← Quay lại trang sách

Tập thơ Yakult Swallows

Tôi xin phép được nói luôn từ đầu rằng: Tôi thích bóng chày. Thích ở đây là thích đến tận sân và xem trực tiếp trận đấu diễn ra ngay trước mắt. Tôi sẽ đội mũ, mang theo găng để bắt cú foul [8E] nếu ngồi ở sân trong, và bắt cú home-run [9E] nếu ngồi ở sân ngoài. Tôi không thích xem truyền hình trực tiếp qua tivi lắm. Xem qua tivi, tôi luôn có cảm giác như mình bỏ lỡ mất thứ quan trọng nhất. Nghĩa là nếu so với việc làm tình... mà thôi, bỏ qua đi, nói tóm lại, bóng chày mà xem qua màn hình tivi thì không còn thấy hào hứng nữa. Tôi cảm thấy như thế đấy. Dù chẳng thể gạch đầu dòng ra để giải thích.

Nói cụ thể hơn thì tôi là cổ động viên của đội Yakult Swallows. Tuy chưa tới mức gọi là cuồng nhiệt và tận tụy nhưng có thể tạm coi là trung thành. Ít nhất thì tôi đã ủng hộ đội trong suốt thời gian dài. Từ hồi đội còn tên là Sankei Atoms, tôi đã thường xuyên đến sân Jingu. Thậm chí tôi từng sống gần sân đó để tiện đi xem. Đúng ra thì bây giờ vẫn vậy. Đi bộ được đến sân Jingu là tiêu chí quan trọng khi tôi tìm nhà ở Tokyo. Đương nhiên, tôi cũng sở hữu rất nhiều loại đồng phục và mũ lưỡi trai của đội.

Từ xưa tới nay, Jingu vẫn luôn là một sân bóng chày bình yên và khiêm nhường, chưa bao giờ tự hào về khả năng thu hút khán giả. Nếu được phép miêu tả thẳng thắn hơn thì sân lúc nào cũng vắng như chùa Bà Đanh. Hầu như không có khả năng xảy ra chuyện đến sân rồi nhưng lại không thể vào vì hết chỗ. Tôi nói “hầu như không có khả năng xảy ra” nghĩa là xác suất giống như tình cờ nhìn thấy nhật thực khi đang đi dạo vào buổi tối, hay tình cờ gặp một con mèo tam thể đực không lạ người ở công viên gần nhà. Nhưng thú thực, tôi lại khá hài lòng với mật độ thưa thớt đó. Ngay từ nhỏ tôi vốn đã không thích chốn đông người.

Nhưng dĩ nhiên, không phải tôi hâm mộ đội Yakult Swallows chỉ vì lý do sân bóng của họ thường xuyên vắng người. Nói thế thì tội nghiệp cho đội Yakult Swallows quá. Đội Yakult Swallows đáng thương. Sân Jingu đáng thương. Bởi lẽ, hầu như lúc nào khán đài bên đội khách cũng kín chỗ trước cả khán đài bên đội nhà Yakult Swallows. Có tìm cả thế giới cũng không ra một sân bóng nào như thế.

Vậy vì lẽ gì mà tôi lại trở thành cổ động viên đội bóng này? Con đường để tôi trở thành cổ động viên lâu năm của đội Yakult Swallows và sân Jingu rốt cuộc dài và quanh co thế nào? Tôi đã băng qua vũ trụ nào, để cuối cùng lại lấy một ngôi sao nhạt nhòa, phù du – ngôi sao mà phải mất nhiều thời gian hơn bình thường để tìm được vị trí trên bầu trời đêm – làm ngôi sao may mắn cho mình? Nếu kể ra thì sẽ rất dài. Nhưng thôi, nhân dịp này, tôi sẽ kể một chút. Biết đâu lại thành một tự truyện súc tích về con người tôi.

