← Quay lại trang sách

5. MADRANGO

Chiếc tàu mỗi tháng đến một lần, mang theo đồ tiếp tế cũng như rượu whiskey và gái điếm cho bọn lính gác. Còi tàu buồn bã rúc lên ba hồi báo hiệu khi nó đến gần khúc quanh cuối cùng của con sông. Chẳng có ai lao động bên ngoài khi con tàu đến. Khi con tàu vang lên, các tù nhân nhanh chóng bị lùa trở lại các hầm giam. Họ không được phép nhìn thấy những người đàn bà, mặc dù những người ở mạn nam của nơi trú ngụ giết người này đôi khi cũng thoáng nhìn thấy họ qua các khe nứt nhỏ, hẹp, trên tường. Chiếc tàu luôn luôn ở lại ba hôm rồi đi. Một số tù nhân bao giờ cũng nổi khùng vào dịp này. Như những con chó động đực, họ nằm dài trong phòng giam và hú lên trong đau khổ. Hatcher ở mạn phía bắc của công sự này. Anh chưa hề nhìn thấy một con mái nào kể từ khi anh đến đây. Nhưng khi gió thổi đúng chiều, anh có thể ngửi thấy mùi nước hoa của họ, mùi giới tính của họ, kể cả mùi cay nồng của rượu, thế là anh cầu cứu họ nhà Nấm và ở trong tình trạng điên khùng suốt ba ngày.

Lần này con tàu đến vào lúc sắp chạng vạng tối. Các tù nhân đã vào hết và bữa ăn chiều đang được phân phát thì còi tàu rền rĩ phía bên sông. Hatcher bối rối. Anh kiểm tra ngay tức khắc tấm lịch thô sơ được vạch trên tường. Chuyến tàu đến thăm kỳ vừa rồi mới cách đấy có mười sáu ngày. Có thể bọn chúng sẽ đến mỗi tuần một lần, cho bọn lính gác thêm một suất gái và rượu. Có thể bọn chúng đang mang tới một nhân vật đặc biệt, một vị tai to mặt lớn nào đấy.

Hatcher đang ăn cơm, anh kéo trượt một hòn đá ra khỏi tường và thò tay vào đấy, móc ra một cái túi nhỏ đựng những cái nấm kỳ diệu. Anh bóp vụn một cái và rắc lên những gì còn lại của bữa ăn. Anh nhai thật kỹ các miếng dai nhách, biết rằng nó càng dễ tiêu bao nhiêu, thì anh càng có phản ứng nhanh hơn tốt hơn bấy nhiêu.

Khi ăn xong, anh đốt một điếu xì gà làm bằng lá cọ bóp nát nhét vào cành tre. Khói thuốc cay gắt làm nóng rát mũi và phổi anh. Anh nằm ngửa và chờ họ nhà Nấm. Bên ngoài tiếng sấm rền vang trên trời và anh có thể nghe thấy tiếng những giọt mưa đầu tiên lộp độp trên tường phía ngoài. Một cơn gió mát luồn qua cái khe nhỏ trên tường làm anh dễ chịu. Màu nâu đất của phòng giam bắt đầu thay đổi, sáng lên hơn, anh nhắm mắt lại thì các hình dạng hiện lên và nhảy múa sau mí mắt anh. Anh bắt đầu cười khúc khích một mình và bao tử anh bắt đầu cồn cào ở sâu bên trong.

Họ đang đến. Anh gần như nghe thấy tiếng họ lẻn vào hành lang chật hẹp dẫn về phía xà lim của anh, và anh tự hỏi không biết ai trong họ nhà Nấm sẽ đến thăm anh đêm nay. Điều ấy thật cũng chẳng quan trọng, vì anh yêu tất cả bọn họ một cách nồng nàn. Họ chưa bao giờ có vẻ thật hơn. Anh có thể nghe thấy họ ở phía ngoài xà lim, nghe tiếng cửa rền rĩ mở ra. Một người trong bọn họ đá vào bàn chân anh. Anh cười ré lên với sự chờ đón trước.

- Một hai mươi bảy! - Một cái giọng lè nhè trong cổ bằng tiếng Tây Ban Nha gọi.

Họ nhà Nấm trước đây chưa bao giờ nói với anh. Anh mở một mắt và thận trọng, chăm chú nhìn ra ngoài. Một tên lính canh đang đứng trước mặt anh.

