Carnaval[16E]
Trong số những phụ nữ mà tôi biết cho tới thời điểm này, cô là người xấu nhất... Nói vậy có lẽ chưa được công bằng lắm. Vì trên thực tế, chắc chắn còn nhiều phụ nữ có dung mạo xấu hơn cô. Tuy nhiên, nói cô là người xấu nhất trong số những phụ nữ có mối liên hệ gần gũi với cuộc đời tôi ở mức độ nhất định và cắm rễ tại mảnh đất trong ký ức của tôi, thì chắc cũng không ảnh hưởng gì. Đương nhiên, thay vì nói là “xấu”, có thể dùng uyển ngữ là “không đẹp”, cách nói dễ được độc giả, đặc biệt là độc giả nữ chấp nhận hơn. Mặc dầu vậy, tôi vẫn xin phép được dùng từ mang tính trực diện (và hơi thô lỗ) là “xấu”. Bởi từ này có lẽ sẽ tiệm cận với bản chất của con người cô hơn.
Tôi sẽ tạm gọi cô là “F*” Việc tiết lộ tên thật của cô, xét theo một số nghĩa thì không được phù hợp. Ngoài ra, tên thật của cô cũng không liên quan gì tới F hay *.
Có thể, ở một nơi nào đó, F* cũng đọc những dòng này. Cô thường nói bản thân chỉ quan tâm tới những thứ do các tác giả nữ còn sống viết, nhưng cũng không loại trừ khả năng cô tình cờ đọc được những dòng này. Và nếu cô đọc được những dòng này, đương nhiên, cô sẽ nhận ra người tôi đang kể ở đây chính là cô. Nhưng hẳn F* sẽ không bận tâm khi thấy tôi viết: “Trong số những phụ nữ mà tôi biết cho tới thời điểm này, cô là người xấu nhất”. Mà không, cô còn thích thú là đằng khác. Bởi hơn ai hết, cô thừa biết dung nhan của mình không xuất sắc – nói đúng hơn là “xấu”, và thậm chí cô còn thấy vui vẻ khi biến nó thành lợi thế.
Theo suy nghĩ của tôi, trường hợp như vậy trên đời này thuộc dạng tương đối hiếm. Bởi không có nhiều phụ nữ xấu tự nhận thức được rằng mình xấu, số phụ nữ dám chấp nhận đó là sự thật cũng như tìm được chút niềm vui từ việc đó vô cùng ít, nếu không muốn nói là không có. Đúng vậy, với ý nghĩa này, tôi nghĩ cô quả là không bình thường . Và sự không bình thường ấy đã thu hút không chỉ tôi, mà nhiều người khác đến với cô. Giống như thỏi nam châm hút những mẩu sắt đa hình đa dạng, cả hữu dụng lẫn vô dụng về phía mình.
Nói về sự xấu cũng chính là nói về sự đẹp.
Cá nhân tôi cũng quen biết một vài phụ nữ đẹp. Những phụ nữ mà ai cũng phải thừa nhận là “người đẹp” và không thể rời mắt. Tuy nhiên, những phụ nữ đẹp đó, hay ít nhất là phần lớn trong số họ, theo như tôi thấy, dường như lại không được vui vẻ thoải mái một cách vô điều kiện trước việc mình đẹp. Điều này khiến tôi cảm thấy lạ. Những phụ nữ bẩm sinh đã đẹp luôn thu hút đàn ông, bị những phụ nữ khác nhìn bằng ánh mắt ghen tị, và luôn được cưng chiều. Được nhận những món quà đắt tiền và có nhiều đàn ông để chọn lựa. Vậy mà sao trông họ lại chẳng hề hạnh phúc? Có trường hợp còn trông như đang trầm cảm nữa?
Theo tôi quan sát thì dường như phần lớn những phụ nữ xinh đẹp mà tôi biết lại thấy bất mãn, hoặc khó chịu với những chỗ không đẹp của bản thân – cơ thể con người kiểu gì cũng có chỗ như vậy – và thường xuyên bị giày vò bởi sự bất mãn và khó chịu đó. Cho dù đó là những khiếm khuyết nhỏ bé, những thiếu sót chẳng đáng kể thì vẫn khiến họ bận tâm. Có trường hợp còn bị ám ảnh . Chẳng hạn thấy ngón chân cái của mình quá to, móng tay trông méo mó, hoặc hai núm vú to không đều. Tôi biết một phụ nữ rất xinh đẹp còn tin rằng dái tai của cô dài bất thường nên lúc nào cũng nuôi tóc để che đi. Tôi thì thấy dái tai ngắn hay dài chẳng quan trọng (duy nhất một lần cô cho tôi xem dái tai và tôi thấy nó có kích cỡ bình thường). Hoặc có thể độ dài của dái tai chỉ là cách nói thay thế cho thứ gì đó khác.
So với họ, những phụ nữ có thể vui vẻ với việc mình không đẹp – hoặc xấu – chẳng phải là hạnh phúc hơn hay sao? Tương tự như phụ nữ đẹp đến mấy cũng có điểm nào đó xấu, phụ nữ xấu đến mấy cũng có điểm nào đó đẹp. Và khác với những phụ nữ đẹp, họ hoàn toàn cảm thấy vui vẻ với những điểm đó. Chẳng cần phải nói tránh hay nói ẩn dụ.
Ý kiến này nghe có vẻ sáo rỗng nhưng thế giới mà chúng ta đang sống thường xuyên thay đổi theo góc nhìn. Chỉ cần thay đổi cách tiếp nhận ánh sáng thôi là âm biến thành dương, dương biến thành âm. Chính biến thành phụ, phụ biến thành chính. Tôi không đủ khả năng để nhận định hiệu ứng đó là một trong những bản chất tạo nên thế giới hay chỉ đơn giản là ảo ảnh thị giác. Nhưng dù thế nào, xét theo ý nghĩa đó thì F* đúng là một người đánh lừa ánh sáng.
Tôi quen F* qua một người bạn. Khi đó tôi đã hơn năm mươi tuổi. Còn cô thì tôi nghĩ ít hơn tôi khoảng chục tuổi. Nhưng với cô, tuổi tác không phải là yếu tố quan trọng. Bởi dung mạo của cô đã đánh bại gần như tất cả các yếu tố mang tính cá nhân khác. Trước sự “không đẹp = xấu” của cô, tuổi tác, chiều cao lẫn hình dáng và kích cỡ bộ ngực đều mất hết trọng lượng. Chứ nói gì đến hình dạng móng ngón chân cái hay độ dài dái tai.
