← Quay lại trang sách

9. GINIA

Anh nằm trên sàn, cằm tựa lên hai mu bàn tay, nhìn con cá đuôi lửa màu vàng rực phóng ra phóng vào đám san hô, miệng đớp tìm mồi. Một lát sau, nàng bơi vào khung kính ở đáy thuyền. Kéo theo những bong bóng nước phun từ bình lặn, mái tóc đen dài dập dờn đằng sau.

Nàng cũng trần truồng như con cá nàng đang săn đuổi.

Cặp mông cứng, tròn lẳn như cọ xát vào nhau, khi nàng liên tiếp đập đôi chân dài, săn chắc, lên xuống như hai lưỡi kéo, trườn người vòng theo đám san hô nhỏ, đuổi bắt con cá. Nàng có gương mặt đẹp mê hồn và những mảnh da trắng hình tam giác xinh xắn, nơi mà bộ đồ tắm hai mảnh đã che không cho ánh nắng soi vào, càng làm cho thân hình nâu nhạt của nàng quyến rũ hơn.

Một tạo vật làm cho ta phải sửng sốt đến run rẩy.

Anh quan sát từng cơ bắp phập phồng trên người nàng, mỗi phân vuông của làn da rám nắng, hiểu rằng nàng biết anh đang ngắm và cả nàng lẫn anh đều rất thích thú với sự nhìn trộm này. Anh cảm thấy người bắt đầu căng cứng, mạch máu đập mạnh ở thái dương.

Tấm kính rộng khoảng 2 thước vuông gắn ở đáy thuyền là vật thật sự đã giữ anh ở lại trên du thuyền. Nó được đặt trong cabin chính ẩn dưới một tấm thảm phương Đông sang trọng. Khi ấn một cái nút, một ô ván trong thân tàu trượt lùi lại và 4 ngọn đèn pha cực mạnh gắn ở mỗi góc của khung cửa kính bật sáng. Kết quả là một quang cảnh ngoạn mục dưới biển hiện ra.

Nàng đang cầm một cái ống bằng nhựa dài khoảng hơn 6 tấc trông giống như một cái ống chích lớn có đường kính khoảng 10 phân và có pit tông ở đầu. Nàng đang ở phía sau con cá, từ từ đưa cái ống về phía đó, rồi thình lình kéo pit tông về phía sau hút con cá vào trong ống, ở đó có một van đóng nhốt nó lại. Con cá phóng lên xuống theo thân ông, bối rối bởi thành ống nhựa mờ đục đã nhốt nó. Nàng quay lại khung cửa kính và hãnh diện uốn éo thân hình.

“Làm hay lắm!”, anh nói to bằng một giọng khàn khàn gần như là thầm thì. Anh chống người lên trên một cùi chỏ và ngoắc ngoắc một ngón tay về phía nàng, ra hiệu cho nàng đến gần hơn; nàng bơi đến gần cửa kính, xoay người bơi ngửa và dạng hai chân ra như trêu ghẹo anh. Anh cúi xuống áp môi lên cửa kính và nàng từ từ trườn qua làn nước, nổi lên áp sát người vào đấy, đầu tiên là đôi gò ngực, rồi đến bụng, rồi đến cặp đùi áp sát vào. Anh hơi hé miệng, thè lưỡi liếm trên mặt kính dầy khoảng hơn 2 phân, và nàng bắt đầu uốn éo người trêu chọc anh khi anh cúi đầu xuống ngực nàng, chuyển xuống chiếc bụng phẳng, săn cứng và rồi xuống xa hơn nữa, tới chùm lông xoắn vào nhau đang ép sát cách mồm anh chừng hai phân. Rồi nàng vụt biến đi.

Anh nằm đó, nhìn đàn cá phóng ra phóng vào đám san hô, lòng mơ tưởng đến Ginia. Anh gặp may. Nàng vui tươi, đẹp và ưa khoái lạc. Hai người đã yêu nhau gần một năm nay.

