CHƯƠNG 44 Đêm thứ Hai
NHỮNG TIẾNG LẦM RẦM
Họ dừng chờ đèn đỏ ở quảng trường Alexander Kiellands.
Những chiếc cần gạt nước không ngừng gạt sang hai bên trái phải. Chỉ một tiếng rưỡi nữa thôi, ánh hừng đông đầu tiên sẽ ló rạng, còn lúc này màn đêm vẫn ngự trị, những đám mây lơ lửng hệt như một tấm bạt xám đen phủ lên khắp thành phố.
Harry đang ngồi trên ghế sau, choàng tay quanh người Oleg.
Một người đàn ông và một phụ nữ đang lảo đảo bước trên vỉa hè vắng tanh ở phố Waldemar Thranes đi về phía ba người bọn họ.
Một tiếng đồng hồ đã trôi qua kể từ lúc Harry, Sven cùng Oleg rời khỏi thang máy, bước ra ngoài cơn mưa và đặt chân lên mặt đất vững chãi. Ba người tìm đến chỗ cây bạch dương cao lớn Harry từng trông thấy từ cửa sổ phòng Marius, quẳng mình xuống bãi cỏ còn khô ráo. Tại đó, Harry gọi điện đến số máy của ban biên tập Dagbladet trước tiên và nói chuyện với phóng viên trực ban. Xong xuôi, anh gọi cho Bjarne Møller, kể lại những chuyện đã qua và nhờ ông truy tìm tung tích Øystein Eikeland. Cuối cùng, anh gọi đến nhà Rakel và đánh thức cô. Hai mươi phút sau, khoảng sân phía trước ký túc xá sinh viên được thắp sáng nhờ đèn chớp máy ảnh cùng ánh đèn xanh dương lấp loáng, màn “song kiếm hợp bích” hết ý của phóng viên và cảnh sát như xưa nay vẫn vậy.
Harry, Oleg và Sven ngồi dưới gốc cây bạch dương quan sát khu ký túc xá sinh viên tấp nập người ra kẻ vào.
Thế rồi Harry dụi tắt điếu thuốc.
“Vậy đấy,” Sven nói.
“ Character ,” Harry nói.
Sven gật đầu đáp, “Tôi quên mất vụ đó.”
Sau đấy ba người đi bộ ra quảng trường, còn Bjarne Møller thì vội vã đuổi theo và lùa họ lên một trong mấy chiếc xe cảnh sát.
Trước hết, họ sẽ về Sở Cảnh sát để thẩm vấn sơ bộ, hay theo cách nói tế nhị của Møller là ‘giải trình’. Khi Sven được đưa về khu tạm giam, Harry một mực yêu cầu phải có hai sĩ quan nghiệp vụ đứng gác bên ngoài xà lim của Sven hai tư trên hai tư. Møller hơi ngạc nhiên và hỏi Harry rằng anh thực sự cho là nguy cơ hắn trốn thoát cao đến thế sao. Harry lắc đầu thay cho lời đáp và Møller làm theo ý anh mà không nói thêm gì nữa.
Sau đó, họ liên lạc với đội cảnh sát mặc đồng phục và điều một xe tuần tra đưa Oleg về nhà.
Tiếng bíp của đèn giao thông vang lên xé tan bầu không khí ban đêm tĩnh mịch khi đôi nam nữ băng qua phố Uelands. Rõ ràng là người phụ nữ đã mượn áo khoác của anh chàng kia và giơ lên che đầu. Chiếc sơ mi đang mặc dính vào người anh ta và anh ta cười vang. Harry thấy anh ta có vẻ gì đó quen quen.
Đèn chuyển sang màu xanh.
Anh nhác thấy mái tóc đỏ lấp ló bên dưới chiếc áo khoác của người phụ nữ trước khi cặp đôi kia đi khuất.
Lúc họ đi qua khu Vinderen thì đột nhiên mưa tạnh. Hệt như các tấm rèm sân khấu, những đám mây rẽ ra để vầng trăng mới tỏa sáng trên bầu trời đen thẳm phía trên vịnh hẹp Oslo.
“Cuối cùng cũng qua rồi,” Møller quay lại nói từ trên ghế phụ phía trước kèm theo một nụ cười.
Harry đoán ý ông muốn nhắc đến trận mưa.
“Cuối cùng cũng qua rồi,” anh nói, mắt vẫn đăm đăm nhìn vầng trăng.