- “Đến đây!” Tên lính nói. Hắn cúi xuống, kéo Hatcher đứng lên, và dẫn anh ra ngoài cửa. Một ngọn gió lạnh, ẩm nước mưa, thổi xuống cầu thang và than vãn lùa qua các hành lang. Hatcher không dại gì mà hỏi tên lính canh đưa anh đi đâu. Nhưng các tai nấm anh đã ăn đang tác động vào anh. Anh cố đi thẳng, nhưng cứ lảo đảo phải dựa vào tường trong lúc họ leo lên cầu thang. Họ dừng lại ở bậc trên cùng, tên lính canh đập cửa. Cửa vụt mở. Ánh sáng chói lòa mắt anh, anh lảo đảo lùi lại, mắt nhấp nháy. Anh hé mắt nhìn chòng chọc về phía đầu trên cái cầu thang thứ hai. Trong ánh sáng trắng dịu như hào quang là thân hình đồ sộ của một người đàn ông, một con voi trong bộ đồ trắng ôm một cái cặp trước ngực bằng cả hai tay. Ánh sáng trắng đổi sang đổ, rồi vàng, rồi vỡ ra thành từng mảnh vụn như những mảnh kính màu bị bể.

- Ông Hatcher, - người xuất hiện trong bộ đồ trắng nói. - Tôi đến để đưa ông về nhà.

Hatcher ngã dựa vào tường và đứng tựa vào đây một lát, rồi sụp xuống ôm hai gối và bắt đầu hú lên như một con sói.

- Hắn chả nói mẹ gì cả từ khi mình lôi hắn ra khỏi cái hốc địa ngục hôi thối như chuồng lợn ấy, - Pratt nói với tên thuyền trưởng. - Hắn chỉ nằm dài ra đó nhìn chòng chọc lên trần.

Tên thuyền trưởng đang đứng phía trên gã trong phòng lái được lợp bằng cây, nhìn chăm chú xuyên qua màn mưa tầm tã, nhún vai:

- Hầy, thế ông muốn như thế nào, thưa ông? Hắn chưa hề nói chuyện với một người nào trong ba năm nay. Ông muốn hắn nhảy lên nhảy xuống, hát bài “Star-Sprinkled Banana” (Quả chuối rắc sao) hay là gì nữa?

Pratt lắc đầu và rót một ly rượu mạnh khác. Gã cởi áo ngoài ra và kéo cà vạt xuống. Mưa luồn qua các khe nứt trên vách ngăn, nhỏ giọt xuống bàn. Mồ hôi làm cho chiếc áo sơ mi và quần trắng của gã thành màu cháo lòng. Một người đàn ông điên nhìn chòng chọc lên trần, một tên thủy thủ mù chữ với hàm răng rỉ xanh và hơi thở thối như chó rừng, và một cơn mưa giông có thể đánh đắm con tàu bẩn thỉu này trước khi họ ra đến sông cái. Thế là đủ với gã rồi. Khi trở về gã sẽ điện cho ông bố và vù khỏi Madrango. Mặc xác công việc, mặc xác Bộ Ngoại Giao, mặc xác Hatcher và nhà tù Los Boxes cùng cái thuyền giống như cái chậu mục nát và rò rỉ này. Gã ực cạn ly rượu và rót ly khác.

- Có phải Sloan cử anh đến không?

Một giọng nói đau khổ làu bàu sau lưng Pratt. Gã nhổm dậy và xoay người trên ghế. Hatcher ở trần đang đứng ở cửa ra vào dẫn xuống phía dưới, như một bóng ma sông, đôi mắt xanh nhấp nháy điên loạn trong hai quầng thâm trũng sâu, đôi cánh tay gầy guộc như hai cán chổi, mái tóc rối bời, bẩn thỉu xoã xuống bờ vai, bộ râu rậm rũ xuống che phần lớn bộ ngực gầy trơ xương của anh. Đất bùn hằn rõ ở các nếp nhăn trên trán anh.

Pratt nhìn sững anh chẳng thốt nên lời.

- Có phải Sloan cử anh đến không? - Hatcher lại làu bàu bằng cái giọng thì thào khàn khàn sâu thẳm.

- Như tôi đ...đ... đã bảo anh, ơ...tôi đến từ tòa đại sứ ở Madrango, - Pratt ngập ngừng nói. - Ông đại sứ đã sắp xếp ch... ch... cho...

- Có phải Sloan cử anh đến không?

- Vâng... tôi nghĩ rằng Sloan cũng tham gia vào việc sắp xếp này, ông ấy...

