← Quay lại trang sách

16. MONTANA

Hatcher biến mất đêm ấy với chiếc cặp đầy ắp giấy bạc 20 dollar và hồ sơ của Murph, bỏ lại Sloan ngồi chờ anh trong Occidental Restaurant. Sloan đang uống li rượu mạnh thứ ba thì những tiếng chuông thình lình vang lên trong đầu hắn: “Thằng chó đẻ ấy sẽ không trở lại”. Một cú điện thoại nhanh chóng xác nhận nỗi lo ngại của hắn. Hatcher đã rời khách sạn hai tiếng đồng hồ trước. Đúng là kiểu của hắn! Điều ấy làm Sloan nổi giận vì lẽ ra hắn phải biết trước Hatcher sẽ tránh mặt hắn. Cách đầu tiên để Hatcher biểu lộ sự giận dữ đối với Sloan là cắt liên lạc với hắn, tỏ rõ tính tự do hành động của anh làm cho Sloan biết ai là tay cừ hơn.

Thôi được, Sloan nghĩ, chúng ta sẽ xét việc đó. Người phục vụ trưởng hỏi sau khi hắn gác máy điện thoại:

- Ngài gọi thức ăn ngay chứ, thưa đại tá?

- Hủy bỏ.

Sloan càu nhàu. Hắn dúi cho ông ta năm dollar và rời khỏi nhà hàng, đi trong màn đêm mưa gió. Hiểu Hatcher, Sloan biết là phải nhiều tuần nữa mới có tin tức của anh. Hắn trở về văn phòng và cho tìm Zabriskiki. Zabriskiki có thể tìm được bất cứ ai. Vả lại hắn tin chắc Hatcher ra đi với cái tên thật của mình. Quái quỉ, cho đến bây giờ, anh ta vẫn không thay đổi tên. Vả lại, Hatcher không trốn Sloan, anh chỉ bỏ hắn đi. Sloan sẽ phải lần theo anh và phải cho thằng chó đẻ ấy biết thân.

Sáng hôm sau Sloan nhận được báo cáo của Zabriskiki:

- Hắn đáp phi cơ đi Billings, tiểu bang Montana trên chuyến bay về miền Đông đêm qua, nghỉ đêm ở khách sạn Palace, sáng sớm nay đáp chuyến bay địa phương đi Shelby.

- Montana! Nó làm quái gì ở Montana thế?

- Tôi không biết, thưa ngài. Nhưng đó là nơi hắn đến.

- Shelby ở nơi quái nào vậy?

- Cách phía Nam biên giới Canada một đoạn ngắn - gã nhân viên đáp, - chẳng có gì ở đây cả, thưa đại tá, tuyết phủ trong ba tháng. Đó là nơi đến Chúa cũng mất luôn cả giầy đi tuyết ở đấy.

Montana? Sloan kéo hồ sơ của Murph ra và dò lại, đọc từng dòng, tìm kiếm vài điều liên quan đến Shelby, tiểu bang Montana. Nhưng hắn chẳng tìm được gì. Thế thì quái thật, Sloan nghĩ, từ Shelby anh ta có thể đi đâu? Hắn điều Zabriskiki đáp chuyến bay tới Billings, chờ Hatcher quay lại và theo dõi anh.

- Này, Zabriskiki, thằng đó trơn như lươn ấy, hiểu không? Hắn có những mánh khóe mà cậu chưa bao giờ nghe nói tới.

- Có tóm hắn không? - Zabriskiki hỏi.

- Mẹ kiếp, không, hắn không làm gì quấy cả, - Sloan nói. - Tôi chỉ muốn biết hắn định làm cái quái quỉ gì thôi.

Sloan nghĩ, có thế hắn đang chơi trò hai mặt. Có thể hắn đang kiểm tra mình. Sự mạo hiểm trong việc mướn Hatcher là ở chỗ hắn quá thông minh. Nếu Hatcher trở mặt, có thể lâm nguy ngay. Sau thời gian ở nhà tù Los Boxes ra, còn quá sớm để có thể giao phó công việc cho Hatcher.

Chiếc máy bay hai cánh quạt De Havilland lướt trên đường bay hẹp mà các xe hút tuyết đã dọn sạch, ở hai bên đường những đống tuyết lù lù cao hơn cả thân máy bay, tuyết đã chất đống lại trong nhiều tháng. Nhà khách của phi trường là một tòa nhà trệt nhỏ gần như bị che khuất bởi các đống tuyết. Có một nhà chứa máy bay gần đấy, còn hơi nhô lên khỏi tuyết, với một chiếc vợt định hướng gió rách tả tơi bay phần phật trên chiếc cột cong oằn dưới làn gió lạnh ngắt. Đó là tất cả những gì có ở phi trường. Đôi ủng của Hatcher kêu cót két và anh thở ra những luồng hơi nước trông thấy rõ trong khi anh băng nhanh qua sân nhựa phủ đầy tuyết đến cái nhà khách nhỏ, ấm áp, chỉ bằng cỡ một phòng khách rộng.

Một bên phòng là quầy vé hàng không do một người đàn ông gầy trông như đang ngủ gật điều hành, phía bên kia là một máy bán thức ăn uống và một quầy cho thuê xe ô tô riêng và xe taxi do cùng một người đàn ông phụ trách. Ông ta có nước da xám như chì, râu ria xồm xoàm, đầu đội mũ lông và mặc áo len. Chuyến bay tới chỉ hơi làm khuấy lên sự hoạt động trong nhà khách. Cả thảy chỉ có ba hành khách đến.