Chính Cirillo là người đã tìm ra hòn đảo này. Và cũng chính do ông và bà vợ ông là Millie mà Hatcher đã đến đây ở ngay sau khi ra khỏi nhà tù Los Boxes. Anh đã rời những người Sloan cử đến cứu anh, quá giang xe từ Miami đến nhà Cirillo vào lúc nửa đêm với hình hài của một bộ xương, mắt trũng sâu, ướt nhẹp đến đầu gối vì phải lội qua các vùng lầy. Gia đình Cirillo chẳng hỏi câu gì; họ chỉ chăm sóc anh cho phục hồi sức khỏe, trông nom lo lắng và hiểu rằng cần phải xoa dịu đầu óc và thân thể bị vùi dập của anh.

Sau những năm ở nhà tù Los Boxes ra là thời gian thần kinh bị chấn thương chẳng khác mấy với lúc đang ở trong đó. Những cảm giác của anh đã trở nên quá chai đá, quá ngờ vực và phức tạp, nên anh đã trải qua những tháng đầu cô độc, lạc lõng dưới đáy của quá khứ, cố tìm một chỗ để bám rễ, một cái gì đó để kéo anh trở lại với đời thực. Vật hay nhất mà anh đã tới là một con thuyền thả rong trên biển, nằm phơi nắng, ngốn thức ăn ngon và rượu vang, đọc sách đều đều, và làm tình với đàn bà vào mỗi lúc có thể thuyết phục được - đàn bà da trắng, da đen, da đỏ, đàn bà có chồng, không chồng, đàn bà khôn ngoan, đàn bà ngu dại, đàn bà già và đàn bà trẻ.

Sau rốt anh đã trở lại hòn đảo. Hatcher đã thấy yêu mến chốn này, yêu mến đầm lầy ngăn cách hòn đảo với phần còn lại của thế giới, và chính hòn đảo phì nhiêu với cuộc sống mới đã hồi phục lại tinh thần anh sau những năm ở tù. Nơi đây đã trở thành tổ ấm thật sự đầu tiên của anh. Cái góc ngăn cách với thế giới này quả là nơi trú ẩn hoàn hảo của anh.

Có những dư luận về anh - người đàn ông lạ lùng, trầm mặc có giọng nói vỡ vụn và đôi mắt u ám, ngồi uống rượu mạnh đêm này sang đêm khác ở quán rượu Murphy. Rằng anh là một tay buôn lậu ma túy mới được tha, rằng anh là một tay buôn ma túy chưa bao giờ bị bắt, rằng anh là một tay nghiện ma túy đang tìm bạn ghiền trên hòn đảo hẻo lánh này, rằng anh đã ở tù 20 năm vì tội giết người vợ không chung thủy. Tất cả những chuyện tưởng tượng được thêu dệt bởi những cái lưỡi mềm rượu của các bà mà anh không quen và của các ông mà vợ của họ bị anh quyến rũ.

Anh cười khi nghe chuyện, thấy được tâng bốc bởi cái thân thế đã trở thành bí ẩn và đầy huyền thoại, rồi dần dần những cư dân trên đảo đã chấp nhận anh, anh lôi cuốn được họ bởi tính hài hước, tính độc lập và tính trung thực của anh đối với họ. Điều đó cứ từ từ lộ ra không phô trương, không phách lối. Bây giờ anh là một người trong bọn họ và những câu chuyện cũ đã được gác sang bên. Giống như nhiều người đã trốn tránh một quá khứ ba chìm bảy nổi, tìm nơi ẩn dật trên mảnh đất nhỏ bé cách xa bờ biển tiểu bang Georgia khoảng bốn cây số này, quá khứ của anh vẫn là điều bí ẩn.