Tôi sinh ra ở Kyoto nhưng không lâu sau thì theo gia đình chuyển đến Hanshinkan [10E] và sống ở đó cho đến năm mười tám tuổi. Tôi ở Shukugawa và Ashiya. Khi nào rảnh, tôi lại đạp xe, hoặc có khi là đi tàu Hanshin, đến sân Koshien để xem các trận đấu bóng chày. Hồi cấp một, đương nhiên tôi cũng ở trong hội cổ động viên đội Hanshin Tigers (không tham gia thì khi đi học sẽ bị bắt nạt). Mặc kệ mọi người nói gì, Koshien vẫn là sân bóng chày đẹp nhất Nhật Bản. Nắm chặt chiếc vé trong tay, đi qua chiếc cổng có bụi thường xuân, nhanh chân chạy lên cầu thang bê tông mờ mờ tối. Và khi thảm cỏ thiên nhiên ngoài trời đập vào mắt, khi bỗng nhiên trước mặt là cả một đại dương xanh mát thì lồng ngực của một thằng bé như tôi đập liên hồi. Như thể có một nhóm chú lùn hiếu động đang luyện nhảy bungee [11E] bên trong những chiếc xương sườn mảnh dẻ của tôi vậy.

Những bộ đồng phục chưa bị dây bẩn của các cầu thủ đang luyện chặn bóng trên sân, quả bóng trắng tinh khôi ngay trước mắt, tiếng dội lại sung sướng của cây gậy bắt được bóng ở trung tâm, tiếng rao lanh lảnh của cậu bé bán bia, bảng tỉ số trắng trước giờ khai cuộc... Ở đó, dự cảm về các kịch bản sắp được tung ra luôn đầy ắp, những tiếng reo hò, thở dài hay giận dữ luôn chực chờ. Phải, cứ như thế, tôi chưa kịp thắc mắc gì thì việc xem bóng chày và đến tận sân bóng đã đồng nhất với nhau trong con người tôi.

Do đó, khi rời Hanshinkan năm mười tám tuổi để lên Tokyo học đại học, tôi quyết định cổ vũ đội Sankei Atoms tại sân Jingu, như thể đó là chuyện đương nhiên. Còn gì đúng đắn hơn khi thưởng thức bóng chày ở sân bóng gần nơi mình ở nhất và cổ vũ cho đội chủ nhà. Nếu nói về khoảng cách thuần túy thì tôi nghĩ sân Korakuen gần hơn sân Jingu... Nhưng sao có chuyện tôi tới sân đó được. Ai mà chẳng có những nguyên tắc đạo đức cần tuân thủ.

Đó là năm 1968. Năm mà bài hát “Gã say trở về” của ban nhạc The Folk Crusaders trở nên nổi tiếng, năm mà Martin Luther King và Robert Kennedy bị ám sát, năm mà sinh viên biểu tình chiếm nhà ga Shinjuku vào ngày Quốc tế phản chiến. Liệt kê ra mà cảm giác như thời cổ đại vậy... Tóm lại, vào năm đó, tôi đã đưa ra quyết định “Từ giờ sẽ cổ vũ cho đội Sankei Atoms”. Theo sự xúi giục của định mệnh, của cung hoàng đạo, của nhóm máu, của lời tiên tri hay lời nguyền nào đó. Nếu như bạn đang cầm bảng niên đại lịch sử, làm ơn hãy ghi chú ở một góc nhỏ rằng: “Năm 1968, Haruki Murakami trở thành cổ động viên của đội Sankei Atoms”.

Tôi dám thề trước tất cả thần linh trên thế giới rằng hồi đó, Atoms là một đội hạng bét. Không có cầu thủ ngôi sao, đội bóng thì nghèo, sân bóng thì trừ những trận đấu với đội Giants ra thì lúc nào cũng vắng tanh, nếu miêu tả bằng cách nói cổ xưa thì là “Nơi chim cúc cu gáy” [12E] . Hồi đó tôi nghĩ lẽ ra nên chọn chim cúc cu làm linh vật của đội chứ không phải cậu bé tay sắt Atom. Dù tôi cũng không biết chim cúc cu trông như thế nào.

Hồi đó, đội Giants đang ở thời kỳ đỉnh cao bất khả chiến bại dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên Kawakami nên sân Korakuen lúc nào cũng đầy ắp khán giả. Tờ Yomiuri dùng vé vào sân Korakuen làm vũ khí chủ lực để bán báo. Cầu thủ Oh và Nagashima chẳng khác nào những anh hùng dân tộc. Tất cả trẻ em tôi gặp trên đường đều đội mũ của đội Giants với vẻ tự hào. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy đứa trẻ nào đội mũ của đội Sankei Atoms. Hoặc có thể những đứa trẻ can đảm ấy đang kín đáo đi đường vòng. Rón rén men theo các hiên nhà. Ơ kìa, công bằng ở đâu vậy?