- Tắm được chứ? - Giọng Hatcher mệt nhọc hỏi.

- Tắm được chứ? - Pratt lặp lại, và nhướng chân mày lên cùng với câu hỏi.

- Bơm nước “pị” gẫy, thưa ông, - tên thuyền trưởng trả lời.

- Bơm nước “pị” gẫy. Bơm nước “pị” gẫy, - Pratt nhại lại.

Hatcher quay lưng đi lên boong tàu. Tên thuyền trưởng gọi với sau lưng anh.

- Gió “tang” thổi mạnh lắm, thưa ông.

- Ôi! Lạy Chúa! - Pratt làu bàu và đi theo Hatcher. Gã đứng ở cửa lên boong tàu, nhìn người cựu tù nhân bò ra boong rồi nằm ngửa mồm há ra trong khi mưa đổ xuống người anh.

- Hắn bảo phải coi chừng gió, - Pratt la lên. - Chúng tôi không muốn bây giờ lại mất anh, sau khi đã làm mọi chuyện, phải thế không?

Hatcher không trả lời. Dang tay như cánh đại bàng trên boong, anh ngủ lịm đi thật say trong khi mưa gió vẫn thi nhau quất vào tấm thân gầy gò của anh. Cuối cùng, tên thuyền trưởng buộc chặt tay lái và bò đến gần anh, quấn một sợi dây quanh người anh và cột một đầu vào lan can tàu.

- Ông canh chừng anh ta nhé, - y nói với Pratt rồi trở lại phòng lái.

Ngày hôm sau, trời trong sáng, gió Đông Bắc hây hây thổi.

- Dừng tàu lại. - Giọng Hatcher lạc đi gọi viên thuyền trưởng. Y vội kéo cần ga về phía sau cho con tàu chạy lui. Phía đuôi tàu, máy tàu quạt nước sôi sùng sục.

- Cái quỷ quái gì xảy ra thế? - Pratt hỏi.

Hatcher không trả lời. Anh cởi phăng chiếc quần dài rách tơi tả và nhảy xuống sông.

- Ôi! Lạy Chúa! Ở đây nhiều cá sấu lắm. - Pratt nói lắp bắp. Gã bắc tay làm loa và hét gọi Hatcher khi anh nổi lên. - Sông này có cá sấu đấy, ông Hatcher!

Hatcher xoay lại nằm ngửa và thả nổi. Pratt ngồi trên chiếc ghế nhồi bông đã hỏng, hai tay ôm lấy đầu, lẩm bẩm một mình.

- Chết tôi rồi, Hatcher đâu?

- Ôi, tôi hết sức buồn, thưa ngài, hẳn một con cá sấu đã ăn thịt hắn rồi.

Mười phút sau, Hatcher nhanh nhẹn leo lên tàu. Pratt đưa cho anh một chiếc khăn bông có nhãn hiệu Mỹ thêu ở một góc. Hatcher nhìn nó chòng chọc một lát rồi bắt đầu lau người. Pratt nói:

- Tôi có mang một số quần áo mới cho ông, để ở dưới khoang, có thể vừa hoặc quá rộng đấy.

Hatcher đã lau người xong, vắt chiếc khăn lên vai, đứng trần truồng trước mặt Pratt chờ đợi.

- Ô vâng! - Pratt chạy tót đi, nhanh hết mức mà một người đàn ông quá mập có thể chạy được, mồm nói:

- Phải, tôi đi lấy mấy bộ quần áo đó ngay. Cùng có, ơ... ơ, một con dao cạo, một bàn chải đánh răng và kem. Có, ơ… ơ..., cả nước hoa nữa...

Quần dài thì cỡ lớn hơn hai số và tay áo sơ mi cộc thì dài lòng thòng ngang các lóng tay anh, nhưng sạch sẽ, thơm tho. Hatcher ngắm nhìn mình trong gương. Đã hơn ba năm chẳng nhìn thấy mặt mình. Bây giờ đã cạo râu sạch sẽ, mái tóc được cắt bằng kéo đến ngang vai và chải chuốt. Hai má và mắt anh lõm sâu, anh đã sụt khoảng mười lăm ký nhưng thế là còn may. Anh có thể đã chết. Anh có thể đang cùng chia nhau các tai nấm với 126 ở thiên đàng. Anh xắn tay áo lên cao hơn khuỷu tay và quay trở lại boong tàu. Pratt nói:

- Vâng, tôi phải nói trông ông có vẻ hạng nhất thưa ông, đúng là hạng nhất.

