← Quay lại trang sách

6. QUA VÙNG MALAYSIA

Từ trên cao họ có thể nhìn thấy xe Mercedes màu xanh đậm đang nhích từ từ qua các đường phố đông đúc của Bangkok. Nó có vẻ như chẳng định đến một nơi nào cả. Nó chạy như bò, giảm tốc độ khi qua các hẻm, chạy ngoằn ngoèo qua các đường phố, rồi cuối cùng dừng lại.

Hẻm chật hẹp và đầy người. Mặc dù ngày còn sớm, nhạc đã vang lên ầm ĩ từ một hộp đêm gần đây cộng thêm với tiếng người nói ồn ào, tiếng kèn xe và tiếng động hỗn tạp của một thành phố to lớn, đông đúc.

Một gã Tàu to lớn bước ra khỏi chiếc Mercedes đi vào hẻm này. Khuôn mặt hắn hồng hào, có một vết sẹo nhỏ chạy dài suốt một bên mặt. Hắn lách qua dòng người đang trôi đều đều tới trước một cô gái bé nhỏ, gầy gò, trông đáng thương quấn trên đầu một dải khăn lụa. Một em bé sơ sinh đang rúc vào lòng nàng. Nàng đi chân không, bùn đất đóng đầy hai bàn chân chai sạn, gò má hõm sâu và đôi mắt trũng đủ để nói lên tình cảnh nàng. Đó là một cô gái trẻ, một trong hàng ngàn gái điếm, là dân Lào từ miền Đông Bắc Thái Lan tới. Bố nàng đã bán nàng đi làm điếm từ lúc tuổi mười hai. Nàng đã sinh một đứa con và bây giờ không kiếm sống được, đang dần dần chết đói. Có hàng trăm người như nàng. Có hàng bao nhiêu trẻ sơ sinh không muốn ra chào đời mỗi tuần.

Người tài xế chiếc xe Mercedes, gầy gò, thấp bé mặc bộ đồ làm việc màu xám, đứng tựa vào xe hút thuốc, nhìn gã cùng đi đang nói chuyện với cô gái bé nhỏ bồng đứa con. Gã to lớn với khuôn mặt sẹo cúi xuống nói nhẹ nhàng với cô gái, hai bàn tay gã chắp lại đằng trước. Cô gái lắc đầu. Gã đàn ông rút ra một xấp giấy bạc dày, cầm sát vào người và đếm vài tờ đưa cho cô gái, nhưng cô vẫn lắc đầu. Hắn đếm thêm tiền, gập các tờ giấy bạc lại kẹp ở hai ngón tay giữa và chìa thẳng về phía cô gái. Nàng ngập ngừng nhưng vẫn lắc đầu. Gã đàn ông mặt sẹo thọc tay vào túi áo, lấy ra một gói bột trắng. Hắn kẹp nó vào xấp giấy bạc rồi đặt vào tay nàng. Người tài xế thấy gã to lớn kia bế lấy đứa bé và quay trở lại xe. Y giữ cửa xe đã mở sẵn chờ hắn.

Mũi kim lấp lánh cắm phập vào vết sơn mài xanh thẫm. Khách hàng là một người Tàu lực lưỡng đang độ trung niên, nhiều nhất là ba mươi tuổi. Khi mũi kim xuyên vào da cánh tay, hắn chẳng hề nhăn mặt cũng không chớp mắt. Hắn cởi trần, ngồi trên một cái ghế kiểu cổ chạm trổ tinh vi, nhìn thẳng về phía trước không mảy may xúc động. Tay hắn giơ ra, cánh tay ngửa lên. Một người Tàu già quì trên chiếc gối màu hồng ngọc cúi xuống cánh tay của gã trẻ, xâm cái công trình nghệ thuật của ông ta lên cánh tay gã. Ông già không dùng loại kim xâm chạy điện hiện đại mà xâm theo lối cũ lên mặt da các hình ảnh bằng những động tác nhanh nhẹn khéo léo. Ông già làm nhanh nhưng rất cẩn thận, xâm lên làn da hình một lưỡi dao mỏng màu xanh lá cây có con rắn màu đỏ tía quấn quanh, cái đầu màu vàng của nó ló ra gần chuôi dao.

