3. HATCHER
Christian Hatcher đã ở đó ba năm, hai tháng và 27 ngày - nói cho chính xác là 1183 ngày. Chẳng có ai ở Los Boxes (Những Cái Hộp) biết tên thật của anh, và điều đó chẳng có gì lạ. Không một ai ở Los Boxes biết tên thật của bất cứ người nào. Bị đày vào đây là bị đày vào sự quên lãng.
Không có chuyện thoát ra khỏi Los Boxes. Nó lù lù hiện ra như một bóng ma giữa rừng già, vây quanh bởi hai trăm dặm rừng mù hơi nước, vừa chết chóc, vừa xanh tươi, một thiên đường ngọc bích mà trên chiếc áo choàng xanh che phủ nền đất lổm ngổm những rắn độc, báo và heo rừng, điểm xuyết nhiều đầm cát lún, nhiều loại dây leo mọc cực nhanh trong khu rừng nóng bức màu mỡ này mà một người có thể bị chúng quấn nghẹt thở ngay trong giấc ngủ. Chẳng có đường mòn nào ở đây cả, rừng cây ngốn gọn chúng trong vài giờ.
Dây leo già hàng thế kỷ đan chằng chịt quanh cái pháo đài đổ nát và hình như là giữ nó không bị sụp xuống. Bên trong có 212 phòng đục trong đất đá, mỗi phòng rộng chừng ba mét vuông và cao khoảng hai mét được thắp sáng bởi một ngọn đèn điện duy nhất - điện do một máy phát già cỗi chẳng đáng tin cậy tí nào cung cấp. Cửa có song sắt gần như là những ngách nhỏ trên tường, vừa đủ rộng cho một người chui qua. Kẻ thù duy nhất ở đây là thiên nhiên. Chẳng ai có thể nhớ tại sao cái pháo đài này được dựng lên, nhưng nó đà được dùng làm nhà tù chính trị từ hơn một thế kỷ nay, sống từ chính quyền nhu nhược này đến chính quyền nhu nhược khác, ở Madrango tên của nó được thì thầm trong sợ hãi.
Chẳng có sổ sách ghi tên tuổi hay ngày tháng đến. Một người tù mới đến chỉ đơn giản được chỉ định cho một hộp và con số của hộp trở thành căn cước của anh ta.
Ba năm, hai tháng và hai mươi bảy ngày trước đây, Hatcher đã trở thành số 127.
Luật lệ ở Los Boxes cực kỳ đơn giản: anh làm công việc của anh, anh không bao giờ được nói chuyện với một người tù khác. Thế thôi.
Không ai từ chối lao động cả, lao động là cách duy nhất để được ra ngoài, mà ở ngoài thì có không khí trong lành và được cử động. Những người nào cứng đầu từ chối hay chống đối thì bị giam vào hộp của họ và bị bỏ quên.
Nếu một người tù nào nói chuyện với người khác, lính canh chỉ việc cắt lưỡi anh ta.
Ở đây không có cơ hội vi phạm luật lệ đến lần thứ hai. Los Boxes thiết thực một cách tàn bạo.
Lính canh chỉ có sáu người - đã từng là tù nhân. Khi có ai rời đi hoặc bị điên, hoặc chết vì bị giun sán, thì họ được thay thế bằng tù nhân. Những lính canh là tù nhân đưa lên không tốt hơn mà cũng chẳng xấu hơn những lính canh bình thường. Và mặc dù được trang bị vũ khí, họ cũng chỉ dùng để tự vệ hoặc để săn bắn đôi khi gặp con mồi.
Vượt ngục ư? Vượt ngục là chết. Những người thử trốn trại không bao giờ bị đuổi theo cả. Lính canh cười thầm và chờ đợi. Khi những người chạy trốn nhận ra sự vô ích của việc đi trốn và quay lại, họ bị giam trở lại vào trong hộp, được nuôi ngày hai bữa, rồi chìm trong quên lãng.
Thoạt đầu Hatcher thất vọng và chán chường không thể tưởng nổi. Giống như một nhà thơ không có giấy hay một diễn giả không có tiếng nói, Hatcher không có cách gì để biểu thị cơn thịnh nộ của mình. Chỉ có một quan toà thao thức không ngủ, tàn nhẫn là lương tâm bầu bạn với anh. Không thể tránh được việc đánh giá liên miên về những hành động của mình, cơn giận của anh xoay ngược vào trong, và theo năm tháng trường hợp bắt giữ anh cùng những quan điểm chính trị đằng sau nó đã hòa lẫn với nhau trở thành sự lơ đãng bình thản.