Ginia đã để ý anh chừng đôi ba tháng trước khi anh đến với nàng. Nàng không hỏi câu nào, anh cũng thế, dù anh biết rằng nàng là người sinh ra trên đảo, đã tốt nghiệp hạng danh dự ở trường Wharton, đã từng là một trong những người môi giới kính nể nhất ở phố Wall, đã lấy một luật sư giàu có, rồi vào dịp sinh nhật lần thứ ba mươi của nàng, đã vứt bỏ tất cả và trở về đảo lập một hãng môi giới nhỏ. Đó là tất cả những gì gã Murphy nói, và anh chưa hề hỏi nàng điều gì về việc ấy cả, cũng như nàng chưa bao giờ hỏi gì về anh. Dường như họ không có quá khứ mà chỉ có tương lai.

Phải qua hai tháng anh mới mời được nàng đến ăn cơm chiều, một bữa cơm do anh tự nấu và phục vụ cách bờ biển khoảng 2 cây số trên con thuyền ở một nơi mà từ đó đã trở thành vùng biển có đá ngầm ưa thích của họ. Họ ngồi trên sàn thuyền ăn bữa chiều, ngắm các sinh vật dưới biển đang nô đùa qua cửa kính ở đáy thuyền và uống nhiều rượu vang, rồi cuối cùng hai ngày sau nàng mới rời thuyền mà chẳng biết gì về anh hơn lúc mới lên, trừ những sở thích của anh về đồ đạc, quần áo và nghệ thuật, tất cả mọi cái đều tuyệt vời. Nàng cũng chẳng biết anh làm gì để sống, từ đâu đến, đã làm gì trước khi tới đảo, kể cả việc anh đã lập gia đình chưa, có con chưa, bị cảnh sát truy tìm hay đang chết lần mòn vì một cơn bệnh nan y. Đến nay họ yêu nhau đã 9 tháng, nàng cũng chưa biết. Và nàng cũng chẳng cần. Anh là một người tình dịu dàng, một người có kinh nghiệm, ân cần, không hấp tấp, quan tâm đến những ý muốn của nàng, không biết sợ, hóm hỉnh, và nàng cũng đáp lại như thế. Tình dục vần còn là một niềm vui chứ không phải là bổn phận. Anh không bao giờ nổi giận, không bao giờ phê phán ai, và anh đối xử với nàng kính nể lạ thường. Như thế là đủ để dễ chịu cho nàng rồi.

Lúc đó vào khoảng trưa, chiếc máy bay phản lực của hãng Lear rít lên trên hòn đảo, nghiêng cánh ngoặt về phía đông, vòng ra ngoài khơi Đại Tây Dương rồi lướt trở lại hòn đảo lần thứ hai. Sloan quan sát hòn đảo khi viên phi công cho máy bay lượn vòng quanh nó. Nó có hình dạng như đảo Manhattan, nhưng sự giống nhau chỉ có vậy thôi, không hơn. Dài khoảng 20 cây số và rộng khoảng gần 4 cây số, nó gần như là một dải đất liền nhỏ hẹp ba mặt bị bao quanh bởi đầm lầy mênh mông còn phía Đông là Đại Tây Dương.

Một làng nhỏ bé nằm ở phía Nam của đảo, bến cá của làng chạy thẳng ra biển khoảng 100 thước như một ngón tay chỉ về hướng tiểu bang Florida. Một ngọn hải đăng xưa cũ sơn màu trắng dường như đang canh giữ khu vực buôn bán gồm ba khu nhà vuông vức, vây quanh bởi các cây sồi rêu phong che kín phần lớn các căn nhà trong đất liền ở đầu phía Nam. Những căn nhà bằng vải dầy và gỗ trải qua nhiều sương gió xếp hàng dọc theo bờ biển như những người lính gác, đương đầu với Đại Tây Dương tính khí thất thường.