Khi ông già làm xong, ông ngả người ra sau ngắm nghía đánh giá công trình của mình, vẻ hài lòng, ông ta gật đầu với khách và gã trẻ cúi xuống nhìn hình lưỡi dao. Đó là một tác phẩm nghệ thuật rất đẹp, toát ra một vẻ đe dọa. Nụ cười thoáng hiện trên vẻ mặt khó hiểu của gã trẻ. Hắn đứng dậy đi ngang qua phòng đến trước tấm gương to có khung thếp vàng, đứng lạnh lùng ngắm hình ảnh mình. Một thoáng tự hào hiện lên trên nét mặt hắn. Hắn quay trở lại người nghệ nhân già, nói: “Tuyệt đẹp” và cúi chào người thợ xâm, ông già chào lại. Hắn khoác lên người một chiếc áo lễ màu đỏ chói thêu hình nổi màu vàng và đi sang phòng bên cạnh. Phòng này được trang hoàng lộng lẫy bằng những đồ cổ Trung Quốc, những đồ mỹ nghệ và các tấm thảm phương Đông. Phía bên kia phòng qua các cửa sổ rộng có thể nhìn thấy thành phố Macao nằm ngay dưới chân tòa nhà này.

Một ông già ở độ tuổi bảy mươi đang đứng cạnh bồn cá biển, bóp vụn bánh thả vào bồn. Ông ngừng lại nhìn gã trẻ tuổi vừa bước vào phòng, phủi tay, ngắm nghía các hình xâm một lúc lâu rồi gật đầu công nhận: “Lại một tác phẩm nghệ thuật nữa.”

Ông già cúi đầu cảm ơn người thợ xâm già, người thợ lễ phép chào lại và ra đi. Ông già là thủ lĩnh của một dòng họ Tàu đầy quyền lực nổi tiếng với cái tên White Palms (Bạch Thủ), nắm quyền kiểm soát các nhóm tam kết Chiu Chao, mười bốn toán vô lại mạnh nhất của giới giang hồ. Một cuộc đụng độ đã làm ông ta què chân và chấn động thần kinh nên ông ta quyết định thoái vị. Gã trẻ tuổi tên là Tollie Fong, đêm nay sẽ trở thành San Vương mới, người chúa đảng, mà các trưởng nhóm tam kết đều biết.

- Đúng là một ngày vui, - ông già vừa nói, vừa cho cá ăn. - Bố của anh sẽ rất tự hào về anh, tôi cũng vậy. Tôi chẳng nghĩ ra một người nào xứng đáng hơn anh để làm San Vương của nhóm White Palm Triad (Tam Bạch Thủ).

Họ đang đứng bên cạnh một bể cá nước mặn to, chứa khoảng bốn trăm lít. Ông già bóp vụn tôm khô trong tay, rắc vào bồn cá, nói:

- Bây giờ thì tôi đã có thể dùng thời giờ để chơi với cá.

Những con cá rất đẹp, sặc sỡ màu cầu vồng, lượn ra lượn vào giữa chùm san hô ở dưới đáy. Trội nhất là một con cá thần tiên màu xanh da trời, to cỡ cái bánh một dollar, có cái mõm dài thượt. Ông già tiếp:

- Trong năm mươi năm qua chúng ta đã là những người đáng gờm nhất trong các nhóm tam kết. Bây giờ điều quan trọng hơn bao giờ hết là không được tranh chấp.

Khi các mẩu tôm chìm xuống, những con cá khác tụ lại chung quanh. Con cá thần tiên xanh tấn công chúng, xông vào làm chúng tản ra rồi phóng qua lộn lại trong bồn. Con cá thần tiên dọn sạch vùng đó rồi uể oải bơi vòng quanh bồn đớp các mẩu tôm còn nổi lơ lửng.

- Đừng bao giờ để lộ sự yếu đuối cho bất cứ ai thấy. - Ông vừa nói vừa rắc một ít thức ăn cho cá vào lòng bàn tay rồi thọc tay vào bồn. Con cá thần tiên thận trọng bơi vòng quanh một lát rồi phóng tới, giật một mẩu thức ăn và lùi lại. Qua làn nước, Tollie Fong nhìn thấy cái hình xâm trên cánh tay vị San Vương già. Nó giống y hệt cái của hắn, cũng ở chỗ ấy và dĩ nhiên, bởi cùng một nghệ nhân tạo ra, chỉ có khác là khi đó cả hai người còn rất trẻ.