Nhưng hễ mà rảnh (nói đúng hơn thì hồi đó tôi lúc nào cũng rảnh), tôi lại đến sân Jingu, một mình lặng lẽ cổ vũ cho đội Sankei Atoms. Tuy đội thua nhiều hơn thắng (cảm giác ba trận thì sẽ thua hai trận), nhưng tôi vẫn đang còn trẻ nên chỉ cần được nằm dài trên bãi cỏ ở sân ngoài, vừa uống bia vừa thưởng thức trận đấu, thi thoảng lại vẩn vơ nhìn lên bầu trời là cũng thấy hạnh phúc lắm rồi. Nếu họa hoằn mà đội thắng, tôi sẽ vui sướng tận hưởng trận đấu, còn khi đội thua, tôi sẽ nghĩ: “Chà, sống trên đời cũng phải quen với việc thua chứ”. Sân Jingu hồi đó chưa có ghế ngồi ở sân ngoài, chỉ có đoạn dốc nghiêng với đám cỏ xơ xác. Tôi trải báo lên đó (tất nhiên là báo Thể thao Sankei ), rồi cứ thoải mái nằm hoặc ngồi. Đương nhiên, nếu trời mưa thì mặt đất sẽ lầy lội.

Khi đội giành chức vô địch lần đầu tiên vào năm 1978, tôi đang sống ở Sendagaya, cách sân Jingu 10 phút đi bộ. Vì vậy mà cứ rảnh là tôi lại đến sân xem. Năm đó, đội Yakult Swallows (lúc này đội đã đổi tên thành Yakult Swallows) lần đầu giành được cúp vô địch Liên đoàn sau 29 năm thành lập, thừa thắng xông lên, họ chinh phục luôn cả Giải bóng chày nhà nghề Nhật Bản. Thật đúng là một năm kỳ tích. Và trong năm đó, tôi cũng hoàn tất cuốn sách đầu tiên tạm gọi là tiểu thuyết khi hai mươi chín tuổi. Đó là cuốn Lắng nghe gió hát , đoạt giải Tác giả mới của tạp chí Gunzo , kể từ đó được gọi là nhà văn. Dĩ nhiên, đây chỉ là sự trùng hợp nhưng tôi vẫn cảm thấy như có một chút duyên.

Nhưng đó là chuyện mãi về sau. Còn trong suốt 10 năm, từ năm 1968 đến năm 1977, tôi đã liên tục chứng kiến số trận thua khổng lồ, (theo cảm giác) gần bằng đơn vị thiên văn. Nói cách khác là cơ thể tôi phải dần thích nghi với thế giới mà “hôm nay lại tiếp tục thua”. Như thợ lặn dành thời gian để cơ thể làm quen với áp suất nước. Đúng thế, trong cuộc đời này, thua lúc nào chẳng nhiều hơn thắng. Trí khôn thực sự của đời người được nuôi dưỡng từ việc “làm cách nào để thua đẹp” chứ không phải “làm thế nào để thắng đối phương”. Tôi thường hét (tất nhiên là không thành tiếng) sang phía khán đài chật kín người của đội Yomiuri Giants rằng: “Các người còn lâu mới hiểu được lợi thế này của bọn tôi!”

Suốt những năm tháng ảm đạm như chui dưới đường hầm hun hút đó, tôi một mình ngồi ở khán đài sân ngoài của sân Jingu, vừa theo dõi trận đấu vừa viết vào sổ tay mấy bài thơ để giết thời gian. Những bài thơ có chủ đề về bóng chày. Khác với bóng đá, một trận bóng chày hay có thời gian tạm nghỉ giữa các lượt đấu nên có rời mắt một chút khỏi sân để ghi chép cũng không sợ bỏ lỡ mất pha ghi bàn. Đây là một môn thể thao tương đối thong dong. Thường thì tôi làm thơ ở những trận bóng chán ngắt mà đội mình bị dẫn trước và các cầu thủ ném bóng liên tục bị thay ra (chà, những trận như vậy mới nhiều làm sao).