Ở phía cuối gió là một trung tâm buôn bán và cái bến thuyền xinh đẹp lát gỗ hồng đào mới xây, ở đây, có nhiều du thuyền neo giữa các thuyền buồm nhỏ và thuyền đánh cá. Một phi trường nhỏ nằm ở phía Bắc ngôi làng, và phía Bắc phi trường - nửa phần trên của hòn đảo - là rừng rậm không có người ở. “Ta có thể đi bộ qua vùng không có người ở của hòn đảo này trong vòng một giờ”, Sloan nghĩ.

Một người đàn ông cao, ẻo lả như cọng cỏ, đội một cái mũ trưởng toán nhăn nhúm đứng trên chiếc xe chở nhiên liệu chạy đến chiếc máy bay của hãng Lear đang gầm lên và dừng lại gần dãy nhà khách thấp hình tròn.

- Có chỗ nào để mua thức ăn nấu ở nhà ngon không?- Sloan hỏi lúc đang bước xuống máy bay.

Người đàn ông, dường như dừng lại khoảng 10 giây, nhìn hắn chằm chằm rồi nói:

- Thử tìm ở tiệm Birdie trong làng xem.

- Tôi có thể thuê taxi chứ?

Ông ta lại suy nghĩ khoảng mười giây nữa.

- Taxi chả ra ngoài này.

- Vậy làm thế nào tôi đến đó được?

Người đàn ông với cái mũ rúm ró suy nghĩ một lát rồi nói:

- Ông có thể đi bộ khoảng mươi mười lăm phút, - lại im một lát, - hoặc ông có thể mướn xe ca trong này.

- Hiện giờ tôi đang đi tìm một người bạn. Có thể anh biết hắn chăng, Christian Hatcher.

Nửa phút sau:

- Không biết!

- Anh nói tiệm Birdie à?

- Ừ hứ.

Đó là một ngày đẹp trời, nhiệt độ khoảng 27°C và một ngọn gió mát từ bờ biển thổi xào xạc qua các lùm cây.

- Ta sẽ đi bộ.

Hòn đảo, một mảnh đất của nước Mỹ đẹp kỳ lạ và cổ kính y như một bức tranh của họa sĩ Rockwell chỉ thay đổi chút ít sau hai chục năm trường, vẻ duyên dáng của nó quyến rũ các du thuyền to lớn từ Miami và Charleston đến. Mỗi tuần họ đến một hai lần, neo tàu ở bến và ở đấy qua đêm. Những người du ngoạn, mà dân địa phương gọi là các hành khách, vui vẻ đổ xuống bến cá và sục vào các tiệm rồi quay về tàu nghỉ đêm. Sáng ngày hôm sau họ mới ra đi.

Khi Sloan đứng nhìn ngôi làng nhỏ xíu, miệng hắn hoác ra cười. Đây đây à? Hắn nghĩ. Hắn phải làm ra vẻ tự nhiên và suy nghĩ thận trọng khi đi hỏi. Hắn đi xuống bến tàu - ở đó dân địa phương đang bắt cua, câu cá hoặc đang tắm nắng - nhìn các thuyền đánh tôm đi lại, các con bồ nông to lông nâu đang phóng mình xuống nước tìm mồi.

Roland Smithh, người tự cho mình là thị trưởng không chính thức của hòn đảo, sáng nào cũng ra bến tàu trong bộ đồ thể thao, thắt cà vạt và gài một đoá hoa tươi ở ve áo để đi lòng vòng. Ông ta vuốt ve lũ chó, đi bộ với trẻ con, tán tỉnh với mọi phụ nữ trên 16 tuổi, và từ tốn đi lên nhà Birdie để ăn sáng và tán gẫu với dân địa phương. Nụ cười trên môi ông ta không bao giờ tắt và ông ta sống trên đời chỉ để vui vẻ. Ông đã đến hòn đảo này 10 năm trước đây trong dịp nghỉ phép cùng với vợ và bà vợ đã gục xuống chết ngay trên bãi biển vì một cơn đau tim. Smith, anh thợ lắp cửa sổ của một cửa hàng tổng hợp ở New York, đã gởi một bức thư xin nghỉ việc cho ông chủ và ở lại vĩnh viễn trên hòn đảo này.