“Cháu đúng là cậu bé rất dũng cảm,” Møller nói, vỗ nhẹ lên đầu gối Oleg. Thằng bé nở nụ cười yếu ớt và ngước nhìn Harry.
Møller lại ngoảnh lên và chăm chú nhìn con đường phía trước.
“Cơn đau dạ dày của tôi chấm dứt rồi,” ông nói. “Tan biến vào hư không.”
Họ đã tìm thấy Øystein Eikeland ở chính tại nơi Sven Sivertsen được đưa tới. Khu tạm giam. Theo như biên bản của Groth “Mặt Sầu”, Øystein đã bị Tom Waaler tống vào đây vì nghi ngờ anh ta lái taxi trong tình trạng say rượu. Mẫu máu của anh ta cho thấy trong đó đúng là có dấu hiệu của cồn. Khi Møller ra lệnh thả Eikeland và dẹp hết các thủ tục có liên quan, Groth “Mặt Sầu” lạ thay lại không phản đối gì. Trái lại, ông ta còn sốt sắng giúp đỡ một cách khác thường.
Rakel đang đứng chờ sẵn ở cửa khi chiếc xe cảnh sát ngoặt lên lối xe ra vào rải sỏi trước nhà cô.
Harry nhoài người qua chỗ Oleg để mở cửa xe. Và rồi Oleg nhảy ra ngoài, chạy ào về phía Rakel.
Møller và Harry ngồi trong xe nhìn hai mẹ con lặng lẽ đứng ôm nhau trên bậc tam cấp.
Bỗng dưng điện thoại của Møller đổ chuông, ông đưa máy lên nghe. Ông chỉ nói đúng hai câu “Ừ” và một câu “Rồi”, sau đó ngắt máy.
“Beate gọi. Họ vừa tìm thấy một chiếc túi đựng toàn đồ dùng cho xe đạp vứt trong thùng rác ở sân nhà Barli.”
“Ừm.”
“Tình hình sắp tới sẽ hỗn loạn phải biết,” Møller nói. “Bọn họ thể nào cũng thi nhau giành giật cậu đấy, Harry. Akersgata, NRK, TV2. Rồi còn cả báo chí nước ngoài. Cứ hình dung mà xem, đến Tây Ban Nha còn đưa tin về Sát nhân Giao hàng nữa là. Hừm, những chuyện kiểu này cậu đều đã kinh qua hết rồi, nên cậu biết nó sẽ thế nào đấy.”
“Tôi sẽ sống sót thôi.”
“Tôi cũng nghĩ thế. Chúng ta còn thu được một đoạn băng ghi lại những chuyện xảy ra ở ký túc xá sinh viên đêm qua. Tôi chỉ thắc mắc là làm sao Tangen có thể lắp đặt hệ thống ghi hình trong xe buýt của anh ta vào chiều Chủ nhật rồi lại quên tắt đi và cứ thế nhảy tàu về nhà ở Honetoss được nhỉ.”
Møller chăm chú quan sát vẻ mặt Harry, nhưng anh vẫn không có biểu hiện gì.
“Và trên hết, chả hiểu may mắn thế nào mà anh ta lại vừa xóa ổ cứng để có đủ dung lượng lưu băng ghi hình của mấy ngày qua. Đúng là quá kỳ lạ ấy chứ. Gần như có thể cho rằng tất cả đều đã được chuẩn bị từ trước vậy.”
“Gần như thế,” Harry lẩm bẩm.
“Tới đây sẽ có cuộc điều tra trong nội bộ Sở. Tôi đã liên lạc với Cơ quan Điều tra Đặc biệt và báo cho họ biết những hoạt động của Waaler. Chúng ta sẽ không loại trừ khả năng vụ này có thể gây tổn hại đến toàn ngành. Tôi sẽ họp buổi đầu tiên với họ vào ngày mai. Chúng ta sẽ xử lý tới cùng vấn đề này, Harry ạ.”
“Tốt thôi, sếp.”
“Tốt thôi? Cậu có vẻ không tin tưởng lắm nhỉ.”
“Thế sếp có tin không?”
“Sao lại không?”
“Vì làm sao biết được một người có đáng tin hay không, dù người đó có là sếp đi nữa.”
Møller chớp mắt hai lần nhưng không thể thốt ra câu trả lời, ông liếc một cái về phía viên cảnh sát đang ngồi sau tay lái.
“Sếp chờ một lát được chứ?”
Harry ra khỏi xe. Rakel buông Oleg ra, thằng bé chạy biến vào trong nhà.