Lúc đó là giờ giải lao của một buổi biểu diễn tại rạp hát Suntory Hall, tôi tình cờ gặp một người bạn là nam giới tại hành lang rạp hát, người bạn này đang uống rượu với F*. Tiết mục chính của buổi diễn hôm đó là bản giao hưởng của Mahler (tôi không nhớ số mấy). Nửa đầu là vở ba lê Romeo và Juliet của Prokofiev. Người bạn giới thiệu tôi với F*, sau đó ba chúng tôi cùng cụng ly và bàn về âm nhạc của Prokofiev. Bạn tôi cũng tình cờ gặp F* tại đó. Nghĩa là ba chúng tôi, mỗi người đều một mình tới buổi hòa nhạc. Giữa những người đi nghe hòa nhạc một mình thường hay nảy sinh cảm giác đoàn kết nho nhỏ.
Khi mới gặp F*, cảm giác đầu tiên của tôi đương nhiên là “sao lại có người phụ nữ xấu thế”. Nhưng vì cô luôn mỉm cười với vẻ tự tin nên tôi tự thấy xấu hổ vì trót có ý nghĩ như vậy. Sau một hồi chuyện trò vui vẻ, biết nói sao nhỉ, tôi quen luôn với dung nhan xấu xí của cô. Rồi tôi chẳng bận tâm đến dung nhan của cô nữa. Cô nói chuyện hay, thân thiện, chủ đề phong phú. Đầu óc linh hoạt, gu âm nhạc cũng tốt. Khi tiếng chuông thông báo hết giờ giải lao, tôi tạm biệt cô và thầm nghĩ “Giá mà gương mặt kia xinh hơn... nói cách khác là chỉ cần dung nhan đỡ hơn một chút thôi… thì hẳn cô sẽ là một phụ nữ hấp dẫn.
Nhưng rồi sau này, tôi mới thấm thía rằng, suy nghĩ đó của tôi hồi đó thật nông cạn và hời hợt. Bởi cá tính mạnh mẽ của cô, hay nên gọi là “lực hút”, được phát huy hiệu quả chính là nhờ có dung nhan không bình thường ấy. Nói cách khác, sự khác biệt lớn giữa vẻ tao nhã tỏa ra từ con người cô và bề ngoài xấu xí đã tạo nên ấn tượng mạnh mẽ chỉ riêng cô mới có. Cô ý thức được sức mạnh ấy, có thể điều chỉnh và tận dụng nó.
Miêu tả cụ thể gương mặt cô “không đẹp = xấu” như thế nào là việc vô cùng khó. Vì dù có vận dụng mọi từ ngữ, miêu tả và giải thích tường tận đến mấy cũng không thể truyền đạt cho người đọc được vẻ đặc dị trong dung nhan của cô. Duy có một điều tôi có thể khẳng định, rằng không có bất kỳ thiếu sót nào về mặt chức năng trong cấu tạo gương mặt cô. Nghĩa là, hoàn toàn không có vấn đề đại loại như chỗ này hơi bất thường, chỗ này nếu khéo chỉnh sửa thì sẽ đỡ hơn. Từng bộ phận đều không có khiếm khuyết. Nhưng khi các bộ phận đó được ghép lại với nhau thì xuất hiện sự xấu xí toàn diện, có tổ chức, không lẫn đi đâu được (quá trình này khiến tôi liên tưởng tới sự ra đời của thần Vệ Nữ, dù sự so sánh này hơi kỳ quặc). Diễn giải sự xấu xí mang tính tổng thể đó bằng từ ngữ hay logic là điều bất khả, giả sử có làm được đi chăng nữa thì cũng chưa chắc có ý nghĩa lớn lao. Ở đây, chúng ta chỉ có hai lựa chọn, hoặc chấp nhận vô điều kiện tình trạng trước mắt rằng “nó là như thể”, hoặc không chấp nhận. Giống như cuộc chiến ngay từ đầu đã quyết định sẽ không bắt tù binh.
Mở đầu cuốn tiểu thuyết Anna Karenina, Tolstoy viết: “Mọi gia đình hạnh phúc đều giống nhau nhưng mỗi gia đình bất hạnh thì lại bất hạnh theo từng cách khác nhau”. Có thể nói tương tự như vậy với sự xấu và đẹp của phụ nữ. Theo tôi (mong độc giả hiểu cho đây chỉ là ý kiến cá nhân), phụ nữ đẹp nói chung có thể tóm tắt bằng một điểm chung là “đẹp”. Mỗi người đều cõng trên lưng một chú khỉ xinh đẹp lông vàng. Tuy bộ lông của mỗi chú khỉ khác nhau ít nhiều về màu và độ bóng, nhưng sự rực rỡ của bộ lông lại khiến tất cả trông đều giống nhau.
Trong khi đó, mỗi phụ nữ xấu lại cõng trên lưng một chú khỉ có bộ lông xơ xác theo từng cách khác nhau. Mỗi chú có kiểu lông bờm xờm riêng, lông rụng hay bẩn cũng khác nhau. Và những chú khỉ đó thường không hề tỏa sáng nên không có chuyện chúng ta bị lóa mắt bởi vẻ rực rỡ của chúng.
Tuy nhiên, chú khỉ mà F* cõng trên lưng lại có bộ mặt đa dạng, bộ lông tuy không tỏa sáng nhưng cùng lúc lại có nhiều màu đan xen. Ấn tượng về chú khỉ đó thay đổi rõ rệt tùy thuộc vào góc nhìn, vào thời tiết và hướng gió của ngày hôm đó, và cả thời điểm nhìn nữa. Nói cách khác, dung nhan xấu xí của cô là kết quả của nhiều yếu tố xấu có hình thức đa dạng, tập trung về một mối theo một quy tắc nghiêm ngặt rồi kết tinh lại dưới một sức nén đặc biệt. Và chú khỉ của cô có vẻ rất thoải mái, không hề sợ sệt khi nhẹ nhàng bám vào lưng cô. Hệt như nguyên nhân và kết quả của vạn vật đang hòa quyện làm một ở trung tâm của thế giới.
Khi gặp F* lần thứ hai, tôi bắt đầu mường tượng ra được điều đó (dù chưa thể diễn đạt bằng lời). Cần thời gian để hiểu được vẻ xấu xí của cô. Chưa kể còn cần cả những thứ như trực quan, triết học hay đạo đức nữa. Và có lẽ cả một chút kinh nghiệm sống. Khi ở cùng cô, đến một giai đoạn nào đó, bỗng nhiên chúng ta cảm thấy có chút tự hào. Tự hào rằng bản thân tình cờ có được trực quan, triết học và kinh nghiệm sống như vậy.