Sloan nhìn ông ta đang dạo quanh bến tàu và công viên gần đấy, tươi cười tán chuyện. Sloan nhận ra ngay tính hay tán chuyện của người hắn vừa gặp. Hắn rảo bước đến rào công viên, ngồi trên băng ghế chờ Smith vui vẻ đi qua. Ông ta mỉm cười nói:

- Xin chào! Thật là một ngày đẹp trời phải không?

- Tuyệt vời! - Sloan nói cùng với nụ cười trên môi.

- Tôi rất yêu hòn đảo này, - Smith nói, đó là câu chào hỏi du khách mẫu mực của ông.

- Rất đẹp, - Sloan đồng tình.

Smith lơ đãng hỏi:

- Ông đang nghỉ phép ở đây à?

- Vâng, đại loại thế. Tôi đang đi tìm một người bạn cũ. Chúng tôi là bạn thân với nhau từ hồi còn ở trong quân đội. Nhưng tôi mất địa chỉ của hắn và không tìm thấy tên hắn trong niên giám điện thoại.

- Có thể anh ta đã dọn đi, - Ông thị trưởng hờ nói.

- Có thể ông biết hắn, Chris Hatcher ấy mà? Tôi nghĩ là tôi làm hắn ngạc nhiên đấy...

- Có thể anh ta chẳng thích những sự ngạc nhiên.

Smith nói vui vẻ, nụ cười của ông ta chỉ hơi nhạt đi, rồi ông ta gật đầu và lững thững bỏ đi.

Sloan lang thang ra vào các cửa hiệu, bắt chuyện bằng cái lối tươi cười dễ thương, rồi cuối cùng mới mon men tới câu hỏi chính. Không một ai nói “Tôi không biết hắn” hoặc “Tôi chưa bao giờ nghe nói đến hắn”. Họ chỉ nói chung chung, lờ đi câu hỏi và chỉ trả lời đại khái như: “Có rất nhiều người ở trên hòn đảo cổ xưa này” hoặc “Ông nói ông từ đâu đến?”

Một thị trấn nhỏ đặc thù - Sloan nghĩ - mọi người trên đảo đều vừa kín tiếng vừa vui vẻ. Nhưng Sloan được trời phú cho cái tính kiên nhẫn vô hạn. Hatcher phải ở đâu đó trên hòn đảo này. Một người nào đó trên hòn đảo này phải biết Hatcher, chỉ còn là vấn đề thời gian cho đến khi có ai đó thú nhận. Sloan vào tiệm Birdie, đó là một nhà hàng vui vẻ, kín đáo tỏa mùi rau cải tươi và thức ăn biển, thực đơn được ghi trên một tấm bảng đen to treo trên tường. Hắn tìm một bàn gần bên một nhóm đàn ông, họ trông có vẻ như cùng cánh.

Khi mới đặt chân tới đảo, Hatcher đã chọn cho mình cuộc sống ẩn dật, tránh gặp mọi người và sống cô độc trên thuyền. Người bạn duy nhất của anh là Cirillo. Nhưng dần dần anh trở nên gần gũi với những người dân ở đây. Họ chẳng chỉ trích ai, nồng hậu, và giúp đỡ nhau một cách mộc mạc hồn nhiên. Giống như Hatcher, họ đã trốn ra đảo, bỏ lại sau lưng những ký ức xấu xa, những sự nghiệp sụp đổ hoặc những sự ngược đãi của một cộng đồng giả dối.

Tất cả những người đàn ông ngồi ở bàn kế bên đều là bạn của Hatcher. Một người to lớn có mái tóc bạc và bộ râu rậm bạc trắng trông giống như ông già Noel được những người kia gọi là Bear. Còn người mảnh khảnh, trầm lặng, có hàm râu muối tiêu đâm cả vào ngực, đang đọc một quyển tiểu thuyết đóng gáy bìa cứng trong khi ăn, một người khác nữa có khuôn mặt dịu dàng đang ghi vội những vần thơ vào một cuốn sổ tay nhàu rách. Sloan lắng nghe họ chuyện trò, hy vọng kiếm được ra manh mối. Nhưng hắn chả thâu lượm được gì, mặc dù rõ ràng họ là dân trên đảo.