Anh có phản bội lại một điều ủy thác không? Sự hoài nghi có cướp đi của anh khả năng phán đoán mọi ý nghĩa không? Đây có phải là cái giá anh phải trả cho tính dễ dãi, cho lòng kiêu ngạo cao độ không? Sự thẩm tra xuôi rồi ngược kéo dài vô tận. Anh. đi ngủ với những câu hỏi trên môi và thức dậy chẳng có câu trả lời, vì cho đến cả những ký ức của anh cũng rối bời thành hư ảo.
Cuốn lịch của anh là những vạch trên tường đất, đồng hồ là một cái bóng lướt ngang nền nhà. Chỉ có giấc mơ tự do giữ cho anh sống, và sau ba năm nó đã thu lại thành một tia nhỏ hy vọng, hơi đủ để khuyến khích anh vượt ngục.
Đầu tiên, Hatcher nghiêm túc xem xét việc vượt ngục. Anh đã từng sống sót sau năm tháng ở trong vùng nước độc mù hơi của Laos và Cambodia, và đã trở về để kể lại chuyện ấy. Anh đã từng dẫn hai người của phi hành đoàn ra khỏi khu rừng phía Nam Madrango khi chiếc máy bay chở vũ khí của anh rơi xuống, mặc dù một người đã chết vì bị rắn cắn ngay trước khi họ thoát.
Như vậy, hồi ức đã giúp anh khỏi phát điên - hồi ức và giấc mơ trốn thoát. Không cần hấp tấp. Anh sẽ làm dần từng bước. Anh nghiên cứu nhà ngục một cách thận trọng cho tới khi anh thuộc lòng từng chi tiết. Anh ghi nhớ từng cái hốc, từng vết nứt trên tường, nghiên cứu các con đường mòn trong rừng và lập ra các kế hoạch trốn kỹ càng,anh vẽ tất cả lên vách và trên nền để có thể ôn lại. Cửa sổ xà lim thì dễ ăn. Thời gian đã làm vỡ gạch vữa chung quanh các chấn song sắt. Một ít công sức với những que cây mà anh đã lén mang vào có thế làm nó long ra. Từ phía ngoài anh thận trọng quan sát mặt ngoài nhà tù. Nó xưa cũ và mục nát. Leo vách tường thẳng đứng lên đỉnh của thành lũy này đối với anh chỉ là một cơn gió thoảng. Anh đã học được bài học đó ở Cirillo.
Đó là một ngày anh không thể nào quên và nó cứ diễn đi diễn lại trong đầu anh.
Hatcher bám vào vách đá như thế nó là một thỏi nam châm mà anh là cục sắt trong khi gió thổi như xé quần áo và kéo giật các ngón tay rướm máu của anh. Giá có thể được thì anh đã đào được một cái lỗ trong vách đá và bò vào đấy. Anh đang sợ cứng người. Lúc đó anh mười bảy tuổi.
Nó không phải là một trái núi - không cách gì anh có thể gọi nó là một trái núi. Nó là một ngọn giáo. Một ngọn giáo thanh mảnh cao chừng ba mươi mét có đỉnh bằng phẳng và vách dựng đứng, nép vào chân dãy núi xanh, cách Boston ba giờ đường. Đó là một ngày tháng Chín ấm áp, trời trong và thời tiết đột ngột xấu đi.
Cirillo đang ở cách anh khoảng ba mét phía trên đầu, đang nhích lên từng phân như một một con nhện trên vách đá. Cirillo chẳng có hành trang dụng cụ gì cả. Không dây thừng. Không búa đẽo. Chỉ có một bình nước và một tí nhựa thông nhỏ cột ở dây lưng phía sau. Leo tự do - anh ta gọi như thế - và cách duy nhât để bắt đầu là thực hiện nó.
Trước khi bắt đầu, Cirillo đứng nhìn lên vách đá.
- Cái này có vẻ tốt, - anh ta nói, - không quá cao đối với người mới tập.
- Ông bảo tôi leo lên đấy à? Hatcher hỏi với giọng bồn chồn sợ hãi.
- Phải, hãy bắt đầu ở đâu đó.
- Tôi chẳng biết bắt đầu ở đâu cả, - anh nói.