Nhân thể thì đây là bài đầu tiên trong tập thơ của tôi. Bài thơ có hai phiên bản dài và ngắn, đây là phiên bản dài. Sau đó còn được bổ sung thêm.

Cầu thủ cánh phải

Buổi chiều tháng Năm ấy, cậu

Đứng chặn bóng ở cánh phải sân Jingu.

Cầu thủ cánh phải của Sankei Atoms.

Đó là nghề của cậu.

Ở hàng ghế sau sân ngoài cánh phải

Tôi ngồi uống lon bia đã bớt lạnh.

Vẫn giống như mọi khi.

Cầu thủ đánh bóng của đối phương tung một cú bóng về phía cánh phải.

Một cú đánh bóng cao đơn giản.

Chỉ bay vọt lên, không tốc độ.

Gió cũng đã ngừng thổi.

Nắng cũng không chói chang.

Đúng là mỡ dâng tận miệng.

Cậu khẽ giơ hai tay lên

Tiến lên chừng ba mét.

OK.

Tôi nhấp một ngụm bia,

Chờ quả bóng rơi xuống.

Quả bóng,

Như thể đã đo chính xác bằng thước

Rơi xuống cách lưng cậu đúng ba mét.

Bụp, âm thanh khô khốc vang lên

Như thể cái búa gõ vừa gõ nhẹ vào rìa vũ trụ.

Tôi tự hỏi

Sao mình lại cổ vũ cho một đội thế này.

Thật là một câu đố

Thuộc tầm vũ trụ.

Tôi không biết có thể gọi đấy là thơ hay không. Nếu gọi là thơ thì hẳn những nhà thơ chân chính sẽ nhảy dựng lên mất. Họ sẽ muốn túm lấy tôi và treo lên cột điện. Thế thì sẽ rắc rối lắm. Nhưng nếu vậy thì phải gọi là gì? Hãy cho tôi biết nếu bạn có cách gọi phù hợp. Nên thôi, tôi cứ tạm gọi đây là thơ. Tôi quyết định gom hết lại và phát hành thành Tập thơ Yakult Swallows . Các nhà thơ muốn nổi giận thì cứ việc. Đó là năm 1982. Ngay trước khi tôi hoàn thành tiểu thuyết Cuộc săn cừu hoang, tức ba năm sau khi tôi ra mắt với tư cách là một nhà văn (tạm gọi thế).

Cố nhiên, các nhà xuất bản lớn đủ thông minh để không đếm xỉa tới việc xuất bản một thứ như thế, thành thử tôi phải tự bỏ một nửa tiền ra để phát hành. May mắn là tôi có một người bạn điều hành một xưởng in nên có thể in với giá tương đối rẻ. Tập thơ được làm đơn giản, in 500 bản có đánh số, tất cả đều được tôi ký bằng tay. Haruki Murakami, Haruki Murakami, Haruki Murakami... Nhưng đúng như dự đoán, chẳng ai thèm để ý. Chỉ người nào tò mò lắm mới bỏ tiền ra mua một thứ như thế. Thực tế thì tôi chỉ bán được khoảng 300 bản. Còn lại là tặng bạn bè, người quen làm kỷ niệm. Giờ đây, nó đã trở thành một thứ đồ sưu tập quý có giá cao ngất ngưởng. Thật chẳng hiểu nổi thế giới này. Tôi hiện chỉ còn đúng hai tập. Nếu giữ lại nhiều hơn thì có phải giờ đã giàu rồi không.

Khi bố tôi mất, sau lễ tang, tôi ngồi nốc bia tì tì với ba người em họ. Bốn chúng tôi gồm hai em họ bên bố (tầm tuổi tôi) và một em họ bên mẹ (có lẽ kém tôi chừng 15 tuổi) ngồi uống đến tận nửa đêm. Chúng tôi không uống gì khác ngoài bia. Không có cả đồ nhắm. Chỉ có bia và bia. Đó là lần đầu tiên tôi uống nhiều bia đến vậy. Tổng cộng có khoảng 20 chai bia Kirin cỡ đại rỗng xếp trên bàn. Bàng quang kể ra chứa tốt thật. Chưa kể uống xong, tôi còn đến một quán bar nhạc jazz gần nhà tang lễ và uống cả mấy ly đúp whiskey Four Roses với đá nữa.