- Chưa bao giờ tôi được ăn ngon như thế này từ khi tôi rời nhà, - Sloan vui vẻ nói.

- Đúng đấy, - Bear trả lời.- Và chắc là rẻ.

Họ nói chuyện với nhau thân thiện trong suốt bữa ăn. Cuối cùng Sloan bật ra câu hỏi và cũng được trả lời mơ hồ như trước.

- Chắc hẳn sớm muộn gì hắn cũng đến ăn ở đây thôi, - Bear nói. Mọi người đều thế mà. Sloan vẫn không nản. Hatcher không có tên trong sổ bộ của thị trấn hoặc trong niên giám điện thoại. Không có đăng ký xe hơi. Nhưng vì Hatcher đang sống trên đảo này, anh là hải quân đã xuất ngũ, anh yêu biển cả, nên rất có thể là anh đang sống trên một con thuyền. Tiến trình loại bỏ dần các sự kiện cuối cùng đã đưa Sloan đến bến giữ thuyền.

Lúc này thì cả làng đã biết rằng hắn đang đi tìm Hatcher.

Hắn thử bắt chuyện với Cap Fendig, người điều hành bến thuyền.

- Tôi đang đi tìm một người bạn cũ, Chris Hatcher. Chúng tôi đã ở trong quân đội cùng nhau.

- Đó là một sự kiện.

- Anh ta rất giỏi lái tàu nên tôi nghĩ có lẽ anh ta có một chiếc thuyền ở đây.

- Ừ, đây là chỗ giữ thuyền. - Fendig bỏ đi lên cầu tàu. Sloan nói với theo:

- Tên anh ta là Chris Hatcher.

- Anh ta chẳng phải sinh ra ở đây. Tôi đã sống cả đời ở đây, chẳng có ai tên đó sinh ra trên đảo này.

- Không, anh ta mới tới ở đây được độ một năm rưỡi.

- Ồ!

Câu chuyện chấm dứt.

Sloan thay đổi chiến thuật. Hắn lại gần cậu bé đang bơm xăng. Hắn tỉnh bơ, vui vẻ hỏi:

- Giờ nào thì Chris Hatcher về?

- Chẳng bao giờ biết được. - cậu bé trả lời.

Trúng rồi! Sloan nghĩ.

- Anh ta sống trên tàu à?

- Cháu không biết, - cậu bé trả lời và lẻn vào trong trạm xăng nhỏ.

Sloan trở lại bến thuyền uống một li bia, rồi quay lại cầu tàu chờ đợi.

Hồi còi tàu cao vút kéo Hatcher trở lại thực tế.

- Ôi lạy Chúa! - Anh càu nhàu, đứng dậy, xốc lại những chỗ phồng lên dưới bộ quần áo tắm xộc xệch của anh rồi đi lên, thận trọng nhìn chòng chọc qua vách khoang thuyền.

Một chiếc thuyền đánh tôm tên là Breeze - E dừng lại kề bên, máy thuyền chạy rì rì trong khi con thuyền nhè nhẹ lắc lư trên biển lặng. Thuyền trưởng, một người cao gầy, dày dạn với hàm râu muối tiêu cắt tỉa gọn gàng, đang đứng ở phía đuôi tàu. Ông ta bắt hai tay làm loa hét to: “Gã ấy lang thang khắp đảo hỏi kiếm anh. Đã tới quán Birdie, tiệm Murphy, bến thuyền. Kể cả dò hỏi ông già Rolan”.