- Không lộ cho gia đình, cho vợ, cho anh em, kể cả tôi nữa, nhưng nhất là không bao giờ lộ cho kẻ thù thấy. Thôi, thế là đủ rồi. Trong khi lão nghệ nhân đang hoàn thành cái tác phẩm kỳ diệu của lão trên cánh tay thì người của anh ở Bangkok gọi điện về. Tôi đã mạn phép nhận điện vì lúc ấy không thể để anh bị quấy rầy.

Fong hăm hở nói:

- À, tốt. Hắn nói gì thế?

- Hắn nói khu vườn đã được trồng. Mùa gặt hái sẽ làm vào đêm nay.

Hai mươi dặm về phía Đông Kangar gần Padang Besar, nơi con đường xe lửa chạy xuyên từ Thái Lan sang Malaysia, bố già Kilhanney thận trọng lái chiếc xe tải nhỏ theo con đường lậu sụp lở. Ông chỉ còn cách trạm gác biên giới khoảng một dặm thì mưa thình lình đổ xuống - thời tiết ở miền Nam Thái Lan như vậy đấy. Các tia chớp ngoằn nghèo trên nền trời, và các tàu lá cọ bị gió xô đẩy quẹt rào rào lên kính chắn gió. Kilhanney cảm thấy buồn cho những người đàn bà ngồi phía sau. Chẳng có vải bố để phủ sàn, mười tám người lao công nép sát vào nhau để chống lại cơn giông. Kilhanney chẳng biết chắc chắn việc gì đang xảy ra và ông cũng không muốn biết. Nhiệm vụ của ông là đến gặp một chiếc máy bay tư nhân ở Songkhla rồi đón mười tám người lao công chở đến biên giới Thái Lan - Malaysia.

Con đường bố già đi vòng xuống để tránh trạm gác rồi lại vòng lên xuyên qua ba mươi dặm rừng già để trở lại đường cái, tiếp tục chạy lên phía Bắc bán đảo Thái Lan về phía Bangkok. Trạm biên phòng chẳng khác mấy với một trạm hải quan chỉ có hai người gác.

Trước lúc rạng đông, mười tám người đàn bà, trong đó có mười hai người địu con trên lưng, sẽ vượt qua đường ranh giới không thấy rõ được phân chia hai nước Thái Lan và Malaysia. Với giấy phép làm việc, họ sẽ kiếm được mười dollar một ngày dù lao động ở nông trường cao su hay giúp việc nhà cho tầng lớp quí tộc giàu có. Bên kia biên giới, một chiếc xe tải khác đã chờ để chở họ đi làm. Đó là việc diễn ra hàng ngày, chẳng có gì khác thường cả.

Chỉ trừ có việc đây không phải là những em bé bình thường. Cả đám trẻ đều chỉ mới được chừng sáu tháng tuổi. Tất cả đều mới được mua trên các đường phố ở Bangkok vài giờ trước đây. Tất cả đều mới bị giết chết trước khi máy bay cất cánh bay đến phi trường Hao Yai.

Kilhanney chẳng biết gì về chuyến hàng chết mà ông đang chở. Những người đàn bà dường như im lặng một cách khác thường khi ông đón họ, nhưng lúc đó ông nghĩ có lẽ do thời tiết. Ông ngừng xe ngay trước rào cản ở biên giới và nhảy ra ngoài. Cơn mưa đã ngớt đi được chốc lát, chỉ còn những hạt mưa nhỏ nhè nhẹ rơi đều đều, nhưng các lằn chớp vẫn xé nền trời và loang loáng trên khu rừng rậm vây quanh họ.

Kilhanney bước về phía sau chiếc xe tải và hạ tâm bửng xuống, ông giúp những người đàn bà leo ra, đặc biệt là những người địu con trên lưng. Những người đàn bà hấp tấp chạy trên con đường nhỏ sình lầy về phía trạm gác với tấm giây phép làm việc cầm sẵn trong tay.

Hai người gác nép mình trong cái trạm biệt lập nhỏ bé để tránh mưa. Kilhanney quay trở lại xe và nhìn theo đám đàn bà đang tiến gần đến bọn lính gác biên giới. Chỉ còn phải làm những thủ tục thông thường. Lính gác Malaysia rất thân thiện và thích ve vãn đùa cợt những người đàn bà này.