Bản thân tôi cũng không hiểu vì sao đêm ấy mình lại uống nhiều đến vậy. Khi đó, tôi chẳng cảm thấy gì đặc biệt, không buồn hay trống rỗng. Chỉ biết là hôm đó dù có uống nhiều đến mấy thì tôi cũng không say, cũng không có dư chứng khó chịu. Sáng hôm sau khi thức dậy, đầu óc tôi còn tỉnh táo hơn bình thường.

Bố tôi là một cổ động viên bảo thủ của đội Hanshin Tigers. Khi tôi còn nhỏ, hễ đội Hanshin Tigers thua là bố tôi vô cùng bực bội. Đến nét mặt của ông cũng thay đổi. Rượu vào thì còn tệ hơn nữa. Thế nên những tối mà đội Hanshin Tigers bị thua, tôi phải chú ý để không chọc giận bố. Có lẽ đây là lý do mà tôi không trở thành, hoặc không thể trở thành, cổ động viên cuồng nhiệt của đội Hanshin Tigers.

Nói giảm nói tránh đi thì là quan hệ giữa tôi và bố không được tốt đẹp cho lắm. Lý do có nhiều nhưng trong suốt hơn 20 năm, cho đến tận trước khi bức màn cuộc đời ông hạ xuống ở tuổi chín mươi do ung thư di căn khắp cơ thể và bệnh tiểu đường nặng, tôi và bố hầu như không nói chuyện với nhau. Xét theo bất cứ khía cạnh nào cũng khó có thể coi đó là “mối quan hệ hữu hảo”. Cuối cùng, chúng tôi cũng có một chút gọi là hòa giải, nhưng để gọi là hòa giải thì lại hơi muộn một chút.

Nhưng dĩ nhiên tôi cũng có kỷ niệm đẹp về ông.

Mùa thu khi tôi chín tuổi, đội St. Louis Cardinals của Mỹ tới Nhật để thi đấu giao hữu với đội tuyển quốc gia. Stan Musial vĩ đại đang ở thời kỳ hoàng kim. Đội Nhật có hai quân át chủ bài là Inao và Sugiura. Một cuộc đối đầu tuyệt vời. Tôi cùng bố đến sân Koshien để xem trận đấu đó. Chúng tôi ngồi ở hàng ghế trước của sân trong, bên phía chốt gôn 1. Trước khi trận đấu bắt đầu, cầu thủ của đội Cardinals đi một vòng quanh sân, ném những quả bóng tennis mềm có chữ ký của mình về phía khán giả. Mọi người đứng dậy, reo hò và cố bắt bóng. Tôi vẫn ngồi ở ghế, lơ đãng ngắm cảnh tượng đó. Bé nhỏ như tôi thì sao có thể bắt được bóng chứ. Nhưng ngay sau đó, tôi nhận ra một quả bóng đang nằm trên đầu gối mình. Tình cờ thế nào mà nó rơi trúng vào đầu gối tôi. Bụp! Hệt như Thiên Khải vậy.

“Tốt quá,” bố nói với tôi. Nửa như sững sờ, nửa như thán phục. Nhắc đến mới nhớ, khi tôi ra mắt với tư cách nhà văn năm ba mươi tuổi, bố tôi cũng nói câu tương tự. Nửa như sững sờ, nửa như thán phục.

Có lẽ đó là một trong những sự kiện huy hoàng nhất của tôi thời niên thiếu. Nếu không muốn nói là may mắn nhất. Phải chăng cũng vì thế mà tôi đem lòng yêu cái nơi gọi là “sân bóng chày” ấy? Tất nhiên tôi đã giữ cẩn thận quả bóng trắng đó để đem về nhà. Nhưng tôi chỉ nhớ được đến thế. Quả bóng sau đó ra sao? Bị quăng vào xó xỉnh nào rồi?

