh tượng ấy đẹp đẽ đến lạ. Thân thể lõa lồ của ông ta được tấm ga ướt che đi phần nào, trông ông ta giống như một bức tượng đặt ở mũi chiếc thuyền buồm lớn. Wilhelm cuối cùng cũng đã có được điều mà ông ta muốn. Một cái kết hoành tráng.

Harry nhặt điện thoại di động của mình lên và nhập mã PIN. Những ngón tay gần như không còn nghe lời anh nữa. Chúng sẽ sớm hóa đá thôi. Anh nhập số của Bjarne Møller. Anh đang định nhấn nút gọi thì cái điện thoại ré lên tiếng chuông báo. Màn hình thông báo anh có một lời nhắn trong hộp thư thoại. Thế thì sao chứ? Đây đâu phải điện thoại của Harry đâu. Anh do dự giây lát. Bản năng mách bảo anh nên gọi điện cho Møller trước. Anh nhắm mắt lại. Và nhấn nút.

Một giọng phụ nữ thông báo anh có một lời nhắn. Tiếng bíp vang lên, sau đó là vài giây im lặng. Rồi giọng nói thì thầm cất lên, “Chào Harry. Tôi đây.”

Đó là Tom Waaler.

“Anh đã tắt máy di động, Harry ạ. Làm thế là không khôn ngoan chút nào. Vì tôi cần phải nói chuyện với anh, anh biết đấy.”

Miệng Tom áp sát vào ống nghe tới nỗi Harry tưởng như anh ta đang đúng ngay cạnh mình.

“Xin lỗi vì phải nói thầm, nhưng chúng ta không nên làm thằng bé thức giấc, nhỉ? Anh có đoán được tôi đang ở đâu không? Tôi nghĩ là có thể. Biết đâu anh thậm chí còn mong chờ ấy chứ.”

Harry rít điếu thuốc mà không hề nhận ra nó đã tắt ngúm.

“Trong này hơi tối, nhưng vẫn thấy được tấm ảnh chụp một đội tuyển bóng đá treo phía trên đầu giường. Để xem nào. Tottenham Hotspur à? Trên kệ đầu giường có một cái máy nho nhỏ. Máy điện tử GameBoy. Nghe nhé. Tôi sẽ giơ điện thoại lại gần giường thằng bé.”

Anh nghe thấy tiếng thở đều đều êm ái của một cậu bé đang say ngủ trong căn nhà ốp gỗ mộc màu đen ở Holmenkollveien.

“Bọn tôi có tai mắt ở khắp nơi, Harry ạ, nên chớ có dại mà gọi điện hoặc nói với ai đó. Cứ làm đúng như tôi yêu cầu. Gọi cho tôi vào số này. Anh mà trái lời thì thằng bé chết chắc. Anh hiểu chứ?”

Tim Harry bắt đầu bơm máu đi khắp cơ thể đã cứng đờ, rồi dần dần, cảm giác tê dại được thay thế bằng nỗi đau gần như vượt quá sức chịu đựng của anh.