Hatcher nghiến răng nói:

- Thuốc lá?

Pratt vội vàng mò trong cặp của gã.

- Vâng, thưa ngài, vâng, thưa ngài, có ngay đây. - Gã đưa cho Hatcher một gói Dunhill. - Tôi nghĩ ngài thích loại này.

- Thế à? - Hatcher nói, nhìn gói thuốc chằm chằm. Anh xoay gói thuốc qua lại hai ba lần mới tìm ra cách bóc vỏ bọc ngoài. Anh đốt một điếu, kéo một hơi sâu, và ho gần chết. Gương mặt anh chuyển sang đỏ tía và anh há hốc mồm ra mà thở.

- Đưa hai tay lên đầu! - Pratt hét lên và cầm hai tay Hatcher nâng lên.

Cuối cùng Hatcher ngừng ho, ngồi xuống be tàu. Anh nhìn điếu thuốc một lát rồi ném qua mạn tàu.

- Chúng ta có một số trái cây tươi, phó mát hảo hạng, rượu vang, ơ... gà xắt lát và thịt bò nướng. Cũng có bia, nước ngọt Coca-Cola trong tủ lạnh. - Pratt nói, cười lo lắng và thêm. - Đây đúng là chiếc du thuyền cũ kỹ.

Hatcher nhìn Pratt chòng chọc như dò hỏi và cứ nhìn như thế cho đến khi gã mập bắt đầu cảm thấy khó chịu, rồi anh bảo:

- Coca-Cola, Hừ! Sloan đã làm thế nào đế xếp đặt việc ân xá tôi?

- Hờ, cũng không đúng là ân xá.

- Ông muốn nói gì? - Anh thì thầm, giọng hăm dọa.

- Ông thấy đấy, thưa ông Hatcher, Madrango hiện tại đang trải qua một cơn hỗn loạn khủng khiếp. Đã có một cuộc đảo chính quân sự và vị tổng thống mới lên là Garazzo.

- Garazzo! Hắn đã đày tôi lên đó.

- Ô, đúng đấy. Ông biết chứ, có một cuộc bầu cử dân chủ ngay sau khi ông đi khỏi, Garazzo và phe cánh của ông ấy bị Venzio lật đổ. Nhưng, cách đây khoảng bốn tuần, Garazzo thắng lại được và... ông ấy lại lên làm tổng thống. Dù sao, ông ấy đã xếp đặt cho ông thoát.

- Thoát? - Đôi mắt của Hatcher lấp lánh trông nguy hiểm.

- Đó thực sự chỉ là hình thức, - Pratt vội vàng nói.

- Họ sẽ không có ý định giam giữ ông nữa hoặc dùng bất cứ một kiểu gì giống như thế. Tôi muốn nói, cũng không một ai sẽ biết việc ông đã ra khỏi đây, ông hiểu tôi muốn nói gì chứ?

- Sloan đâu?

- Ông sẽ gặp ông ấy khi đến Washington.

- Washington?

- Đúng, chúng tôi sẽ nhanh chóng đưa ông ra khỏi xứ này ngay, vâng... ông ấy đang chờ gặp ông.

Hatcher lại nhìn hắn chòng chọc. Anh nghi ngờ có một âm mưu gì qua gương mặt của gã, qua các lớp mỡ dường như che dấu các điểm yếu của gã. Một bộ mặt ngắn ngủn nhô ra từ một cái đầu to, mập. Anh làu bàu với Pratt:

- Làm thế nào anh lại dính vào chuyện này?

- Tôi là một nhà ngoại giao chuyên nghiệp, - Pratt nói, cố ý nhấn mạnh với vẻ tự hào về điều ấy.

- Có nhiều điều không bao giờ thay đổi, - Hatcher thì thầm.

Họ có thể nhìn thấy những cột khói đen bốc lên từ thành phố khi họ còn cách xa đây khoảng hai mươi dặm.

- Nó đang cháy! - Viên thuyền trưởng nói, tay chỉ về phía thượng nguồn.

- Nó đang cháy! - Pratt nhại lại, lắc lắc đầu. Gã đứng dậy, nhìn qua mũi tàu về phía thủ đô, rên lên:

- Lạy Chúa tôi, chắc có cuộc phản công vào thành phố, khu vực ấy đang bốc cháy.

- Chúng ta làm gì bây giờ? - Hatcher lo lắng càu nhàu.