Lần thứ hai tôi gặp cô vẫn là tại một buổi hòa nhạc. Không phải ở rạp hát lớn như Suntory Hall. Đó là buổi hòa nhạc của một nữ nghệ sĩ vĩ cầm người Pháp. Theo tôi nhớ thì nữ nghệ sĩ đã trình diễn hai bản độc tấu của Franck và Debussy. Một nghệ sĩ vĩ cầm tài năng, hai bản độc tấu hôm đó cũng thuộc tiết mục sở trường nhưng phải nói thật là hôm đó cô chơi không được hay lắm. Tuy vậy, hai bản của Kreisler biểu diễn phần encore rất duyên dáng.
Tôi ra khỏi hội trường, đang đứng đợi taxi thì nghe tiếng cô gọi từ phía sau. Hôm đó, F* đi cùng một người bạn gái. Một cô bạn xinh đẹp, dáng người nhỏ nhắn, mảnh dẻ. Còn F* thì lại khá cao. Chỉ thấp hơn tôi một chút.
“Ở gần đây có một quán rất hay, anh có đi làm một ly với chúng tôi không?” Cô nói.
Tôi đáp là được thôi. Giờ vẫn còn sớm, nỗi thất vọng về âm nhạc trong tôi vẫn chưa giải tỏa được hết. Tôi muốn cùng ai đó uống một, hai ly rượu và bàn về âm nhạc hay.
Ba chúng tôi ghé vào một quán ăn nhỏ nằm trong con hẻm gần đó, chúng tôi gọi đồ nhắm nhẹ và rượu, được một lúc thì điện thoại của cô bạn gái xinh đẹp kia đổ chuông khiến cô phải rời bàn ăn. Cuộc gọi từ người nhà báo rằng con mèo cô nuôi bị ốm. Vậy là chỉ còn mỗi tôi và F*. Nhưng không vì thế mà tôi thấy hụt hẫng. Bởi tới thời điểm đó, cá nhân tôi đã bắt đầu tò mò về người phụ nữ có tên F*. F* rất có gu ăn mặc, cô mặc chiếc váy lụa màu xanh da trời trông có vẻ là hàng cao cấp. Trang sức cô đeo cũng thực sự hoàn hảo. Đơn giản nhưng thu hút. Khi ấy tôi mới nhận ra là cô có đeo nhẫn cưới.
Tôi và cô trò chuyện về buổi biểu diễn. Chúng tôi cùng chung quan điểm rằng nghệ sĩ vĩ cầm chơi không được tốt. Không biết là do không được khỏe, ngón tay bị đau hay là không hài lòng với phòng khách sạn. Nhưng chắc chắn là gặp vấn đề gì đó. Nếu đi nghe hòa nhạc thường xuyên sẽ hay gặp những chuyện như vậy.
Sau đó tôi và cô trò chuyện về âm nhạc mà mình yêu thích. Chúng tôi cùng chung quan điểm rằng thích nghe nhạc dương cầm. Tất nhiên, chúng tôi có nghe opera, nghe giao hưởng, nghe cả nhạc thính phòng nữa. Nhưng thích nhất vẫn là các bản độc tấu dương cầm. Kỳ lạ thay, những tác phẩm mà chúng tôi đặc biệt yêu thích cũng lại giống nhau. Cả hai chúng tôi đều không giữ được nhiệt huyết lâu dài với nhạc Chopin. Ít nhất thì đó không phải là thứ mà chúng tôi muốn nghe đầu tiên sau khi thức dậy. Các bản độc tấu dương cầm của Mozart tuy đẹp và quyến rũ nhưng thú thật là nghe đến chán rồi. Bộ Bình quân luật của Bach là một tác phẩm vĩ đại nhưng để tập trung nghe thì lại hơi quá dài. Cần phải chuẩn bị thể chất. Các bản độc tấu dương cầm của Beethoven thi thoảng hơi quá nghiêm túc. Và được diễn giải hết cả rồi (chúng tôi nghĩ vậy). Các tác phẩm soạn cho dương cầm của Brahms thi thoảng nghe thì còn thấy hay chứ nghe thường xuyên sẽ thấy mệt. Và hay chán nữa. Nhạc dương cầm của Debussy hay Ravel, nếu không chọn thời điểm và hoàn cảnh để nghe thì sẽ không chạm được tới trái tim.
Nhạc dương cầm đỉnh cao mà chúng tôi cho là tuyệt vời, không có gì để chê là một bản sonata soạn cho dương cầm của Schubert và nhạc dương cầm của Schumann. Và nếu phải chọn một bản duy nhất thì sẽ là bản nào?
Chỉ một bản duy nhất:
Đúng vậy, chỉ một bản duy nhất, F* nói. Bản sẽ mang theo khi lên hoang đảo.
Một câu hỏi khó. Cần thời gian để suy nghĩ một cách thấu đáo.
“Là bản Carnaval của Schumann. Sau cùng, tôi quả quyết.
F* nheo mắt, nhìn thẳng vào mặt tôi suốt một lúc lâu. Rồi cô đặt hai tay lên bàn, đan chúng lại với nhau và bẻ các khớp tay răng rắc. Đúng mười lần. Tiếng bẻ khớp tay to đến nỗi mọi người xung quanh đều quay sang nhìn. Âm thanh khô khốc giống như dùng đầu gối để bẻ chiếc bánh mì đã để được ba hôm. Không mấy ai, dù là nam hay nữ, có thể bẻ khớp tay nghe to đến vậy. Mãi sau này tôi mới phát hiện cô có thói quen bẻ khớp tay thật to đúng mười lần mỗi khi thấy hào hứng hay phấn chấn. Nhưng lúc đó, vì chưa biết nên tôi cứ tưởng có gì đó khiến cô bực bội. Vì Carnaval là sự lựa chọn không phù hợp chăng? Nhưng biết làm sao được. Từ xưa tôi đã thích bản Carnaval của Schumann. Nếu điều đó khiến người khác nổi giận và muốn đánh tôi thì tôi cũng không thể nói khác được.
“Anh thực sự nghĩ là bản Carnaval chứ? Nếu phải chọn một bản dương cầm từ đông tây kim cổ để đem lên hoang đảo?” Cô nhíu mày, giơ một ngón tay thon dài lên như để xác nhận.
Nghe cô hỏi vậy, tôi bỗng thấy không còn đủ tự tin nữa. Để chọn bản dương cầm đẹp như kính vạn hoa nhưng đồng thời cũng rời rạc, vượt quá sự hiểu biết của con người như bản của Schumann, tôi có sẵn sàng gạt bỏ Biến tấu Goldberg, Bình quân luật của Bach, hay những bản sonata soạn cho dương cầm ở giai đoạn sau và bản Concerto số 3 vừa can đảm vừa duyên dáng của Beethoven không?