Cô khoanh tay trước ngực, ánh mắt dán vào chiếc sơ mi của anh khi anh đứng trước mặt cô.
“Người anh ướt hết rồi,” cô nói.
“À, trời mưa thì…”
“… sẽ bị ướt.” Cô mỉm cười buồn bã và áp lòng bàn tay lên má anh.
“Mọi chuyện đã qua cả rồi chứ?” cô thì thầm.
“Tạm thời đã qua.”
Cô nhắm mắt lại, nhoài người về phía trước. Anh ôm lấy cô trong vòng tay.
“Thằng bé sẽ vượt qua được thôi,” anh nói.
“Em biết. Nó nói nó không sợ gì cả. Vì có anh ở bên rồi.”
“Ừm.”
“Còn anh thì sao?”
“Anh ổn.”
“Có thật không? Tất cả đã kết thúc rồi chứ?”
“Kết thúc rồi.” Anh lẩm nhẩm đáp lại trên mái tóc của cô. “Hôm nay là ngày làm việc cuối cùng.”
“Vậy thì tốt,” cô nói.
Anh có thể cảm nhận được cơ thể cô áp sát vào anh hơn, lấp đầy tất cả những khoảng trống nhỏ giữa hai người.
“Tuần sau anh bắt đầu công việc mới. Sẽ tốt đẹp cả thôi.”
“Công việc bạn anh xin hộ ấy à?” cô hỏi, đặt tay lên cổ anh.
“Ừ.” Mùi hương của cô lấp đầy tâm trí anh. “Øystein. Em còn nhớ cậu ta chứ?”
“Anh chàng lái taxi phải không?”
“Phải. Thứ Ba sẽ có buổi thi lấy bằng lái taxi. Đợt vừa rồi ngày nào anh cũng chăm chỉ ‘cày’ tên đường phố Oslo lắm.”
Cô bật cười và hôn lên môi anh.
“Em nghĩ sao?” anh hỏi.
“Em nghĩ anh đúng là điên.”
Tiếng cười của cô róc rách trong tai anh tựa như dòng suối nhỏ. Anh lau đi một giọt lệ vương trên má cô.
“Giờ anh phải đi rồi,” anh nói.
Cô cố mỉm cười, nhưng Harry nhận thấy cô lực bất tòng tâm.
“Em làm sao vượt qua đựợc đây,” cô thốt lên trước khi những tiếng nấc khiến giọng cô run rẩy.
“Em sẽ làm được thôi,” Harry nói.
“Em làm sao vượt qua… khi không có anh.”
“Không đúng,” Harry nói, kéo cô lại gần. “Em hoàn toàn có thể xoay xở được rất tốt dù không có anh. Câu hỏi đặt ra ở đây là: liệu em có vượt qua được khi ở bên anh không?”
“Đó là điều anh muốn hỏi ư?” Cô thì thầm.
“Anh biết em sẽ phải suy nghĩ về việc này.”
“Anh chẳng biết gì hết.”
“Cứ suy nghĩ đi đã, Rakel.”
Cô ngả đầu ra sau, anh đặt tay lên đường cong ở sống lưng cô. Cô chăm chú quan sát khuôn mặt anh. Kiếm tìm sự thay đổi, Harry nghĩ thầm.
“Đừng đi, Harry.”
“Anh sắp có buổi họp. Nếu em thích, đầu giờ sáng mai anh sẽ ghé qua. Chúng ta có thể…”
“Có thể sao?”
“Anh không biết. Anh chẳng có kế hoạch nào. Hoặc ý tưởng nào. Như vậy không sao chứ?”
Cô mỉm cười.
“Như vậy thật tuyệt vời.”
Anh nhìn môi cô. Do dự giây lát. Rồi anh hôn cô, sau đó rời đi.
“Ở đây sao?” viên cảnh sát ngồi sau tay lái hỏi, mắt nhìn vào gương. “Chỗ này không đóng cửa à?”
“Từ mười hai giờ đến ba giờ sáng vào những ngày thường,” Harry nói.
Tài xế cho xe tấp vào lề đường bên ngoài quán Boxer.
“Sếp có vào cùng không?”
Møller lắc đầu.
“Ông ấy muốn nói chuyện riêng với cậu.”
Quán đã ngừng phục vụ từ lâu và những vị khách cuối cùng đang rậm rịch rời khỏi quầy bar.