- Tôi sẽ tìm cách liên lạc vô tuyến với tòa đại sứ. - Pratt nói và biến xuống phía dưới. Hatcher tiếp tục nhìn các tháp khói đen khi họ đến gần thành phố hơn. Anh có thể nghe thấy những tiếng nổ và tiếng súng. Khi Pratt quay trở lại, gã mỉm cười:

- Họ sẽ phái một chiếc trực thăng ra cầu tàu. Nơi đó hiện đang ở trong tay phe ta. - Gã nói vẻ kích động. - Họ sẽ bốc chúng ta bay thẳng vào tòa đại sứ.

- Tại sao anh làm tất cả các việc này cho tôi? - Hatcher hỏi.

- Tôi, tôi thực sự không biết, thưa ngài. Họ chẳng nói cho tôi nghe điều ấy. Họ chỉ bảo xuống đây cùng với các giấy tờ, đút lót cho tên cai ngục và mang ông về. Nếu như ông muốn biết sự thật thì, thưa ông Hatcher, họ chả bao giờ nói với tôi điều gì cả.

- Tôi thả các ông xuống và biến nhanh nhé. - Viên thuyền trưởng gọi to về phía họ.

- Ờ, được. Anh biến nhanh đi, - Pratt đáp.

Khi đến gần cầu tàu họ nhìn thấy chiếc trực thăng, kiểu chở được bốn hành khách, đang bay xẹt qua các nhà kho dọc theo bờ sông rồi treo lơ lửng phía trên bờ, làm xáo động mặt nước sông. Pratt đứng lên giơ tay vẫy. Viên thuyền trưởng đưa con tàu cặp nhẹ nhàng vào cầu tàu rồi hét to:

- Bây giờ các ông lên đi, chúc may mắn, thưa các ông.

Pratt lẹ làng leo lên lan can tàu, và khi gã vừa leo qua thì một quả pháo nổ tung cách đó khoảng năm mươi thước, làm vỡ toang một góc của toà nhà cao. Một người đàn bà trần truồng chạy xuống đường, đầu tóc đang bốc cháy. Một chiếc xe jeep nằm bẹp trên các bánh xe xẹp lép, đang cháy dữ dội, cái xác cháy thành than của người tài xế vẫn còn ngồi sau tay lái. Pratt ngừng lại, gương mặt hiện lên vẻ hãi hùng.

- Nào đi! - Hatcher hét lên và đẩy gã lên bến tàu. Con tàu rú lên lùi ra giữa sông.

- Chúa ơi! Hãy nhìn xem kìa, thật là khủng khiếp, khủng khiếp... - Pratt kêu rú lên trong khi trực thăng bay lướt qua và đậu xuống cách đó khoảng sáu mét. Hatcher chạy đến mở cửa máy bay. Một tay lính thủy trẻ, đang sợ chết khiếp giúp anh leo vội lên thang. Đằng sau anh, Pratt lạch bạch chạy qua bến tàu đến trực thăng. Viên đại úy, phi công nhìn gã kinh hoàng:

- Chúa ơi, chúng ta không thể bốc thêm hắn, quá tải rồi, - viên phi công la lên. - Đóng cửa lại, hạ sĩ!

- Vâng! - Viên hạ sĩ đáp và sập cửa lại.

Bị bỏ rơi trên bến tàu, Pratt gào lên khi gã thấy cửa máy bay sập lại. “Không! Không! Các anh không thể bỏ tôi ở đây”. Gã gào lên, đập vào bên hông trực thăng. Chiếc trực thăng rùng mình và nâng bổng lên trong khi Pratt vẫn liên tục đấm ầm ầm vào bên hông. Rồi gió bắt đầu quất ào ào vào người gã, bụi đất bắn rào rào, làm xót hai mắt gã, và trực thăng cất bổng lên. Pratt quì gục xuống gối, hai tay ôm lấy đầu, bắt đầu nức nở không kìm được.

Hatcher và tay lính thủy trẻ chăm chú nhìn xuống gã đàn ông to lớn cho tới khi gã nhỏ dần, nhỏ dần... Một tiếng nổ khác vang lên đằng sau gã và một phần bên tàu vỡ sụp, nhưng Pratt không nhúc nhích. Gã quì như một vị Phật, co người lại vì sợ, không sao nhúc nhích được.

- “Thật là sự điên khùng!”, tay lính thủy trẻ la lên và Hatcher bắt đầu cười lại lần đầu tiên. Anh đã bầu bạn với sự điên khùng quá lâu đến nỗi hình như nó hoàn toàn bình thường đối với anh.