Sau một khoảng lặng nặng nề, như để kiểm tra hai tay, F* siết chặt hai nắm bàn tay mấy lần. Sau đó cô nói:
“Anh có gu thưởng thức thật tuyệt vời. Sự can đảm của anh khiến tôi khâm phục. Tôi cũng đồng ý với anh. Tôi sẽ chọn bản Carnaval của Schumann.”
“Thật không?”
“Vâng, thật. Tôi cũng thích bản Carnaval từ ngày xưa. Thật kỳ lạ là nghe bao nhiêu lần cũng không thấy chán.”
Sau đó, chúng tôi nói về bản Carnaval suốt nhiều giờ. Trong lúc trò chuyện, chúng tôi gọi thêm một chai Pinot Noir và uống hết. Chúng tôi đã trở thành bạn bè sơ sơ theo cách như vậy. Nói cách khác là “bạn Carnaval ”. Cho dù rốt cuộc, mối quan hệ đó chỉ kéo dài được khoảng nửa năm.
Hai chúng tôi lập một hội riêng gọi là “Hội Carnaval ”. Tuy không nhất thiết chỉ cần hai thành viên nhưng hội cũng chưa bao giờ vượt quá hai người. Bởi ngoài chúng tôi ra, chẳng tìm được người nào mê bản Carnaval của Schumann như hai chúng tôi.
Sau đó, chúng tôi nghe rất nhiều đĩa than và đĩa CD của bản Carnaval . Hễ có ai chơi bản này ở buổi hòa nhạc nào là chúng tôi sẽ vượt mọi khó khăn để đi nghe cùng nhau. Theo sổ tay ghi chép của tôi (tôi ghi lại chi tiết từng buổi biểu diễn), chúng tôi đã tới buổi hòa nhạc có ba nghệ sĩ dương cầm chơi bản Carnaval , nghe tổng cộng 42 đĩa than và đĩa CD bản Carnaval . Sau đó chúng tôi thảo luận cởi mở về những phần trình diễn đó. Hóa ra rất nhiều các nghệ sĩ đông tây kim cổ đã thu âm bản Carnaval . Một tiết mục khá phổ biến. Mặc dầu vậy, chúng tôi nhận ra không có nhiều phần trình diễn khiến chúng tôi thực sự tâm đắc.
Phần trình diễn dù hoàn hảo về mặt kỹ thuật nhưng chỉ cần sự vận dụng kỹ thuật đó lệch với âm nhạc một chút thôi cũng khiến âm nhạc của bản Carnaval biến thành những chuyển động vô cảm của ngón tay. Phần lớn sự hấp dẫn của bản nhạc sẽ mất đi. Thực ra đây là một bản nhạc rất khó thể hiện. Hơi quá tầm với những nghệ sĩ dương cầm bậc trung. Tôi sẽ không nêu tên cụ thể ra đây nhưng ngay cả những nghệ sĩ được coi là đại thụ trên thế giới, không ít trường hợp biểu diễn bản này hỏng hoặc mất đi sự thú vị. Cũng có nhiều nghệ sĩ né (chỉ có thể nghĩ như vậy) bản nhạc này. Chẳng hạn như Vladimir Horowitz, cả đời yêu thích và trình diễn nhạc của Schumann nhưng không hiểu sao lại không có bản thu âm chính thức nào của Carnaval . Sviatoslav Richter cũng vậy. Và chắc chắn, không chỉ mình tôi muốn một ngày nào đó được nghe Martha Argerich trình diễn Carnaval .
Ngoài ra, những người cùng thời với Schumann, hầu như chẳng ai hiểu được sự tuyệt vời trong âm nhạc của ông. Cả Mendelssohn lẫn Chopin đều không đánh giá cao nhạc dương cầm của Schumann. Ngay cả vợ ông là Clara, người đã tận tụy trình diễn các tác phẩm của ông (bà là một trong những nghệ sĩ dương cầm nổi tiếng thời đó), cũng mong ông viết những vở opera hay các bản giao hưởng chính thống hơn là những bản nhạc dương cầm ngẫu hứng như thế này. Về cơ bản, Schumann không mặn mà với thể loại cổ điển như sonata nên kiểu sáng tác này cứ trở đi trở lại như giấc mộng không có hồi kết. Ông muốn tách khỏi chủ nghĩa cổ điển vốn có và tạo dựng thứ âm nhạc theo trường phái lãng mạn mới, nhưng trong mắt phần lớn những người đương thời, các bản nhạc của ông chỉ là những tác phẩm kỳ quặc, không có nội dung và cơ sở vững chắc. Cho dù chính sự kỳ quặc đến táo bạo đó đã trở thành động lực mạnh mẽ đưa âm nhạc trường phái lãng mạn đi lên.
Tóm lại, suốt nửa năm đó, hễ có thời gian là chúng tôi lại miệt mài nghe Carnaval . Dĩ nhiên không phải chỉ nghe mỗi bản Carnaval , thi thoảng chúng tôi cũng nghe cả Mozart và Brahms nhưng cứ gặp nhau là nhất định phải nghe bản Carnaval của ai đó rồi thảo luận. Tôi làm thư ký, ghi chép lại tóm lược ý kiến của cả hai. Cô đến nhà tôi vài lần nhưng tôi đến nhà cô nhiều hơn. Vì nhà cô ở trung tâm còn nhà tôi thì ở ngoại ô. Sau khi nghe hết 42 đĩa Carnaval , cô thích nhất là phần trình diễn của Arturo Benedetti Michelangeli (hãng thu âm Angel), còn tôi thích nhất phần biểu diễn của Arthur Rubinstein (hãng thu âm RCA). Cứ như vậy, chúng tôi chấm điểm chi tiết từng đĩa nhạc, nhưng dĩ nhiên chúng tôi không cho rằng việc xếp hạng đó có ý nghĩa quan trọng. Đó chỉ là một trò chơi ngoài lề. Với chúng tôi, quan trọng hơn cả là được trò chuyện về âm nhạc mà chúng tôi yêu thích, cũng như cảm giác được chia sẻ thứ mình say mê gần như không vì mục đích gì.
Việc thường xuyên gặp gỡ một phụ nữ kém mình mười tuổi như vậy, bình thường ra có thể gây nên sóng gió trong gia đình, nhưng vợ tôi lại không hề lo lắng. Tôi không phủ nhận lý do lớn nhất của sự không quan tâm này là do dung nhan xấu xí của cô. Có vẻ vợ tôi không mảy may nghi ngờ rằng giữa tôi và F* sẽ nảy sinh mối quan hệ thể xác. Một đặc ân lớn mà sự xấu xí của cô mang lại. Vợ tôi nghĩ chúng tôi chỉ là những kẻ “ham vui”. Vợ tôi không nghe nhiều nhạc cổ điển, phần lớn những buổi hòa nhạc đều khiến vợ tôi chán nản. Vợ tôi gọi F* là “bạn gái của chồng”. Có lúc còn gọi là “bạn gái xinh đẹp của chồng” với chút giễu nhại.