- Đúng rồi, - Cirillo trả lời - Phải có gan một tí. Cirillo đã đặt sẵn một túi nhựa thông khác ở chân vách đá.
Rồi Cirillo sờ các ngón tav lên mặt vách đá thẳng đứng cho đến khi tìm thấy một khe nhỏ. Anh ta thọc các ngón tay vào túi nhựa thông, thổi bớt nhựa dư, và bắt đầu mò mẫm đường lên, leo bám từ bàn này đến bàn tay kia, từ bàn chân này đến bàn chân nọ. Trông anh ta giống như một con cua khổng lồ khi anh ta leo cao trên sườn đá bằng các ngón tay và ngón chân, lợi dụng các khe nứt và các mỏm đá để rút người lên. Gã con nít nhìn anh ta trong nỗi kinh hoàng.
- Ông khùng quá, - đứa nhỏ nói.
- Ừ, hừ...
- Điều gì sẽ xảy ra nếu ông không tìm được khe nứt nào nữa?
- Rơi xuống.
- Hay, hay quá! - Hatcher nói.
Cirillo vẫn tiếp tục, hai cánh tay đầy bắp thịt nổi cuồn cuộn trong khi anh ta cần mẫn tìm đường leo lên vách đá. Hatcher nhìn và bắt đầu thấy khó chịu. Anh bước đến gần vách đá và đưa tay thử sờ lên trên mặt của nó, cảm thấy các mỏm lồi, các khe nứt và các cái gờ nhỏ xíu. Cuối cùng, anh nhặt túi nhựa thông lên, cột nó vào dây lưng và bắt chước Cirillo, bắt đầu chịu đau đớn để leo lên vách.
- Đừng vội vã và đừng nhìn xuống. - Cirillo trầm tĩnh nói. - Mặt đất chả có chạy đi mất đâu.
Hatcher đã bắt đầu leo lên, các đầu ngón tay đau buốt, các đầu ngón chân đau buốt, bao tử đau buốt. Một giờ sau anh ở độ cao khoảng mười hai mét trên sườn núi, bám chặt lấy ngọn giáo như một đứa trẻ mới được tìm về, ôm chặt lấy mẹ.
Cirillo gần đến điểm cụt, một cái gờ trên sườn đá nhô ra ngoài trên đầu anh ta.
- Tôi không thể đi xa hơn nữa, - giọng của Hatcher run run, - chẳng có gì để víu vào cả.
- Phía bên trái của mày, nhỏ ạ! - Cirillo hét lại. - Xa hơn tí nữa... cao hơn vài phân... Đấy!
Các ngón tay rướm máu của Hatcher tìm thấy một cái rãnh trong đá gần đủ sâu để nhét một móng tay vào.
- Không đủ! - Anh la lên, vẫn bám chặt, mắt nhắm nghiền.
- Nó lại rất đủ cho tao, Cirillo hét, - mà ngón tay của tao thì to gấp đôi ngón của mày.
Hatcher thọc, các ngón tay vào, cào bụi đất ra khỏi cái gờ nhỏ xíu, làm thành một cái khe vừa đủ sâu để từ từ kéo người lên khoảng mười lăm phân nữa. Sự sợ hãi làm miệng anh đắng như ngậm mật.
Thời tiết bắt đầu tồi hơn. Mây bay trong ngọn gió lạnh cắt da mang theo hơi ẩm của mưa.
Gió thổi mạnh hơn, quật liên hồi vào người anh. Anh cảm thấy các ngón tay run rẩy.
- Trời trở xấu đấy, nhỏ ạ! - Cirillo hét. - Nhanh lên, cứ tiếp tục leo đi.
- Không thể...
- Cứt bò! Chưa gì đã cuống đít lên, không leo lên thì chắc chắn mày sẽ thành vũng bùn đây.
- Cứt! - Đó là tất cả những gì mà Hatcher có thể thốt lên. Mấy ngón tay của anh tuột da và chảy máu, còn mấy ngón chân thì đau chưa từng thấy. Hai cánh tay run lên vì gắng sức. Mồ hôi làm anh cay mắt và ngứa ngáy hai bên khóe miệng.
Anh đang bám lấy cuộc sống yêu quý. Những giọt mưa đầu tiên bắt đầu đập liên tục vào mặt Cirillo, và nỗi sợ hãi cũng bắt đầu gặm nhấm anh ta. Nhưng anh ta không thể để cho thằng bé biết điều đó.
