← Quay lại trang sách

15. NHỮNG DI VẬT CỦA NGƯỜI ĐÃ KHUẤT

Chỗ ấy chẳng giống bất cứ nhà bảo tàng nào trên thế giới. Nó được gọi là MARS, tên tắt của Nhà Bảo Tàng và Lưu Trữ Vật Khảo Cổ Địa Phương (Museum and Archaeological Regional Storage Facility), và nó nằm trong một tòa nhà trệt bằng phẳng cách Washington khoảng 80 cây số về phía Nam trong một làng nhỏ ở tiểu bang Maryland. Hatcher phải mất một giờ rưỡi để lái chiếc xe hơi Chevy mướn xuống dưới đó.

Viên giám đốc là một người đàn ông trẻ, khoảng 40 tuổi mặc dù khó mà đoán được tuổi ông ta. Ông mặc áo vét tông màu xanh da trời giống như sinh viên nội trú. Tóc vàng, để râu hàm, giọng nói nhỏ nhẹ, ông ta là con người mà nhiệm vụ đã mang lại cho ông nỗi buồn da diết, vì xung quanh nơi đây là tâm trạng nhớ nhung, đau xót và lo lắng. Ông ta đưa cho Hatcher một đôi găng tay vải trắng.

- Chúng ta đeo cái này vào để đừng sờ mó vào các hiện vật làm hư hỏng đi. - Ông ta bảo Hatcher và mơ hồ chỉ về phía một cái túi ni lông đựng hai vỏ sò nhỏ giống hệt nhau, có gắn một mảnh giấy ghi vắn tắt: “Em yêu anh, Charley”.

- Các đồ vật được phân loại theo chức vụ, cái kệ gần nhất là nơi đặt các di vật của anh ấy, - Ông ta nói và dẫn Hatcher xuống một hàng kệ dài bằng kim loại màu xám cao đụng trần nhà.

Rất nhiều người khi đến bức tường kỉ vật về Việt Nam dường như bị tình cảm hoặc lương tâm bắt buộc đã tặng lại nơi đây một cái gì đó, đế lại một kỉ vật của chính họ. Những đồ vật đủ các loại của người thân, giống như những di vật của lịch sử được những người trông coi thu thập thêm hàng ngày về kho, lựa ra, phân loại và lưu trữ. Nó ghi lại những mảnh đời tan nát. Bộ sưu tập nói lên những tình cảm rất khác nhau: nỗi đau lòng, sự hài hước, lòng thương cảm; và được xác định hoàn toàn bởi nỗi xúc cảm - tình yêu của một đứa trẻ dành cho người cha nó chưa hề biết mặt, sự lo âu khắc khoải của những ông cha, bà mẹ cô đơn, sự đơn chiếc của một người tình trong đêm và tội lỗi đã mắc của một anh bạn thân còn sống sót. Thất vọng, buồn phiền, tự hào, giận dữ, tất cả đều ở đó, trên những cái kệ bằng kim loại giống nhau màu xám đặt trong phòng lưu trữ. Đây là nỗi đau của những người đang sống.

Các đồ vật bọc trong những bao ni lông, không có lời giải thích. Bóng chày - bản đồ - cờ xí. Rất nhiều, rất nhiều những lá cờ - biểu tượng truyền cảm nhất và bị lăng mạ nhiều nhất của chiến tranh. Hatcher đi ngang một vật và nhìn thấy những nét chữ ghi vội vàng trên một mẩu giấy trắng: “Người gửi: Kenny, đứa con rể mà bố mẹ chưa bao giờ gặp”.

Những lời ghi “Hỡi các bạn, tôi cầu mong cho con cái của chúng ta không bao giờ phải đi ra chiến trận. Còn nếu phải đi thì chúng sẽ ra đi với tất cả lòng dũng cảm và thái độ đường hoàng chứ không phải như chúng ta hiện nay”. Những bức thư, có một số còn dán kín. Những bài thơ “Dâng lên cha tôi, người đã chết hai tháng trước khi con chào đời”.

Những kiểu mẫu máy bay đồ chơi, nón sắt, phù hiệu quân đội, huy chương, chương trình khiêu vũ của trường trung học và sổ học trình của đại học, lương khô, giầy trận, một phong kẹo 6 miếng hiệu Miller, những tấm ảnh chụp xe hơi và nhà cửa, những đứa trẻ con chưa bao giờ nhìn thấy bố, những người bố chưa bao giờ được gặp con. Đó là những di vật còn lại của những người đã chết.

Hatcher hỏi khi đi theo người trông coi xuống dãy kệ đặt những vật tưởng niệm:

- Anh đã ở Việt Nam bao giờ chưa?

- Đã. - Câu trả lời cụt lủn để chặn không cho hỏi thêm.