Tôi chưa bao giờ gặp chồng của F* (cô không có con). Tôi không biết chồng cô tình cờ vắng nhà đúng lúc tôi đến, hay cô chọn lúc chồng không có nhà để mời tôi, hay phần lớn thời gian chồng cô đều đi vắng. Khi nhắc tới điều này, tôi còn không chắc cô thực sự có chồng hay không. Vì cô chưa bao giờ kể về chồng mình. Theo những gì tôi nhớ thì nhà của cô hầu như không có bóng dáng hay dấu vết của đàn ông. Tuy vậy, cô vẫn công khai mình đã có chồng với chiếc nhẫn vàng lấp lánh trên ngón đeo nhẫn ở bàn tay trái.
Ngoài ra, cô tuyệt nhiên không bao giờ đả động đến quá khứ của mình. Cô không hề nhắc đến mình quê ở đâu, lớn lên trong gia đình thế nào, tốt nghiệp trường gì, đã làm những công việc ra sao. Cho dù tôi hỏi về chuyện cá nhân thì cũng chỉ được đáp lại bằng những lời bóng gió xa xôi hoặc nụ cười không lời. Tôi chỉ biết cô làm công việc chuyên môn gì đó (ít nhất là không làm cho công ty) và có cuộc sống tương đối sung túc. Cô sống tại một căn chung cư ba phòng ngủ sang trọng xung quanh phủ nhiều cây xanh ở Daikanyama, lái chiếc sedan của BMW mới cứng. Bộ dàn ở phòng khách cũng là loại đắt tiền. Bộ ampli và đầu đĩa CD tích hợp thuộc phân khúc cao cấp của hãng Accuphase, bộ loa cỡ đại trang nhã của hãng Linn. Cô luôn khoác trên mình những bộ quần áo thanh lịch. Tôi không rành về quần áo của phụ nữ lắm. Mặc dầu vậy, tôi cũng biết đó là trang phục của những thương hiệu cao cấp, đắt tiền.
Khi nói về âm nhạc, cô vô cùng hoạt ngôn. Cô có đôi tai cảm nhạc rất nhạy, chọn từ ngữ để miêu tả cũng nhanh và phù hợp. Kiến thức âm nhạc sâu rộng. Nhưng ngoài những gì thuộc về âm nhạc, cô gần như điều bí ẩn đối với tôi. Nếu là chuyện cô không muốn kể thì có dụ thế nào cô cũng không bao giờ kể.
Một hôm, cô nói về Schumann.
“Giống như Schubert, hồi trẻ Schumann cũng mắc bệnh giang mai, lúc mang căn bệnh đó trong người, đầu óc của ông dần không còn được tỉnh táo. Chưa kể, ông vốn cũng có dấu hiệu bị tâm thần phân liệt. Hằng ngày phải vật lộn với chứng ảo thính dai dẳng, cơ thể mỗi khi run rẩy là không dừng lại được. Ông đinh ninh rằng mình bị quỷ ám. Ông tin ma quỷ có thật theo đúng nghĩa đen. Quá sợ hãi vì bị những cơn ác mộng khủng khiếp không hồi kết đeo đuổi, ông tìm cách tự tử. Ông đã trầm mình xuống dòng sông Rhine. Hoang tưởng bên trong và hiện thực bên ngoài cứ lẫn lộn ở bên trong ông không lối thoát. Bản Carnaval này là sáng tác thời kỳ đầu nên lũ ma quỷ trong ông chưa lộ rõ. Vì bối cảnh là một lễ hội hóa trang nên khắp nơi tràn ngập những nhân vật đeo những chiếc mặt nạ vui vẻ. Nhưng đây không phải là một lễ hội hóa trang vui vẻ đơn thuần. Những thứ mà chẳng bao lâu nữa sẽ trở thành quỷ dữ trong ông lần lượt lộ diện trong bản nhạc này. Tất cả đều đeo thứ mặt nạ vui tươi của lễ hội như để chào hàng một chút vậy. Xung quanh là cơn gió đầu xuân báo điềm dữ. Những tảng thịt nhỏ máu tong tỏng được phục vụ cho tất cả mọi người. Lễ Xả Thịt [17E] . Bản nhạc này chính là thể loại âm nhạc đó.”
“Chính vì thế mà các nghệ sĩ biểu diễn phải thể hiện được bằng âm nhạc cả mặt nạ của nhân vật lẫn gương mặt đằng sau lớp mặt nạ đó... Đúng vậy không?” Tôi hỏi.
Cô gật đầu, “Vâng, đúng thế. Chính xác là như thế. Tôi cho rằng, nếu không thể hiện được như vậy thì việc biểu diễn bản nhạc này hoàn toàn vô nghĩa. Bản nhạc này, xét theo ý nghĩa nào đó, tuy là thứ âm nhạc giải trí lý tưởng nhưng theo tôi, chính trong sự giải trí đó, ta mới thấy được bộ mặt của những bóng ma ngự trị sâu trong tâm hồn. Những âm sắc giải trí đã dụ chúng ra từ trong góc khuất.”
Cô chìm vào im lặng suốt một lúc lâu. Sau đó cô tiếp tục.
“Tất cả chúng ta, ai cũng sống với một chiếc mặt nạ, không ít thì nhiều. Vì chẳng thể nào sống được trong thế giới tàn khốc này mà không có mặt nạ. Đằng sau lớp mặt nạ ác quỷ là bộ mặt thiên sứ, đằng sau lớp mặt nạ thiên sứ là bộ mặt ác quỷ. Không thể chỉ có một thứ. Đó chính là chúng ta. Đó chính là lễ hội hóa trang. Và Schumann có thể nhìn thấy cùng lúc nhiều bộ mặt của mọi người. Cả mặt nạ lẫn gương mặt thật. Bởi chính Schumann là người có tâm hồn bị phân liệt nặng. Bởi chính ông là người đã sống giữa lằn ranh ngột ngạt của mặt nạ và mặt thật.
Có lẽ điều cô thực sự muốn nói là “Mặt nạ xấu và gương mặt đẹp, mặt nạ đẹp và gương mặt xấu”. Khi ấy, tôi đã nghĩ như vậy. Rằng cô đang nói điều gì đó về bản thân.
“Hẳn là có người trong lúc đeo mặt nạ, mặt nạ bị dính luôn vào mặt không tháo ra được nhỉ?”