Tập thơ Yakult Swallows của tôi còn có cả bài thơ như thế này. Hình như là thời huấn luyện viên Mihara dẫn dắt đội tuyển. Không hiểu sao, tôi nhớ được rõ nhất đội Swallows vào thời kỳ này. Mỗi khi đến sân bóng, tôi lại háo hức như thể sẽ có điều gì thú vị xảy ra.

Bóng chim

Một trận đấu ban ngày vào buổi chiều đầu hè.

Nửa đầu hiệp thứ tám

Đội Swallows đang bị dẫn với tỉ số 1-9 (hoặc đại loại thế).

Cầu thủ ném bóng thứ sáu (hoặc đại loại thế) mà tôi chưa từng nghe tên,

Đang tập ném bóng.

Đúng lúc ấy

Cái bóng sắc nét của một con chim

Vụt lướt qua thảm cỏ xanh

Từ chốt gôn 1 đến vị trí chặn bóng trung tâm.

Tôi ngẩng lên nhìn

Nhưng không thấy con chim đâu.

Dưới ánh nắng gay gắt.

Tôi chỉ thấy

Cái bóng, như một lát cắt màu đen

Rơi xuống thảm cỏ.

Lát cắt có hình con chim.

Đó là điềm lành,

Hay điểm dữ,

Tôi ngẫm nghĩ.

Nhưng rồi lắc đầu.

Xua đi ngay.

Ở đây mà có điểm lành ư?

Khi trí nhớ của mẹ tôi dần giảm sút, khó sống được một mình, tôi trở về Kansai để sắp xếp lại chỗ ở của bà. Tôi choáng váng khi nhìn thấy cả đống đồ đồng nát – chỉ có thể nghĩ vậy - chất đầy trong tủ của bà. Bà đã mua những thứ chẳng biết để làm gì với số lượng nhiều mà người thường không hình dung nổi.

Chẳng hạn, một hộp kẹo lớn chứa đầy thẻ. Hầu hết là thẻ điện thoại, lẫn một ít thẻ tàu Hanshin - Hankyu trả trước. Thẻ nào cũng in ảnh cầu thủ của đội Hanshin Tigers. Kanemoto, Imaoka, Yano, Akahoshi, Fujikawa... Thẻ điện thoại? Trời ạ, thời đại này thì dùng được thẻ điện thoại ở đâu chứ?

Tôi không đếm từng cái nhưng tổng cộng có lẽ phải hơn 100 thẻ. Không thể hiểu nổi. Theo như tôi biết thì mẹ tôi không hề quan tâm tới bóng chày. Nhưng hiển nhiên chỗ thẻ này là do mẹ tôi mua. Có bằng chứng rõ ràng. Phải chăng, vì một dịp tình cờ nào đó mẹ tôi đã trở thành cổ động viên cuồng nhiệt của đội Hanshin Tigers mà tôi không hay biết? Ấy thế nhưng mẹ tôi lại một mực phủ nhận chính mình đã mua số lượng lớn thẻ điện thoại có in hình cầu thủ đội Hanshin Tigers. “Con nói linh tinh gì thế. Sao mẹ có thể mua mấy thứ đó được,” bà nói. “Đi mà hỏi bố con ấy.”

Mẹ nói thế thì tôi cũng chịu. Vì bố tôi đã mất từ ba năm trước rồi.

Bởi vậy, dù mang theo điện thoại di động, tôi vẫn lặn lội đi tìm các bốt điện thoại công cộng để dùng hết số thẻ Hanshin Tigers đó. Cũng nhờ thế mà tôi biết nhiều hơn về tên các cầu thủ đội Tigers. Dù phần lớn hiện tại họ đã giải nghệ hoặc đang chơi cho đội khác.

Hanshin Tigers.

Trước đây, trong đội Hanshin Tigers có một cầu thủ sân ngoài lanh lợi, dễ mến tên là Mike Reinbach. Tôi từng viết một bài thơ có anh ta là nhân vật phụ. Reinbach bằng tuổi tôi, mất vì tai nạn xe hơi ở Mỹ năm 1989. Năm 1989, tôi sống ở Rome và đang viết một tiểu thuyết dài. Vì vậy, cũng phải một thời gian sau tôi mới biết Reinbach qua đời khi mới ba mươi chín tuổi. Đương nhiên, báo chí ở Ý sẽ không đưa tin về cái chết của một cựu cầu thủ sân ngoài của đội Hanshin Tigers.