Lúc một người đàn bà sắp bước qua tên lính gác thì cánh tay của đứa con bà tụt ra khỏi cái địu và đong đưa thõng thẹo. Bà ta vội vã bước nên không biết rằng đứa bé đang tuột ra và đầu nó đã ló ra khỏi cái địu. Khi bà đi ngang qua người lính gác, anh ta chặn bà lại, mỉm cười, đưa tay ra đặt đứa bé lại. Nhưng khi vừa đụng tới nó anh ta rợn cứng người. Đứa bé lạnh ngắt. Người đàn bà hoảng hốt bỏ chạy, và đứa bé văng ra khỏi cái địu rơi vào tay người lính.

Anh ta ôm đứa bé dưới mưa, hét gọi người lính kia:

- Đứa bé này đã chết! Giữ bà ta lại!

Người đàn bà vội chạy trở lại chiếc xe tải. Rồi tất cả các bà có địu con bắt đầu chạy. Người lính gác thứ hai kiểm tra đứa trẻ trên lưng một người đàn bà khác. Anh ta đứng dưới mưa, tay ôm một đứa bé đã chết khác, thét lên:

- Đứa bé này cũng chết rồi!

Đám đàn bà chạy toán loạn. Họ bắt đầu chạy quay trở lại chiếc xe tải, và lính gác bắn chỉ thiên nhiều phát để giữa họ lại. Kilhanney chợt hiểu. Ông gài mạnh số xe, và với các bánh xe ngập sâu trên đường đất nhão nhoẹt, ông lái vụt đi.

Kilhanney lái như một người điên, chiếc xe tải nặng lướt nhanh trên con đường trở về trơn nhẫy. Chiếc xe gầm lên trong cơn giông dữ dội mang Kilhanney đang điên cuồng nhìn đăm đăm qua kính chắn gió mà các làn nước mưa quất lên lốp đốp. Nỗi sợ hãi làm miệng ông khô cứng.

“Ôi! Lạy Chúa!” Ông cứ lặp đi lặp lại mãi. Rồi thình lình con dường phía trước ông nổ bùng sáng rực lên một tia sét xé toang bầu trời và đánh gục một trong những cây cao như tòa tháp. Ánh sáng chói làm Kilhanney lóa mắt trong chốc lát. Ông dụi mắt và thấy con dường hình như biến mất, chỉ còn lại rừng rậm trước mặt. Ông bẻ ngoặt tay lái. Các bánh xe trườn trên sỏi lổn ngổn, trên mặt đường sụp lở và,trên nước. Chiếc xe tải lao ngang vào rừng, đâm sầm vào một bờ đất và dừng lại.

Kilhanney choáng váng. Kính chắn gió vỡ nát. Ông mò mẫm tìm tay nắm cửa kéo lên, và khi cửa xe bật mở, ông văng xuống một cái rãnh đầy nước. Mưa lạnh làm ông tỉnh lại. Ông ngồi lên nghỉ một lát, rồi hối hả leo lên bờ rãnh trơn tuột và cắm đầu phóng vào rừng.

Ông chạy điên cuồng xuyên qua rừng trong khi các cành cây và tre quất đen đét vào người ông, xé rách quần áo ông, làm ê ẩm mặt ông. Ánh chớp biến rừng rậm thành cơn ác mộng lúc ẩn lúc hiện. Dây leo to như con trăn mọc ngoằn ngoèo trên mặt đất và quấn nghẹt lấy các cây da xà to lớn. Lại một tia sét khác ngoằn nghoèo xẹt ngang trên đầu. Trong ánh sáng trắng lẫn xanh dễ sợ của nó, Kilhanney nhìn thấy một tượng Phật bằng đá khổng lồ, đổ nát vì thời gian và thời tiết, đang giận dữ nhìn ông xuyên qua các cành lá, khuôn mặt và thân tượng thấp thoáng sau lớp lớp rừng cây rậm rịt. Kilhanney thét lên hãi hùng vập vào một thân cây. Rồi tim đập thình thịch trong ngực, ông cắm đầu chạy trong cơn giông bão.