“Vâng, chắc là có những người như vậy,” cô khẽ nói rồi hơi mỉm cười. “Nhưng dù mặt nạ có bị dính vào mặt, không tháo ra được thì gương mặt thật bên trong vẫn còn đó.”
“Chỉ là không ai nhìn thấy thôi.”
Cô lắc đầu. “Có người nhìn ra được chứ. Chắc chắn là có”
“Nhưng người nhìn ra được là Robert Schumann, rốt cuộc lại chẳng thể hạnh phúc. Vì bệnh giang mai, vì chứng tâm thần phân liệt và vì lũ quỷ”
“Nhưng Schumann đã để lại thứ âm nhạc xuất sắc như thế này. Ông đã viết thứ âm nhạc tuyệt vời mà người khác không thể viết được,” cô nói. Sau đó lần lượt bẻ răng rắc từng đốt ngón tay. “Nhờ có bệnh giang mai, chứng tâm thần phân liệt và lũ quỷ. Hạnh phúc suy cho cùng chỉ mang tính tương đối thôi. Không phải sao?”
“Chắc thế,” tôi nói.
“Có lần, Vladimir Horowitz đã thu bản sonata cung Fa thứ của Schumann để phát trên radio,” cô nói. “Anh đã nghe chuyện đó bao giờ chưa?”
“Tôi nghĩ là chưa, tôi nói. Bản sonata số 3 đó của Schumann là bản mà (có lẽ) cả người nghe lẫn người biểu diễn đều phải lao lực.
“Sau khi nghe phần trình diễn của mình trên radio, Vladimir Horowitz đã ôm đầu tuyệt vọng. Bảo rằng phần trình diễn thật tệ hại.”
Cô vừa xoay chiếc ly còn phân nửa rượu vang đỏ vừa nhìn chằm chằm vào nó. Sau đó, cô nói:
“Ông ấy nói thế này, ‘Schumann thì điên, còn tôi thì phá hỏng bản nhạc. Một ý kiến xuất sắc phải không?”
“Rất tuyệt,” tôi tán thành.
Tuy thấy cô là một phụ nữ hấp dẫn theo ý nghĩa nào đó, nhưng tôi tuyệt nhiên không có ý nghĩ muốn quan hệ thể xác với cô. Với ý nghĩa này thì nhận định của vợ tôi là chính xác. Nhưng không phải vì cô xấu mà tôi không quan hệ với cô. Tôi nghĩ bản thân sự xấu xí không phải là trở ngại ngăn cản chúng tôi có quan hệ thể xác. Nói đúng hơn, việc tôi không ngủ với cô, hay là không có ham muốn ngủ với cô, có lẽ là do tôi sợ sẽ nhìn thấy thứ ở đằng sau lớp mặt nạ, chứ không phải vì mặt nạ xấu hay đẹp. Bất luận đằng sau là gương mặt của ác quỷ hay thiên sứ.
Chẳng bao lâu sau khi bước sang tháng Mười, tôi không nhận được liên lạc từ F* nữa. Tôi mua được hai đĩa CD Carnaval mới (và khá thú vị), muốn nghe cùng cô nên gọi cho cô mấy lần nhưng điện thoại của cô lúc nào cũng trạng thái tin nhắn thoại. Tôi gửi vài tin nhắn nhưng không có hồi âm. Cứ như vậy, vài tuần của mùa thu trôi qua, tháng Mười cũng kết thúc. Sang tháng Mười một, mọi người bắt đầu mặc áo khoác. Kể từ khi quen biết cô, đó là lần đầu tiên chúng tôi mất liên lạc lâu đến vậy. Có thể cô đi du lịch dài ngày đâu đó. Hoặc giả không được khỏe.
Người đầu tiên nhìn thấy cô trên tivi là vợ tôi. Lúc đó, tôi đang làm việc trong phòng riêng.
“Em cũng không rõ nữa, nhưng bạn gái của chồng xuất hiện trên bản tin đấy,” vợ tôi nói. Ngẫm thử thì vợ tôi chưa bao giờ nhắc đến tên F*. Lúc nào cũng gọi là “bạn gái của chồng”. Nhưng khi tôi ra tới trước tivi thì bản tin đó đã kết thúc, chuyển sang bản tin về con gấu trúc mới sinh.
Tôi đợi tới trưa để xem bản tin khác. Cô xuất hiện ở tin thứ tư. F* bước xuống cầu thang của một tòa nhà giống như sở cảnh sát rồi lên một chiếc xe thùng sơn đen. Những bước đi chậm rãi trên quãng đường ngắn ngủi ấy được máy quay thu trọn. Không nghi ngờ gì nữa, đây chính là F*. Dù xảy ra chuyện gì thì tôi cũng không bao giờ nhìn nhầm gương mặt cô. Hình như cô bị còng tay, hai tay đưa ra đằng trước, được trùm bằng chiếc áo khoác tối màu. Hai cánh tay cô bị hai nữ cảnh sát giữ chặt ở hai bên. Mặc dầu vậy, cô không hề cúi mặt. Cô mím chặt môi, mắt thản nhiên nhìn thẳng về phía trước. Nhưng cặp mắt đó không có bất cứ biểu cảm nào. Hệt như mắt của con cá. Ngoại trừ mái tóc hơi bù xù thì ngoại hình của cô vẫn giống như bình thường. Nói cách khác, cô vẫn giữ dung mạo như mọi khi. Tuy nhiên, gương mặt của cô trên tivi đã mất đi thứ gì đó sinh động thường thấy. Hoặc là được giấu sau lớp mặt nạ một cách có chủ ý.
Nữ phát thanh viên nói tên thật của F* và thuật lại quá trình cô bị sở cảnh sát ** bắt vì là đồng phạm của một vụ lừa đảo quy mô lớn. Theo báo cáo thì chủ mưu là chồng cô, người bị bắt cách đây ít ngày. Tivi cũng chiếu cảnh anh ta bị bắt. Đó là lần đầu tiên tôi nhìn thấy chồng cô nhưng tôi đã lặng đi khi biết anh ta sở hữu một gương mặt vô cùng điển trai. Một mỹ nam gần như siêu thực, không khác gì người mẫu chuyên nghiệp. Chưa kể còn trẻ hơn cô sáu tuổi.