Rất dễ kiếm những kỉ vật riêng biệt nhờ mã số đơn giản mà họ đã ghi để phân loại cái kho tàng nhỏ mà họ hàng, người yêu và bè bạn đã để lại đây. Người đàn ông dừng lại, cúi xuống nhìn một mã số nói:

- Đây là những kệ của anh ấy. Nếu có vật gì thì nó phải ở đây. - Ông ta nói rồi bỏ đi để Hatcher ở lại tìm kiếm. Trên chiếc kệ là một con gấu chơi bẩn và đã sờn cũ, bên cạnh là cây gậy đánh banh có một vết nứt, một tấm hình chụp hai thiếu niên có vẻ tự mãn đang đứng bên cạnh chiếc xe Thundebird màu đỏ rượu chát. Còn có một bó hoa nhỏ đã khô héo buộc bằng một dải băng trắng, một nhẫn cưới được khâu vào dải băng của vòng hoa tang hình quả tim màu tím.

Hatcher tìm được hai dòng chữ.

Dòng thứ nhất ghi: “Bố của chúng con, đại úy Murph Cody, Hải Quân Mỹ. Người gởi: các con yêu quí của bố, Keith và Sharon”. Mảnh giấy được đính vào một tấm ảnh chụp hai đứa trẻ trông có vẻ buồn trước tuổi.

Bên cạnh là một mảnh giấy khác ghi: “Cám ơn về tất cả mọi thứ, Polo. Và tạ ơn Chúa về Thai Horse. Jaimie”. Nó được gắn vào một chiếc mũ nồi màu xanh lá cây. Chẳng còn gì khác nữa.

Polo.

Đó là tiếng mà người tên là Jaimie này dùng gọi anh ấy, Polo. Vậy là cái biệt danh này vẫn còn dính với Cody. Khôi hài thật, Hatcher nghĩ, mình chưa bao giờ nghĩ anh ấy thích nó. Nhưng nó bày tỏ một điều về anh ấy. Dòng chữ này gởi cho Murph Cody. Đó không phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên.

Đó có phải là lời vĩnh biệt của một kẻ nào đó biết rằng anh ấy đã chết?

Hay là lời cảm ơn của một kẻ nào đó biết anh ấy còn sống?

Và còn điểm liên quan đến Thai Horse. Theo Hatcher, điều ấy chỉ nói tới một điều duy nhất là: heroin Thái Lan, bạch phiến Trung Quốc.

Có phải Cody cung cấp heroin cho những người của anh ta? Có phải anh ta và cái người tên là Jaimie này cùng chung nhau trong việc buôn lậu nào đó? Đây có phải là loại thư đã mã hóa không? Hatcher lắc đầu một cách vô ý thức. Anh không muốn tin vào điều đó. Thế thì lời ghi đó còn có nghĩa gì khác không? Có thể có lời giải đáp nào khác không?

Suy nghĩ bên lề đã nảy ra nhiều câu hỏi hơn là lời đáp. Cái giọng khàn khàn của Hatcher hỏi người gác:

- Chẳng có cách nào để mò ra dấu vết của người tên là Jaimie này ư?

Người gác lắc đầu, đáp gọn:

- Đấy không phải là việc của chúng tôi.

Hatcher xem xét chiếc nón bê rê. Bên trong viền nón là những chữ đầu “J.S.” Không gì khác nữa. Hatcher lấy ra một quyển sổ nhỏ, ghi lại tất cả những tin tức, có thể nào ghi đúng như thế. Thêm một dữ kiện nữa. Nơi đây đã nhận được chiếc mũ bê rê và lời ghi này 14 tháng trước đây, ngày 4 tháng bảy.

Không còn gì nữa cả. Dù thế nào thì di sản của Murph Cody hình như cũng chấm dứt ở đây với cái văn bia ngắn ngủi này, Hatcher nói với người gác:

- Thôi được, xin cám ơn.

- Vâng.

Hatcher nhìn quanh gian phòng một lần nữa, nhìn những găng tay chơi bóng chày, những cái diều rách tả tơi và các bông hoa.

Anh nghĩ về một đoạn nào đó Conrad đã viết: “... một niềm tin vô tư vào một lí tưởng - một cái gì anh có thể dựng lên quì lạy trước nó, và cống hiến cả sinh mạng cho..”

Rồi anh nghĩ đến những người được thờ cúng ở đây - những người đã bị chết, chôn vùi hay mất tích ở một nơi xa lạ trong cuộc chiến tranh mà đa số không hiểu nhưng cũng không hỏi, để bị tước đoạt tất cả những hi vọng, mơ ước và dường như tưởng là đã hi sinh cho Tổ quốc. Những người bình thường đã trở thành khác thường khi chết đi. Hơi thở lạnh giá của các hồn ma làm Hatcher lạnh gáy và anh không thể nào rời khỏi nơi đó thật nhanh như ý muốn.