Cái chỗ đó trông giống như phòng quay phim cao bồi miền Tây, một căn phòng lớn bừa bộn với bàn ghế lổng chổng đây đó cùng với những đám mùn cưa trên nền nhà. Các bóng đèn xanh nhạt treo trên trần trông như những cái phễu úp. Trần thấp, lù mù, lạnh lẽo, đầy mùi bia cũ và hành tây. Quạt trần rù rì quay chậm chạp cho không khí lưu thông. Đây là một nơi có vẻ như lạc lõng, ở cuối gian phòng, một quầy rượu bằng gỗ sồi cũ kỹ và sứt sẹo vì các trận đánh nhau, nằm dài hết chiều rộng của gian. Nó đã từng là một quầy rượu tuyệt đẹp có thanh gác chân bằng đồng gắn nhiều ống nhổ dọc theo suốt chiều dài. Ở phía trên quầy, một tấm gương cũng trải dài theo hết chiều rộng của quán rượu. Chính giữa quầy, là hàng chữ cao cỡ ba tấc khắc theo hình vòng cung cái tên “Tom Skoohanie”, và ở phía dưới chạy cong theo chiều ngược lại để làm thành một hình tròn và hàng chữ “The Galway Roost, 1877”.

Phía trên tấm gương, một cái đầu bò rừng cũ kỹ, dơ dáy, một con mắt duy nhất bằng cẩm thạch nhìn trừng trừng vẻ hiểm ác, con mắt kia che kín bằng một miếng vải đen. Gần chính giữa tấm gương có một lỗ đạn của loại súng cỡ lớn.

Trên một bức tường của quán rượu treo những bức ảnh chụp cũ kỹ, vàng ố và những bức vẽ các tay cao bồi nổi tiếng, những thổ dân da đỏ và các tay cướp.

Trong một góc gần quầy rượu, một cái hộp nghe nhạc (1) hiệu Wurlitzer còn mới nguyên đang thì thầm bản “‘Surfin” của ban nhạc “The Beach boy’s”, ở phía đối diện của gian phòng, cao trên nền nhà hai bậc là một phòng nhỏ hơn có che một tấm màn kết bằng những quả cầu thủy tinh lấp lánh. Nhiều người đang chơi bài trên một trong hai cái bàn đặt ở một góc kín đáo, trong khi ở góc bên kia hai người đàn ông đang thụt bida trên chiếc bàn bọc nỉ đỏ. Ở cuối cái phòng được ngăn ra này, ngồi trong một chiếc ghế nhồi thật căng bên cạnh cây đèn sàn có chụp viền hoa hòe, là một người đàn ông vạm vỡ trong bộ đồ trắng, tóc của ông ta chỉ có một nhúm đã bạc, chiếc cằm chẻ nhô ra trên chiếc áo sơ mi trắng đeo cà vạt đen. Trước mặt ông ta là chiếc bàn nhỏ để một cái hộp sắt lớn và một chai vang đỏ. Ông ta đang đọc sách. Khi đọc hết một trang, ông ta nhúng ngón tay vào ly rượu vang đang cầm, liếm rượu trên ngón tay và lật trang sách bằng ngón tay đó.

Gần ông ta nhất là một gã đàn ông cao gầy với bộ râu mép đã bạc hình ghi đông xe, ngồi ở cuối quầy rượu, đang tán gẫu nho nhỏ với một gã da đen cao trông lịch sự trong chiếc áo thun ba lỗ màu đen, ngoài khoác áo da, quần bò, giầy bốt cao bồi và một cái áo cao bồi to đến tắm trong ấy được. Một chiếc lông két màu đỏ, vàng và xanh lá cây được cắm vào vành nón. Cái báng khẩu súng lục to lòi ra dưới tấm áo khoác của gã cao, và trong khi nói hắn cứ liên tục liếc nhìn về phía người đàn ông vạm vỡ mặc bộ đồ trắng. Trong phòng chính chỉ có một người, bộ tóc dài vàng hoe, đang ngồi khom lưng trên quầy rượu.

Tiếng điện thoại reo lên đâu đó trong phòng phía sau, rồi tắt ngay. Gã phục vụ đi vào một cửa, khuất mặt trong vài giây rồi lại xuất hiện. Gã ngoắc ngón tay gọi người đàn ông cao, người này liền đi vòng ra sau quầy và trước khi bước vào phòng giấy phía sau, hắn móc ra khẩu súng lục to như khẩu pháo đưa cho gã phục vụ. Hắn bước vào phòng giấy, đóng cửa lại đằng sau lưng.