Đương nhiên, chẳng có lý do gì khiến tôi phải sốc chỉ vì cô cưới một người đàn ông trẻ và đẹp trai. Có đầy cặp vợ chồng không tương xứng về ngoại hình. Xung quanh tôi cũng có vài cặp như vậy. Mặc dầu vậy, khi tưởng tượng ra cảnh F* và người đàn ông đẹp trai đến mức kinh ngạc đó sống như vợ chồng dưới cùng một mái nhà, tức căn hộ ngăn nắp ở Daikanyama, tôi không khỏi cảm thấy hoang mang tột độ. Khi nhìn thấy gương mặt của hai người đó trên bản tin, hẳn là nhiều người cũng choáng váng trước sự khác biệt khủng khiếp giữa xấu và đẹp, song cảm giác sai trái mà tôi cảm thấy lúc đó có tính riêng tư hơn, cục bộ hơn rất nhiều. Thậm chí tôi còn cảm thấy đau nhói ở khắp da. Có thứ gì đó không lành mạnh. Và có gì đó, đúng vậy, giống như cảm giác bất lực vô phương cứu chữa khi gặp phải kiểu lừa đảo đặc thù.
Hai người bị cáo buộc lừa đảo vận hành tài sản. Họ dựng nên một công ty đầu tư ma, hứa hẹn mức lãi suất quay vòng cao để kêu gọi vốn từ những người dân bình thường, trong khi thực chất hoàn toàn không vận hành tài sản gì, chỉ sử dụng chiêu thức rất thô sơ và cẩu thả là đắp tiền từ chỗ nọ sang chỗ kia. Ai cũng thấy trò chơi đi trên dây này sớm muộn gì cũng sẽ thất bại. Tôi không tài nào lý giải được vì sao một người đầu óc lanh lợi, am hiểu sâu sắc và yêu những bản nhạc dương cầm của Schumann như cô lại tiếp tay cho trò lừa đảo ngu ngốc và giản đơn như thế, để rồi đẩy mình vào con đường cùng. Phải chăng mối quan hệ với người đàn ông đó có chứa thứ năng lượng tiêu cực kéo cô vào vòng xoáy phạm tội. Phải chăng con quỷ trong cô đã ẩn mình lặng lẽ ở tâm vòng xoáy đó từ trước. Tôi chỉ có thể nghĩ như vậy.
Tổng số tiền thiệt hại là hơn 1 tỉ yên, nạn nhân phần lớn là những người già sống bằng lương hưu. Xuất hiện trên tivi là những người vẫn còn hoang mang sau khi bị cướp sạch toàn bộ số tiền quý báu để dưỡng già. Thật tội nghiệp cho họ nhưng có lẽ sẽ không thể lấy lại được tiền. Suy cho cùng thì đó là trò lừa đảo nghiệp dư thường thấy. Thế mà vẫn có rất nhiều người bị cuốn vào những lời dối trá tầm thường. Hoặc ngược lại, chính sự tầm thường đó lại thu hút người ta. Trên đời này, không bao giờ hết những kẻ lừa đảo cũng như không bao giờ hết những người sẵn sàng trở thành con mồi béo. Các bình luận viên truyền hình có cố gắng giải thích đến mấy, phê phán đến mấy thì chuyện đó vẫn rõ như ban ngày, như thủy triều lúc lên lúc xuống.
“Anh định thế nào?” Vợ tôi hỏi khi bản tin kết thúc.
“Thế nào ư, còn thế nào được nữa,” tôi dùng điều khiển để tắt tivi rồi nói.
“Nhưng cô ấy là bạn anh mà?”
“Bọn anh chỉ thỉnh thoảng gặp nhau và nói về âm nhạc thôi. Ngoài ra anh không biết gì khác.
“Anh không bị mời đầu tư à?”
Tôi im lặng lắc đầu. Dù thế nào thì cô cũng không bao giờ lôi tôi vào chuyện đó. Riêng việc này thì tôi dám chắc.
“Tuy không nói chuyện nhiều với cô ấy nhưng em nghĩ cô ấy không phải là người làm việc xấu, vợ tôi nói. “Thật chẳng hiểu ra làm sao.
Không, tôi chợt nghĩ, không hẳn là không hiểu ra làm sao đâu. F* sở hữu một sức hút đặc biệt. Và sức hút ấy – tức dung nhan xấu xí đến dị thường ấy – lại có khả năng thâm nhập vào trái tim người khác. Đó cũng là thứ đã khơi dậy trí tò mò của tôi đối với cô. Sức hút đặc biệt của cô và vẻ điển trai như người mẫu của người chồng trẻ, hai thứ đó mà kết hợp với nhau thì nhiều chuyện có thể lắm. Thứ hỗn hợp như vậy có lẽ sẽ khiến mọi người bị thu hút mà không thể cưỡng lại. Một phương trình xấu được khơi dậy, bất chấp mọi thường thức và logic. Dù tôi không biết thứ gì và phương thức nào đã khiến hai con người bất cân xứng này trở thành một cặp.
Suốt mấy ngày sau đó, tivi vẫn đưa tin về vụ việc với những hình ảnh được phát đi phát lại. Cô vẫn nhìn về phía trước với cặp mắt giống như mắt cá, người chồng kém tuổi, điển trai vẫn hướng khuôn mặt tuấn tú về phía máy quay. Hai bên khóe miệng mỏng của anh ta dường như đang khẽ nhếch lên theo phản xạ. Rất chuyên nghiệp, như các diễn viên điện ảnh hay làm. Vì thế mà trông như thể anh ta đang gửi nụ cười đến cả thế giới. Và không thể không thấy gương mặt đó giống như một chiếc mặt nạ được làm rất tốt. Nhưng dù sao thì sau khoảng một tuần, vụ việc gần như chìm vào quên lãng. Ít nhất thì các đài không còn quan tâm nữa. Tôi có theo dõi diễn biến vụ việc trên báo và tuần san nhưng các mẩu tin cứ ít dần rồi mất hẳn, giống như dòng nước thấm dần vào cát.
Và một lần nữa, F* hoàn toàn biến mất trước mặt tôi. Tôi không biết cô đang ở đâu. Cô đang bị tạm giam, đã vào tù hay đã được bảo lãnh cho về nhà. Tôi không có cách nào để biết. Tôi không thấy có bài báo nào đăng tin cô bị đưa ra tòa. Nhưng hẳn là cô đã bị xét xử, nhìn số tiền thiệt hại như thế thì thế nào cô cũng phải chịu mức án nhất định. Bởi theo những gì tôi đọc được từ báo và tạp chí, rõ ràng cô đã tích cực hậu thuẫn cho chồng phạm pháp.
Nhiều năm đã trôi qua, tôi vẫn luôn cố gắng sắp xếp đi nghe những buổi hòa nhạc có bản Carnaval mỗi khi có dịp. Và lúc nào tôi cũng dáo dác nhìn khắp các hàng ghế, hoặc ra hành lang làm ly rượu vang vào giờ giải lao để tìm kiếm hình bóng của cô. Tuy chưa lần nào nhìn thấy cô nhưng tôi luôn có dự cảm rằng cô sẽ bất chợt xuất hiện từ giữa đám đông.