Vị sếp Kripos vẫn ngồi đúng chiếc bàn trong buổi gặp lần trước. Hai hốc mắt sâu thẳm của ông ta khuất trong bóng tối. Cốc bia trước mặt ông ta đã gần cạn. Ông ta mở miệng nói, “Chúc mừng cậu, Harry.”
Harry lách người vào qua khoảng trống giữa bàn và chiếc ghế dài.
“Làm tốt lắm. Nhưng cậu nhất định phải cho tôi biết làm thế nào cậu đoán ra Sven Sivertsen không phải là Sát nhân Giao hàng.”
“Tôi có xem một tấm ảnh chụp Sivertsen ở Praha và nhớ ra mình đã từng trông thấy tấm ảnh chụp Wilhelm và Lisbeth cũng tại địa điểm đó. Trên hết, bên Pháp y đã khám nghiệm mẫu phân dưới…”
Giám đốc Sở nhoài người qua bàn, đặt tay lên cánh tay Harry. Hơi thở ông ta có mùi bia và thuốc lá.
“Tôi không hỏi bằng chứng, Harry. Mà tôi muốn nói đến ý nghĩ của cậu. Mối nghi ngờ của cậu. Bất cứ điều gì đã giúp cậu liên hệ những manh mối thu được với hung thủ thực sự. Khoảnh khắc xuất thần ấy xảy ra khi nào? Cái gì đã khiến cậu hình thành suy nghĩ đó?”
Harry nhún vai. “Sếp có thể nghĩ tới tất cả những kiểu suy nghĩ đó mọi lúc mọi nơi mà. Nhưng…”
“Nhưng sao?”
“Mọi tình tiết ăn khớp hoàn hảo quá.”
“Ý cậu là gì?”
Harry gãi cằm. “Sếp có biết Duke Ellington từng yêu cầu người chỉnh dây đàn dương cầm đừng chỉnh cao độ đến mức hoàn hảo không?”
“Không.”
“Khi đàn dương cầm được chính đến độ hoàn hảo thì nhạc sẽ không hay. Thực ra cũng không có gì sai cả, chỉ là nó sẽ phần nào mất đi sự ấm áp và cảm giác chân thật thôi.”
Harry chọc một mẩu vecni sắp bung ra trên mặt bàn.
“Sát nhân Giao hàng đã gửi đến cho chúng ta một mật mã hoàn hảo, cho chúng ta biết địa điểm và thời gian gây án. Nhưng lại giấu nhẹm đi nguyên nhân. Bằng cách đó, hắn khiến chúng ta tập trung vào những việc hắn làm thay vì động cơ của hắn. Người thợ săn nào cũng biết rằng nếu muốn nhìn thấy được con mồi trong bóng tối thì không nên dồn toàn bộ sự tập trung vào nó, mà phải là những thứ xung quanh. Khi tôi ngừng chú trọng tới các dữ kiện thực tế thì đó cũng là lúc tôi nghe thấy.”
“Nghe thấy?”
“Phải. Tôi có thể nghe thấy cái gọi là giết người hàng loạt này sao mà hoàn hảo quá. Nghe thì rất đúng, nhưng lại không thật. Các vụ án đi theo một công thức cố định đến từng chi tiết, chúng đưa ra cho chúng ta cách giải thích thuyết phục như với bất kỳ một lời nói dối nào, nhưng lại khó mà hợp lý nếu là một sự thật.”
“Và cậu đã nhận ra điều đó?”
“Không, nhưng tôi ngừng suy nghĩ thiển cận và thế là tầm nhìn của tôi trở nên rõ ràng hơn.”
Vị sếp Kripos gật đầu, vẫn dán mắt xuống cốc bia mà ông ta không ngừng xoay đi xoay lại giữa hai bàn tay đặt trên bàn. Âm thanh ấy nghe như tiếng đá mài giữa không gian tĩnh lặng gần như không một bóng người của quán bar.
Ông ta hắng giọng.
“Tôi đã sai trong chuyện Tom Waaler, Harry. Và tôi xin lỗi.”
Harry không đáp.
“Điều tôi muốn nói với cậu là tôi đã không ký đơn sa thải cậu. Tôi muốn cậu tiếp tục làm việc. Tôi muốn cậu biết rằng tôi tin tưởng ở cậu. Tin tưởng tuyệt đối, không một chút do dự. Và tôi hy vọng, Harry à…”
Ông ta ngẩng đầu lên và một cái hé mở - mang dáng dấp nụ cười - xuất hiện ở nửa dưới khuôn mặt ông ta.