- Hắn muốn gì? - Hatcher hét lại bằng giọng khàn khàn nghe nửa như tiếng gầm gừ, nửa như tiếng thì thầm.

- Hắn bảo hắn là bạn cũ của anh trong quân đội.

Hatcher lúc lắc đầu:

- Trông hắn ra sao?

- To con, trông như cái chậu đựng tôm hùm ấy, hai vai thật rộng. Trông có vẻ gần bốn mươi rồi. Rất thân mật. Ăn nói nhẹ nhàng và lúc nào cũng cười. Có một sẹo nhỏ trên má.

- Bạn của anh à?

- Tôi không nói thế. Ông đã nói gì với hắn?

- Chả nói mẹ gì cả!

- Cám ơn, Bob.

- Có gì đâu. Đang câu cá à?

- Đại loại thế!

- Gặp lại sau nhé!

Bob vẫy tay, trở lại sàn lái và ấn ga cho thuyền chạy ra khơi.

Hatcher nghe có tiếng động sau lưng, anh quay lại, thấy Ginia đang nhìn anh qua lan can tàu.

- Chuyện gì thế? - Nàng hỏi.

- Bob. Ông ta bảo có ai đang hỏi về anh ngoài phố. Em biết dân trên đảo thế nào rồi, đôi khi họ che chở anh thái quá!

- Em nghĩ thế là tốt, - nàng nói. Và từ bên chiếc thang dây bước qua lan can giữa, qua chiếc khăn bông trên ghế quấn quanh người như chiếc xà rông. - Thật dễ thương khi biết bạn bè lo lắng cho anh nhiều đến thế.

- Ừ hứ. Hãy xem con cá kia đã.

Nàng với qua lan can, lấy cái ống đưa cho anh. Anh đưa nó lên gần mắt, quan sát:

- Con này to đấy. - Anh nói.

- Anh nhìn đuôi nó xem. Chúng mình giữ nó lại nhé?

- Tất nhiên rồi.

Anh cầm cái ống xuống phòng chính, ở đó 6 con cá khác họ bắt được sáng nay vẫn đang bơi lượn vòng quanh thăm dò cái bồn cá chứa được khoảng 400 lít nước. Anh đứng nghiêng người trên bồn cá, mở cái van trong ống, con cá màu vàng bơi ra và lập tức bắt đầu tìm hiểu giang sơn của nó giữa đám san hô và tảo biển ở đáy bồn.

- Đẹp quá! - Nàng nói sau lưng anh. Hai cánh tay nàng ôm quanh hông anh. - Bơi lội làm em “nổi hứng”. - Nàng ghé sát vào tai anh nói.

Không quay lại, anh đưa hai tay ra sau luồn dưới chiếc khăn bông và vuốt ngược lên mặt bên trong của cặp đùi nàng. Nàng hơi ngửa người ra sau cho hai bàn tay anh thêm rộng chỗ, và luồn hai bàn tay nàng qua thắt lưng chiếc quần tắm chật căng của anh.

Nàng nói:

- Mọi cái đều làm anh “nổi hứng”.

Anh quay lại, kéo chiếc khăn bông ra, hai tay nhẹ nhàng vuốt dọc theo lưng nàng xuống đến cặp mông mềm mại, kéo nàng về phía anh.

- Mông em lạnh ngắt, - giọng anh thì thào bên tai nàng.

- Nhưng trái tim nóng hổi.

Nàng nhón chân lên, dang hai chân ra một tí và ép sát vào anh, mái tóc rậm của nàng phủ quanh vai anh, rồi nàng ngậm một núm vú của anh và bắt đầu mút. Cái giọng riêng của anh thì thầm:

- Được một lúc rồi đấy.

- Đúng. - Nàng cười rúc rích. - Ít nhất cũng phải hai tiếng đồng hồ.

Nàng nghiêng người và thì thầm vào tai anh: “Mở hệ thống lái tự động đi”, rồi nắm tay anh kéo về phòng ngủ của thuyền trưởng.