Cirillo đang ở trên chỗ tảng đá nhô ra ngoài. Anh ta rướn người dùng một bàn tay lần từ từ ra đến mép đá, cố vươn người ra thật xa cho đến khi thận trọng nắm được mép đá và mò kiếm một chỗ bám cho các ngón tay. Mấy đầu ngón tay đau buốt của anh ta đã tìm thấy một rãnh nhỏ. Anh ta thọc tay vào đây, chắc chắn rằng nó sẽ giữ được cả thân người, xong rồi thả người đung đưa dưới mỏm đá. Anh ta treo người ở đây bằng cánh tay trái, nhìn xuống phía thằng bé đang bám lấy vách, nép sát người vào đấy như một mảng rêu.
Cirillo đổi tay. Treo người bằng cánh tay phải, vươn cánh tay trái về phía thằng bé:
- Nào, leo lên, gần hai mét nữa tao sẽ nắm được mày.
Hatcher nhích lên từng phân, liếc nhanh về phía Cirillo, rồi nhắm mắt lại sờ soạng tìm một chỗ bám khác. Cuối cùng đầu anh đụng vào tảng đá nhô ra ngoài. Không còn chỗ nào để bám leo lên nữa.
- Nắm lấy tay tao, nhỏ! - Cirillo nói.
Hatcher nhìn anh ta qua đôi mắt kinh hoàng, ngó sững các ngón tay đang nhúc nhích mời anh.
- Hãy tin tao, - Cirillo nói.
Thằng nhỏ chưa bao giờ tin ai trước đây cả. Nó bắt đầu nhìn xuống mặt đất.
- Đừng nhìn xuống, - Cirillo ra lệnh. Hatcher đưa tay ra rất chậm chạp, vươn về phía cánh tay vạm vỡ của tay cảnh sát. Anh cảm thấy những ngón tay sần sùi của Cirillo, cảm thấy bàn tay anh ta trượt qua lòng bàn tay anh, cảm thấy những ngón tay mạnh mẽ của anh ta nắm lấy cổ tay anh.
- Rồi! - Cirillo nói, - Buông người ra!
- Cái gì?
- Làm ngay đi, tao chẳng thể treo ở đây mãi đâu. Thằng nhỏ nhắm mắt lại, nuốt ực và buông bàn tay kia ra. Nó tức thì cũng treo lơ lửng giữa không khí, chẳng có gì ở phía dưới nó khác hơn là khoảng không. Cirillo nghiến răng và từ từ nâng cái sức nặng chết người của thằng bé lên.
- Được rồi, - Cirillo thì thầm, - hãy ôm lấy cổ tao. Hatcher vươn tay kia ra ôm lấy cái cổ vạm vỡ của Cirillo, còn anh ta co tay kéo người lên trên gờ đá.
“Thượng Đế toàn năng”, Hatcher thì thầm trong khi Cirillo trườn người lên mép gờ đá và lăn vào an toàn. Hatcher nằm úp mặt xuống, hơi thở của anh thổi bay từng luồng bụi đất nhỏ ra xa miệng. Tim anh đập mạnh đến nỗi răng anh đau buốt. Rồi đột nhiên anh bắt đầu cười lớn đầy kích động:
- Mẹ kiếp! - Anh nói. - Chúng ta còn sống! Chúng ta... mẹ kiếp!... còn sống!
Anh đã đối đầu và đã đánh lừa được Thần Chết, một kinh nghiệm mới và quyến rũ cho anh.
- Tôi đã thành công! - Thằng nhỏ nhìn về phía rừng la lớn và tiếng nó vọng lại - Tôi đã thành công...
- Hãy nhớ điều này, nhỏ ạ! - Cirillo nói, - mày không thể xuôi tay trong cuộc đời. Xuôi tay là mày chết ngắc. Mày nắm một việc, mày phải làm. Mày không được kéo cái gì lại cả, phải đẩy tất cả đi tới. Đừng để lại cho mình những thứ linh tinh gì cả.
Hatcher quay sang Cirillo sốt sắng nói: “Chúng ta hãy làm lần nữa đi!”. Cirillo mỉm cười trả lời nhẹ nhàng: “Chúng ta còn phải leo xuống”.