Bài thơ tôi viết như sau:

Cặp mông của cầu thủ sân ngoài,

Tôi thích ngắm mông của cầu thủ sân ngoài.

Nói đúng hơn, khi ngồi một mình ở ghế sân ngoài,

Xem một trận đấu bệ rạc mà đội mình đang thua,

Thì ngoài việc nhìn chằm chằm vào mông cầu thủ ra,

Còn có thú vui nào khác?

Nếu có, hãy cho tôi biết.

Chính vì thế, tôi có thể,

Dành cả đêm để nói về,

Cặp mông của cầu thủ sân ngoài.

John Scott [13E] , cầu thủ chặn bóng ở vị trí giữa sân,

Có cặp mông đẹp vượt trên mọi tiêu chuẩn.

Đôi chân dài miên man, khiến cặp mông,

Trông như lơ lửng giữa không trung.

Như một ẩn dụ táo bạo khiến trái tim bạn vui sướng.

Trong khi đó, cầu thủ cánh phải, Wakamatsu,

Lại có đôi chân ngắn cũn,

Khi đứng cạnh nhau,

Mông của Scott ở ngang cằm của Wakamatsu.

Cặp mông của Reinbach [14E] bên đội Hanshin,

Lại có vẻ đáng yêu tự nhiên, hai bên đối xứng.

Chỉ nhìn thôi,

Đã thấy thuyết phục rồi.

Mông của Shane [15E] bên đội Hiroshima Carp,

Lại có vẻ sâu sắc và trí tuệ.

Đúng hơn là ưu tư chăng.

Mọi người nên gọi anh ta bằng tên đầy đủ là Scheinblum.

Dù chỉ là để bày tỏ sự kính trọng với cặp mông ấy.

Đến đây, trong đầu tôi xuất hiện cả tên của những cầu thủ sân ngoài,

Có cặp mông không đẹp,

Nhưng tôi sẽ không nêu ra đây.

Vì họ cũng có mẹ, anh em, và vợ,

Hay thậm chí cả con nữa.

p class="calibre61">Có một lần, tôi ngồi xem trận đấu giữa đội Hanshin và đội Yakult Swallows ở ghế sân ngoài trên sân Koshien với tư cách cổ động viên đội Yakult. Hôm đó có việc nên tôi đến Kobe một mình, rảnh cả buổi chiều. Nhờ một tấm áp phích dán ở ga Hanshin Sannomiya mà tôi tình cờ biết hôm đó có trận đấu trên sân Koshien, thế là tôi nghĩ “Phải rồi, hay là thử đến sân Koshien”. Ngẫm thử thì hơn 30 năm rồi tôi chưa đặt chân đến đó.

Hồi ấy, Nomura Katsuya đang dẫn dắt đội Yakult Swallows. Thời kỳ mà Furuta, Ikeyama, Miyamoto, Inaba đang thi đấu rất sung sức (ngẫm thử thì đó là thời kỳ hạnh phúc). Chính vì thế bài thơ này không nằm trong Tập thơ Yakult Swallows gốc. Tôi viết bài này rất lâu sau khi tập thơ được xuất bản.

Lúc đi xem tôi không mang theo giấy bút nên khi về tới khách sạn, tôi ngồi ngay vào bàn và viết (thứ giống như) bài thơ này vào tập giấy có sẵn trong phòng. Có lẽ nên gọi đó là ghi chú ngẫu nhiên dưới dạng thơ. Ngăn kéo bàn làm việc của tôi lúc nào cũng đầy các ghi chú và những đoạn văn đủ dạng như vậy. Cho dù chúng hầu như chẳng có ích gì trên thực tế.

Hòn đảo trong dòng hải lưu,

Buổi chiều mùa hè ấy,

Trên khán đài cánh trái của sân Koshien,

Tôi tìm chỗ ngồi của cổ động viên đội Yakult Swallows,

Mất khá lâu mới thấy,

Vì khu ghế của cổ động viên đội Yakult Swallows,

Chỉ có chu vi chừng năm mét.

Xung quanh toàn là cổ động viên đội Tigers.

Tôi nhớ đến bộ phim “Fort Apache” của đạo diễn John Ford.