Tôi vẫn tiếp tục mua đĩa Carnaval mỗi khi có đĩa mới. Vẫn ghi lại điểm đánh giá vào sổ tay. Mặc dù có thêm nhiều đĩa mới nhưng tôi vẫn đánh giá cao nhất phần trình diễn của Rubinstein. Tiếng dương cầm của Rubinstein không cố gắng lột hết mặt nạ của mọi người. Tiếng dương cầm của ông như làn gió, len lỏi nhẹ nhàng và dịu dàng giữa khe hẹp của mặt nạ và mặt thật.
Hạnh phúc suy cho cùng chỉ mang tính tương đối thôi. Không phải sao?
Còn đây là chuyện ngược về thời quá khứ xa hơn.
Hồi còn là sinh viên, tôi từng hẹn hò với một cô gái, tuy không đến mức gọi là xấu nhưng dung nhan không được nổi bật lắm. Có thể nói là tương đối không nổi bật. Tôi được bạn rủ đi hẹn hò đôi và cô là người được ghép với tôi. Cô học dưới tôi một năm, sống cùng ký túc xá nữ với bạn gái của bạn tôi. Bốn người chúng tôi đi ăn nhẹ rồi tách riêng theo từng đôi. Lúc đó là cuối mùa thu.
Tôi cùng cô đi dạo trong công viên rồi ghé vào một quán giải khát, vừa uống cà phê vừa trò chuyện. Cô có chiều cao khiêm tốn, cặp mắt bé. Nhưng tính cách có vẻ tốt. Giọng nói của cô nhỏ và có vẻ ngượng nghịu nhưng rất vang. Hẳn là dây thanh đới phải tốt lắm. Nghe nói cô tham gia câu lạc bộ tennis ở trường đại học. Bố mẹ cô thích tennis nên từ nhỏ cô đã chơi cùng họ. Thật là một gia đình lành mạnh. Chắc cũng hòa thuận nữa. Nhưng vì tôi hầu như chưa bao giờ chơi tennis nên chúng tôi không thể trò chuyện về tennis. Tôi thích nhạc jazz mà cô hầu như lại không biết về nhạc jazz. Chính vì thế mà không dễ tìm được chủ đề chung để nói. Tuy nhiên, cô lại muốn nghe về jazz nên tôi kể cho cô về Miles Davis và Art Pepper. Rằng vì sao tôi thích jazz và jazz có điểm gì hay. Cô nghe rất say sưa. Dù tôi không biết cô hiểu được đến đâu. Sau đó, tôi tiễn cô ra tận ga và chúng tôi chia tay.
Lúc chia tay, tôi được cô cho số điện thoại của ký túc xá. Cô viết số điện thoại vào phần giấy trắng ở sổ tay, cẩn thận xé ra rồi đưa cho tôi. Nhưng rốt cuộc thì tôi chưa bao giờ gọi cho cô.
Mấy ngày sau, khi gặp lại người bạn đã rủ đi hẹn hò đôi, cậu ta xin lỗi tôi. Cậu ta nói thế này: “Xin lỗi cậu vì hôm trước đã dẫn đến một em ma chê quỷ hờn nhé. Thật ra tớ định giới thiệu cho cậu một em xinh hơn cơ nhưng vào phút chót, em ấy lại có việc bận nên đành phải dẫn em kia đi thay thế. Vì lúc đó ở ký túc xá chẳng còn ai. Bạn gái tớ cũng gửi lời xin lỗi cậu. Lần tới sẽ bù cho nhé”
Nghe người bạn xin lỗi, tôi thấy mình cần phải gọi điện cho cô. Đúng là cô không xinh thật. Nhưng cũng không phải là ma chê quỷ hờn . Có một chút khác biệt. Và tôi không muốn bỏ qua sự khác biệt đó. Đây là vấn đề, biết nói thế nào nhỉ, khá là quan trọng đối với tôi. Vấn đề của cảm xúc. Có thể tôi sẽ không chọn cô làm bạn gái. Chắc là không. Nhưng vẫn có thể gặp và nói chuyện. Dù không biết sẽ nói chuyện gì nhưng chắc chắn có chuyện để nói. Dù chỉ không để cô là cô gái ma chê quỷ hờn .
Nhưng tôi không tài nào tìm được tờ giấy có ghi số điện thoại. Chắc chắn tôi đã bỏ vào túi áo khoác nhưng lại không thấy đâu. Có thể tôi đã đem vứt nhầm cùng với các tờ hóa đơn không cần đến. Chắc là vậy rồi. Tóm lại, vì lý do đó mà tôi không thể gọi điện cho cô. Nếu tôi hỏi, thế nào cậu bạn cũng cho tôi số điện thoại, nhưng nghĩ đến phản ứng sẽ có của cậu ta, tôi thấy phiền nên không muốn hỏi nữa.
Tôi đã quên bẳng sự việc này suốt một thời gian dài. Tôi hoàn toàn không nhớ gì đến. Nhưng trong lúc viết lại câu chuyện về F*, miêu tả về dung nhan của cô, đột nhiên sự việc đó lại hiện về. Rõ mồn một.
Một ngày cuối thu khi tôi hai mươi tuổi, tôi đã hẹn hò một lần duy nhất với một cô gái có dung nhan không xuất sắc , cùng cô đi dạo trong công viên dưới ánh hoàng hôn. Vừa uống cà phê, vừa giải thích tỉ mỉ cho cô rằng tiếng kèn alto saxophone của Art Pepper thi thoảng lại rít lên tuyệt diệu thế nào. Rằng đó không phải do lạc nhịp đâu mà là một biểu hiện trạng thái tâm lý quan trọng của anh ấy (phải, khi ấy, tôi đã dùng cụm từ “biểu hiện trạng thái tâm lý”). Và sau đó, tôi đã đánh mất mãi mãi mẩu giấy ghi số điện thoại cô gái đưa tôi lúc chia tay. Chẳng cần nói thì ai cũng biết, mãi mãi là khoảng thời gian rất dài.
Đây chỉ là hai sự việc rất nhỏ đã xảy ra trong cuộc đời không có gì đáng kể của tôi. Giờ nhìn lại thấy giống như một đoạn dừng chân. Giả sử không xảy ra những việc đó thì cuộc đời của tôi có lẽ cũng không có gì khác biệt. Tuy nhiên, những ký ức đó thi thoảng lại vượt qua cả một quãng đường vừa xa vừa dài để tìm về với tôi. Và khiến trái tim tôi xáo động mạnh một cách lạ thường. Tựa như cơn gió đêm cuối thu, cuộn bay lá cây rừng, thổi rạp cánh đồng cỏ lau, xô ầm ầm cánh cửa.