Đúng vậy, Hatcher nghĩ, vượt những bức tường cũ kĩ này chỉ là chuyện trẻ con. Xuyên rừng già mới là phần gay go. Rồi mùa mưa đến, bộ mặt của nhà tù trở thành một mặt sông nhầy nhụa bùn lầy bẩn thỉu. Những ngày mưa dầm trở thành những tuần mưa và rồi những tháng mưa. Mỗi ngày trôi qua việc leo vách càng trở nên khó tin hơn. Anh vẽ những bản đồ trên sàn, cố gắng ghi nhớ các phương hướng và các khoảng cách của cuộc hành trình ngược dòng sông. Và cuối cùng anh đành chấp nhận một sự thật là: nếu thiếu một trong ba vũ khí - la bàn, bản đồ và sự thông thuộc khu vực - thì việc chạy trốn chỉ là tự tử. Rồi khi mùa mưa kéo dài, đòi hỏi này mờ nhạt dần đi.
Và thế là anh tự đặt cho mình một kỷ luật hàng ngày: tập thể dục để giữ cho cơ bắp không bị teo lại; tập luyện tinh thần để phòng ngừa nổi điên, vì rằng trạng thái điên và tỉnh cứ từ từ ghép lại thành một.
Để làm chậm lại tình trạng nổi điên, anh nghĩ về những người đàn bà mà anh đã quen. Đôi khi có những cái tên thoát khỏi trí nhớ của anh và anh phải liên kết chúng với những việc xảy ra trong đời anh. Để nhớ lại anh thử dựng lại chuyện tình đầu tiên của anh hồi ở trường trung học. Tên nàng là gì nhỉ? Haley? Anh nhớ lại lần đầu tiên chạm vào tay nàng trong băng sau chiếc xe Chevy của Cirillo, anh đã mò mẫm, cảm thấy người nàng mềm nhũn ra và như nẩy lên khi anh sờ sẫm, di chuyển bàn tay lên ngực nàng, những mầm non vừa mới nhú. Anh bàng hoàng, còn nàng đầy xúc cảm. Sau lần đầu, sự sôi nổi của họ đi dần tới mức điên cuồng. Họ làm việc ấy ở mọi nơi, trong bóng tối ở bao lơn của rạp chiếu bóng duy nhất của thành phố, cuộn tròn trong chăn giữa khu rừng xanh ngát ở Massachusetts, và có một lần, vào buổi trưa đã muộn, trong phòng chứa đồ của nữ sinh ở trường trung học thường bỏ trống suốt ngày. Tiếng thiếc kêu rột rẹt của cửa phòng chứa đồ cứ vang lên một nhịp đều đặn vì họ đứng dựa vào đây mà quằn quại trong niềm sung sướng cực độ của đam mê tuổi trẻ.
Rồi anh lên đại học và nàng yêu điên cuồng một tay đô vật ở trường trung học.
Sự mất mát của thời thơ ngây ám ảnh ký ức nóng bỏng của anh. Đầu óc anh lang thang tự do ngược dòng thời gian, trở lại các ngõ hẻm ở Boston, nơi Cirillo đã tóm anh. Khi ấy Hatcher là một đứa trẻ mồ côi cứng cỏi, láu cá, sống ngoài đường, và Cirillo là một viên cớm vừa cứng rắn vừa ngay thẳng đã nắm lấy anh và thay đổi cuộc đời anh mãi mãi. Chính Cirillo đã buộc anh phải vào trung học, đã thách đố anh không những leo vách mà còn phải tỏ ra cừ nhất, và cuối cùng đã sắp xếp cuộc gặp gỡ ở Annapolis, tại đó Harry Sloan đã phát hiện ra khả năng của anh. Nỗi dày vò của Hatcher là anh không còn có thể hình dung ra cuộc sống không có sự lừa đảo ấy, không thể nhớ lại được cái giây phút chính xác lúc anh đánh đổi của cái gọi là “người chiến sĩ trong bóng tối”. Với cõi lòng tan nát, Hatcher giống như nhiều người đàn ông và đàn bà trong những điều kiện còn ít tuyệt vọng hơn, đã phải thét lên một cách vô vọng mong làm sống lại cái giây phút ấy và thay đổi số phận của mình.
Lúc đầu, căm thù là tất cả những gì Hatcher giữ trong lòng. Ngồi trong hộp lúc đêm khuya, anh hình dung ra mỗi loại cực hình có thể tưởng tượng ra được mà anh sẽ bắt Harry Sloan phải chịu. Nhưng theo thời gian, anh bắt đầu nhìn khác đi, đổi hướng sự trách móc về phía người khác. Nhưng cuối cùng bao giờ nó cũng trơ lại như cũ: Sloan đã phản bội anh, đã gây dựng cho anh và đầy anh vào chỗ dở sống dở chết này.