Vài phút sau hắn trở lại. Gương mặt hắn nghiêm nghị, và giận dữ, các bắp thịt ở hai bên hàm bạnh ra. Hắn bảo gã phục vụ:

- Tôi phải đi, hãy bảo Ngài đóng cửa nhà băng lại cho tới khi tôi trở về.

- Việc gì thế?

- Kilhanney đã tự tử. - Hắn nói sẵng và cáu kỉnh bước ra khỏi quán rượu.

Khi bước ra ngoài hắn gác sang một bên tình thế gay go và thình lình bị bao phủ bởi cuộc sống về đêm ở khu vực hộp đêm Patpong đang ở vào lúc nhộn nhịp nhất. Tiếng nhạc và tiếng nói chuyện huyên náo vang lên trong đêm. Hắn ra dấu gọi một chiếc “tuk- tuk,” một loại xe ba bánh gắn máy hình như đã giải quyết được nạn giao thông tắc nghẽn ở Bangkok. Gã tài xế người Thái nhỏ con cho nổ máy chiếc xe bé xíu và vọt về phía người đàn ông cao này. Hắn chui vào chiếc xe hai chỗ ngồi chật chội, bình thản nói:

- Sam Peng, chỗ vừa qua khỏi đường Tri Phet.

Chiếc xe nhỏ hai chỗ ngồi lao xuống một ngõ hẻm vắng vẻ ở Yawaraj, khu vực người Tàu ở Bangkok, rồi giảm tốc dộ dừng lại. Từ trong bóng tối một gã Tàu, lưng khòm chạy ra từ một khung cửa và leo vào ngồi cạnh người đàn ông cao.

Một giọng nói người Á Đông thì thầm:

- Cái gì xảy ra thế?

- Theo tôi hiểu thì bốn đêm trước Kilhanney đã đáp chuyến xe lửa đi miền Nam và lái xe đưa một nhóm nữ lao công ra trạm biên giới gần Kangar. Mười hai bà mang theo trẻ con còn bé. Tất cả các đứa bé đều đã chết ngạt và trong thân thể mỗi đứa đều có nhồi vào ba ki lô bạch phiến Trung Quốc.

Gã Á Đông xì một tiếng nhẹ nhưng chẳng nói gì.

Gã cao nhún vai nói:

- Bọn giết trẻ con. Nhưng thật tinh khôn. Quỉ ơi! Anh có thể mua một đứa bé trên đường phố Bangkok với giá năm mươi dollar. Chuyên xảy ra hàng ngày trong tuần.

- Chuyện này đã xảy ra như thế nào?

- Wol Pot.

- Mẹ kiếp! Mẹ kiếp, tại sao ông ta lại giấu anh chuyện này?

- Tôi không biết. Kilhanney nói với Max rằng Wol Pot lợi dụng ông ta để đánh chuyến hàng này. Ông ta chẳng biết gì về những đứa trẻ. Max nói rằng: Bố già nghĩ mình có thể thành công, trở về và quên đi, nhưng chuyện đám trẻ con làm ông ấy phát khùng. Khi ông ta đến chỗ Max, ông ta là một người điên nói lảm nhảm. Sáng nay ông ta ra bờ biển, bơi ra ngoài khơi và chẳng trở lại. Thi thể ông ấy đã giạt vào bờ cách đây khoảng một giờ.

Hai gã ngồi im lặng trong lúc xe chạy qua các khu nhà. Cuối cùng gã Tàu nói:

- Tôi tự hỏi không biết Wol Pot đã bảo chúng nó là bao nhiêu?

- Tôi đoán là càng ít càng tốt. Thật quỉ quái, chúng ta lại là con chủ bài của hắn.

- Con chồn ti tiện ấy nhẽ ra phải giết từ lâu rồi.

- Phải, anh đã hiểu điều tôi nói. Chậm còn hơn là không bao giờ. Có lẽ chúng ta có thể dựng lên một chuyện sao cho chúng nó sẽ lôi Wol Pot ra cho chúng ta, - Gã cao nói.

- Để thực hiện điều đó, ý kiến anh thế nào?

- Thai Horse (Ngựa Thái), - gã cao nói.

Chú thích:

(1) Jukebox: máy phát nhạc khi bỏ đồng xu vào và chọn bản.