“… rằng tôi cũng nhận được điều đó từ cậu.”
“Tôi phải suy nghĩ đã,” Harry nói.
Cái hé mở khép lại.
“Về công việc ấy mà,” anh nói thêm.
Vị sếp Kripos lại cười. Lần này nụ cười đã lan tỏa trong ánh mắt ông ta.
“Tất nhiên rồi. Để tôi mời cậu một cốc bia, Harry. Họ đóng cửa rồi nhưng chỉ khi tôi nói vậy thôi.”
“Tôi nghiện rượu mà.”
Vị sếp Kripos chợt ngẩn ra trong giây lát. Rồi ông ta bật cười khẽ.
“Xin lỗi. Tôi vô ý quá. Nhưng còn một chuyện này nữa, Harry. Cậu đã…”
Harry chờ đợi trong lúc chiếc cốc xoay thêm một vòng nữa.
“Cậu đã nghĩ xem mình sẽ trình bày vụ này như thế nào chưa?”
“Trình bày ư?”
“Phải. Trong báo cáo. Với báo chí. Họ sẽ muốn phỏng vấn cậu. Và họ sẽ săm soi đến tận chân tơ kẽ tóc toàn bộ ngành nếu vụ Waaler buôn lậu vũ khí bị lộ ra. Vì lý do đó, điều tối quan trọng là cậu không được nói…”
Harry lục tìm bao thuốc lá trong lúc Giám đốc Sở loay hoay tìm từ để diễn đạt.
“… Cậu không nên cho họ phiên bản dễ gây nhiều hiểu lầm,” cuối cùng ông ta cũng nói.
Harry hé môi thành một nụ cười nhạt và nhìn điếu thuốc cuối cùng của mình.
Vị sếp Kripos đã nghĩ xong, quyết định uống nốt chỗ bia và đưa mu bàn tay lên quệt miệng.
“Anh ta có nói gì không?”
Harry nhướn một bên lông mày. “Ý sếp muốn nói đến Waaler?”
“Phải. Trước khi chết, anh ta có nói gì không? Bất cứ điều gì về đồng bọn của anh ta? Còn ai khác có liên quan?”
Harry quyết định để dành điếu thuốc cuối cùng. “Không, anh ta không nói điều gì cả. Một điều cũng không.”
“Thật đáng tiếc.” Vị sếp Kripos quan sát anh với vẻ vô cảm. “Vậy còn những đoạn băng ghi hình thu được thì sao? Chúng có tiết lộ được bất cứ chi tiết nào đại loại như thế không?”
Harry nhìn thẳng vào cặp mắt xanh dương của sếp Kripos. Theo như anh biết, ông ta đã cống hiến cả đời mình cho ngành cảnh sát. Mũi ông ta sắc lẻm như lưỡi rìu, cặp môi đã mỏng lại hơi dẩu, bàn tay vừa to vừa thô kệch. Ông ta đã góp phần tạo nên nền tảng của ngành: một khối đá granite vững chãi mà rắn chắc.
“Ai biết được?” Harry đáp. “Dù sao cũng có gì đáng lo đâu. Vì với vụ này, câu chuyện được đưa ra ánh sáng sẽ là phiên bản không dễ gây” - Harry cuối cùng cũng cạy được mẩu vecni khô - “hiểu lầm.”
Đúng lúc đó, đèn trong quán bar bắt đầu nhấp nháy.
Harry đứng dậy.
Hai người nhìn nhau.
“Có cần đi nhờ xe tôi không?” sếp Kripos hỏi.
Harry lắc đầu.
“Tôi sẽ đi dạo một lát.”
Vị sếp Kripos bắt tay Harry thật chặt và thật lâu. Đang trên đường ra cửa thì Harry bỗng dừng bước và ngoái lại.
“Mà sếp này, Waaler đúng là có nói một câu.”
Hai hàng lông mày trắng của sếp Kripos cau lại.
“Vậy sao?” ông ta thận trọng hỏi.
“Phải. Anh ta xin tôi rủ lòng thương.”
Harry đi đường tắt qua nghĩa trang Our Saviour. Mưa đang tí tách rơi qua những tàng cây. Những giọt nước va đập vào tán lá ở tầng dưới với những tiếng thở dài êm ái trước khi chúng chạm xuống mặt đất rồi bị mặt đất thèm khát nuốt trọn. Anh bước trên lối đi giữa những ngôi mộ và nghe thấy tiếng người chết đang lầm rầm trò chuyện. Harry đứng lại, lắng tai nghe. Phía trước mặt anh là nhà thờ Gamle Aker, tối om và say ngủ. Đâu đó vang lên âm thanh rất khẽ, ướt át của lưỡi và má chạm nhau. Anh chọn ngã rẽ bên trái, đi qua cổng và tiến về phía đồi Telthus.