Đội kỵ binh bé nhỏ do Henry Fonda bướng bỉnh dẫn đầu,

Bị bao vây bởi đội quân da đỏ khổng lồ đang nhăm nhe xâm chiếm đại lục,

Một tình thế tuyệt vọng,

Chẳng khác nào hòn đảo tí hon giữa dòng hải lưu,

Cắm ngọn cờ can trường ở chính giữa.

Nhắc mới nhớ, bồi tiểu học, tại sân bóng này, tại ghế sân ngoài này,

Tôi đã nhìn thấy Oh Sadabaru, một cầu thủ đang học cấp ba.

Mùa xuân khi trường Waseda Jitsugyo lên ngôi vô địch,

Cậu ta là con át chủ bài, người đánh bóng thứ tư trong đội.

Ký ức rõ nét đến kỳ lạ

Như thể đang nhìn ngược lại từ kính viễn vọng.

Rất xa, rất gần.

Và bây giờ, tại đây,

Trong vòng vây của những thổ dân da đỏ hung ác, dữ tợn mặc bộ đồ kẻ sọc,

Dưới lá cờ của đội Yakult Swallows,

Tôi đang hét lên những tiếng bi thương.

Rằng chẳng phải sân này cách quá xa quê hương sao,

Trái tim tôi nhức nhối,

Tại hòn đảo tí hon bơ vơ giữa dòng hải lưu.

Nói gì thì nói, trong tất cả sân bóng chày trên thế giới, tôi vẫn thích đến sân Jingu nhất. Ngồi ở ghế sân trong bên chốt gôn 1, hoặc ghế sân ngoài cánh trái. Tôi thích được nghe đủ loại âm thanh, ngửi đủ thứ mùi và ngước nhìn bầu trời ở đó. Thích cảm nhận làn gió mơn man trên da, nhấp ngụm bia lạnh và ngắm mọi người xung quanh. Dù đội nhà thắng hay thua, tôi vẫn vô cùng yêu quãng thời gian ở đó.

Tất nhiên, thắng vẫn tốt hơn thua. Đương nhiên rồi. Nhưng giá trị và tầm quan trọng của thời gian không bị ảnh hưởng bởi chuyện thắng hay thua. Thời gian vẫn là thời gian. Một phút là một phút, một giờ là một giờ. Bất luận thế nào chúng ta cũng phải trân trọng. Phải khéo léo dàn xếp với thời gian và cố gắng lưu lại những ký ức tuyệt vời. Đó là điều quan trọng nhất.

Khi đã yên vị trên sân, tôi thích thưởng thức bia đen trước tiên. Nhưng số người bán bia đen không nhiều. Phải lâu mới tìm thấy họ. Khi nhìn thấy họ, tôi sẽ giơ tay và gọi. Người bán bia tới. Một anh chàng trẻ măng, gầy nhẳng. Trông như thiếu dinh dưỡng. Tóc dài. Chắc là học sinh cấp ba đi làm thêm. Cậu ta tới, việc đầu tiên là xin lỗi tôi: “Xin lỗi, đây là bia đen ạ.”

“Không cần phải xin lỗi. Không sao cả” tôi nói để trấn an cậu ta. “Vì tôi đang đợi bia đen mà.

“Cháu cảm ơn” cậu ta nói rồi mỉm cười sung sướng.

Tối nay, hẳn là cậu bé bán bia đen sẽ phải xin lỗi rất nhiều người. Rằng “Xin lỗi, đây là bia đen.” Vì phần đông khách muốn uống bia lager thường hơn là bia đen. Tôi trả tiền và khẽ chúc phúc cho cậu, “Cố gắng nhé.

Tôi cũng thường xuyên nếm trải cảm giác giống như cậu ta khi viết tiểu thuyết. Bỗng dưng muốn xin lỗi từng người trên khắp thế giới. Rằng “Xin lỗi, đây là bia đen.

Nhưng mà thôi. Không nghĩ về tiểu thuyết nữa. Sắp bắt đầu trận đấu tối nay rồi. Chà, phải cầu cho đội mình thắng chứ. Và đồng thời, (bí mật) chuẩn bị tinh thần rằng đội mình sẽ thua.