Cirillo đã cứu giúp Hatcher, còn Sloan đã hủy diệt anh.
Nhưng sợi dây liên quan cũng khó mà cắt đứt. Sloan đối với anh còn hơn là một người bạn. Hắn đã từng là người thầy sáng suốt và tin cậy của Hatcher, đã giới thiệu Hatcher với những tay lão luyện trong tất cả các lãnh vực có thể tưởng tượng ra được, hợp pháp và bất hợp pháp - từ bẻ khóa đến giết người, đã dạy anh làm cách nào để sống sót trong những điều kiện tồi tệ nhất. Thật là mỉa mai biết bao, chính Sloan đã chuẩn bị cho anh sống sót được ở Los Boxes.
Đúng thế, Sloan đã thực hiện những lời hứa của hắn. Bài hùng biện của hắn đã hứa hẹn nào phiêu lưu, nào tình ái lãng mạn, điểm thêm những từ như “người yêu nước”, “bổn phận” và “quê hương”.
Ừ, thì đã có nhiều thứ của cả hai loại đó thật, đã có nhiều cuộc vui chơi khoái tỉ ở Tokyo, Singapore, Manila.
Rồi Hong Kong và Bangkok.
Anh luôn luôn nghĩ đến cả hai nơi ấy cùng một lúc, nhớ lại Cohen và những buổi cuối tuần khi anh bay từ Bangkok sang Hong Kong để tránh xa trong phút chốc địa ngục của những trận đánh trên sông.
Và căn phòng đặt biệt của anh tại Peninsula ở Kowloon, chỉ để chia xẻ với Daphne.
Chúa ơi, Daphne! Ký ức mới đẹp làm sao! Nàng còn sống không? Có còn đẹp như xưa không? Daffy, anh đã gọi nàng như thế, và cái tên đó rất hợp với nàng.
Rồi còn Sam, còn Joe Cockroach (con gián), còn Ts’e K’am Men Ti, hang ổ bí mật của bọn gian tặc Tàu. Rồi còn Tollie Fong, trong băng Tam kết giết người, đã nguyền lấy máu Hatcher vì anh đã giết cha hắn, cậu hắn và bốn tay gangster tin cẩn nhất của hắn.
Anh chẳng bao giờ có thề quay trở lại Hong Kong và Bangkok nữa. Quá nhiều hồn ma. Quá nhiều kẻ thù. Quá nhiều những cuộc chia tay thầm lặng.
Vì thế mà Hatcher luôn luôn nghĩ đến Sloan với những cảm giác lẫn lộn. Mối quan hệ giữa thầy và trò cũng sâu xa như giữa cha và con. Trong nỗi thống khổ, cảm giác của anh về Sloan cũng dao động luôn luôn. Ngày hôm nay anh nghĩ về Sloan với tình cảm nồng nàn, ngày mai anh lại rủa cho hắn xuống địa ngục.
Điều cuối cùng anh nhận ra là không thể xác định chính xác thời điểm mà ý nghĩa của đời anh thay đổi. Lúc anh gặp Sloan anh còn trẻ và dễ có ấn tượng, dễ bị thu hút bởi nụ cười ở khắp nơi của Sloan, dễ bị quyến rũ bởi những lời hứa hẹn dịu dàng của hắn. Điều mà Sloan làm hay nhất ấy là xoay như chong chóng trước mặt anh các hình ảnh của những thế giới huyền bí bằng tài hùng biện của hắn. Cuối cùng thì Hatcher đành phải gánh trách nhiệm về tình trạng của anh hiện nay, về nơi anh đang ở - một căn nhà do chính anh tạo nên.
Đời sống ở Los Boxes trở thành sự tự hành xác để hối lỗi của Hatcher.
Rồi một đêm anh nghe có tiếng cào tường. Mới đầu anh tưởng là một con gián hay một con chuột cống, nhưng sau đó một chiếc que nhỏ thọc xuyên qua tường, xoay xoay một lát, rồi rút về.
“Xịt! Xịt!”
Hatcher nghiêng người, áp tai sát vào cái lỗ nhỏ xíu,
Anh nghe thấy một giọng nói, một giọng nói già nua, khàn khàn vì đã lâu không dùng đến:
- Một hai mươi bảy?