Khi về đến căn hộ của mình, Harry cởi đồ, đi vào phòng tắm và xả nước nóng. Hơi nước ngưng tụ chảy dọc theo bức tường và anh cứ đứng đó cho tới khi da đỏ ửng, đau rát. Rồi anh đi vào phòng ngủ. Nước dần bay hơi, anh không lau khô người mà cú thế nằm lên giường. Anh nhắm mắt lại và chờ đợi. Đợi cơn buồn ngủ kéo đến. Hoặc là những hình ảnh. Thứ gì tới trước cũng được.
Thế nhưng, thứ tìm đến với anh lại là những tiếng lầm rầm.
Anh lắng nghe.
Họ đang thì thào chuyện gì vậy?
Họ đang lên kế hoạch gì?
Họ đang giao tiếp bằng mật mã.
Anh ngồi dậy. Tựa đầu vào tường và cảm nhận vết khắc hình ngôi sao của quỷ hằn lên phía sau đầu.
Anh nhìn đồng hồ đeo tay. Chẳng bao lâu nữa trời bên ngoài sẽ sáng.
Harry đứng lên, đi ra hành lang. Anh lục các túi áo khoác và tìm thấy điếu thuốc cuối cùng, ngắt bỏ đầu thuốc rồi châm lửa. Sau đó, anh ngồi trên chiếc ghế tựa lưng cao ở phòng khách, đợi trời sáng.
Ánh trăng rọi vào trong căn phòng.
Anh nghĩ về Tom Waaler trong ánh nhìn xa xăm vào khoảng không vô tận. Về người đàn ông anh đã nói chuyện tại khu phố cổ ở Oslo sau cuộc đối thoại với Waaler bên ngoài căng tin trên sân thượng Sở Cảnh sát. Tìm được người này cũng dễ thôi, vì anh ta vẫn giữ biệt danh ngày xưa và vẫn làm ở cửa hàng của gia đình.
“Tom Brun hả?” người đàn ông ở sau quầy thu ngân ốp gạch đã đáp lại như vậy và lùa tay qua mái tóc bóng nhờn. “Phải, đúng là tôi còn nhớ cậu ta. Kể cũng tội nghiệp. Ở nhà toàn bị bố đánh. Bố cậu ta là thợ hồ nhưng không có công ăn việc làm. Rượu chè be bét. Bạn ư? Không, tôi với Tom Brun chả phải bạn bè gì sất. Đúng, tôi chính là Solo đây. Đi du lịch xuyên châu Âu bằng vé tàu Inter-rail ư?”
Người đàn ông bật cười.
“Nơi xa nhất tôi từng đi tàu tới là ngay dưới vùng bờ biển, phía Nam Oslo. Thực sự tôi không nghĩ Tom Brun có nhiều bạn lắm. Tôi nhớ hồi đó cậu ta là đứa ngoan ngoãn, típ con trai sẵn lòng dẫn người già qua đường, hơi giống kiểu Hướng đạo sinh nam ấy. Nhưng cậu ta cũng kỳ lạ. Có điều gì đó khá đáng ngờ trong cái chết của bố cậu ta. Một vụ tai nạn rất quái dị, kiểu đấy.”
Harry quệt ngón áp út lên mặt bàn nhẵn mịn. Anh cảm thấy những hạt li ti dính vào da và biết rằng đó là lớp bụi vàng rơi ra từ chiếc đục. Ánh đèn đỏ nhấp nháy trên máy trả lời tự động của anh. Chắc là lại nhà báo đây mà. Sáng nay mọi chuyện sẽ bắt đầu. Harry đưa đầu ngón tay lên lưỡi. Anh nếm thấy vị đắng. Là vữa. Anh nhớ ra lớp bụi này bắt nguồn từ mảng tường phía trên cửa ra vào phòng 406, nơi Wilhelm Barli đã khắc hình ngôi sao của quỷ. Harry tặc lưỡi một cái. Thợ hồ hẳn đã sử dụng một hỗn hợp vữa lạ, vì thấp thoáng trong đó còn có một vị khác. Ngòn ngọt. Không, tanh tanh mới đúng. Vị của trứng.
HẾT