Hatcher mua một tách cà phê ở máy và chờ cho đến lúc một hành khách mướn xong chiếc xe. Khi ông ta đi khỏi, bước lại gần ông già đội nón lông đang cúi xuống mẫu hợp đồng mướn xe, điền vào cho đủ bằng một mẩu bút chì, hỏi giọng khàn khàn:

- Mất bao lâu để đi tới Cut Bank?

Ông già vẫn tiếp tục làm việc với mẫu hợp đồng, đáp:

- Còn tùy.

- Tùy vào cái gì?

- Tùy mùa trong năm. Mùa hè mất độ 45 phút.

- Thế còn mùa đông thì sao, chẳng hạn ngay bây giờ?

- Hai giờ, nếu ông thuộc đường.

- Ông có biết từ đây tới trạm cỏ khô của nhà nước bao xa không? - Hatcher làu bàu.

Lão già tiếp tục viết, vẫn không ngẩng lên, nói:

- Khoảng 34 cây số, đa số là leo đèo. Ông không quen lái xe trong tuyết, đừng nghĩ đến việc ấy. Cho đến mùa xuân người ta cũng không tìm ra ông đâu.

- Ông cũng là tài xế à?

- Ừa.

- Chở tôi lên đó lấy bao nhiêu?

- Này anh, anh nói nghe cứ như là đi xe đạp trong công viên ấy, - ông ta nói, vẫn tập trung vào cái mẫu hợp đồng.

Hatcher chìa tờ 100 dollar dưới mũi ông ta, nói:

- Còn một tờ khác như vậy nữa khi chúng ta trở về. Tôi sẽ không ở đó lâu hơn một giờ đồng hồ.

Lão già chăm chú nhìn nụ cười khó hiểu của Ben Franklin in trên tờ giấy bạc giây lâu, rồi ngẩng lên:

- Anh chắc phải là người của nhà nước.

- Ông muốn biết tiểu sử thì phải trả giá một tờ bạc kia. - Giọng khàn khàn của Hatcher trả lời trong khi anh hất hàm về phía tờ bạc một trăm dollar.

- Hiểu rồi! - Ông già nói, gấp tờ giấy bạc lại và nhét vào túi áo sơ mi. - Chuyến bay cuối cùng trở lại Billings vào lúc 4 giờ. - Ông ta nhìn đồng hồ. - Chúng ta có 6 tiếng.

- Thế còn máy bay đi Spokane?

- Mỗi ngày một chuyến lúc 2 giờ 30.

- Chúng ta hãy chuyển sang đó, - Hatcher nói.

- Ừ hứ, - lão già nói và đưa tay ra. - Tôi là Rufus Eskew.

- Chris, - Hatcher nói và nắm lấy bàn tay xù xì vết chai của ông già.

- Tốt hơn nên làm cái gì để chống lạnh. - Rufus nói và với tay lấy chìa khóa ở dưới quầy.

Chiếc trực thăng bay là thấp trên cánh đồng cỏ, thả xuống bó cỏ khô đầu tiên. Bầy nai đánh hơi thấy mùi cỏ khô tranh nhau chạy đến. Simmons đứng ở khung cửa máy bay trong bộ quần áo dày cộm, mặt che kín bằng chiếc khăn ấm để chống lại cơn gió lạnh buốt từ cánh quạt trực thăng thổi ào ào vào anh ta và người bạn đồng hành. Đôi mắt anh chăm chú nhìn qua cặp kính mát nằm giữa chiếc khăn ấm và cái nón len phủ sát xuống tận tai. Đôi lông mày đen rậm đứng lại vì băng đóng. Anh nắm chặt sợi dây an toàn vững vàng trên khung cửa chờ cho đến lúc phi công quay trực thăng vòng lại.

Phía dưới họ, bầy nai chạy cuống cuồng ngoại trừ một con nai đực lộng lẫy vẫn đứng tại chỗ, đánh hơi với cánh mũi phập phồng, nhìn chiếc trực thăng bay là thấp trên cánh đồng cỏ đóng băng nằm lọt giữa hai ngọn núi.

- Nhìn cái con chó đẻ ngạo mạn ấy kìa, - Simmons hét gọi người bạn đồng hành ở khoang trước của trực thăng.

- Đúng là một con nai tuyệt đẹp.

Họ đang ở độ cao sáu mét trên cánh đồng tuyết phủ thành đống, Simmons đạp cả hai chân lên bó cỏ to, nặng khoảng 100 kí, đẩy nó ra khỏi cửa. Anh nhìn nó lăn xuống, quay lông lốc, rơi chạm mặt đất và bung ra như một trận mưa rào tuyết và cỏ khô.

- Đến ăn đi, các con yêu quí! - Anh rống về phía đàn thú đang sa vào trận bão bất ngờ vì đang đói khát. Ở phía bên kia, Eddie, người đội trưởng đã ném bó cuối cùng xuống. Ông quay lại Simmons và trỏ ngón tay cái lên trần máy bay. Simmons nghe tiếng ông nói trong máy:

- Xong rồi, hết bom. Đi uống vài li cà phê nóng đã.

Rồi tiếng người phi công trả lời:

- Tôi nghe rõ, thật là một tin thú vị.

Simmons và Eddie đóng cửa máy bay lại, ngồi trước máy sưởi yếu ớt. Luồng không khí thổi ra từ hai lỗ thoát chỉ ẩm hơn gió bên ngoài tí chút. Simmons lấy ra một chai rượu, kéo chiếc khăn ấm xuống nốc cạn một hơi dài. Anh quẹt miệng bằng bàn tay đeo găng rồi đưa chai cho Eddie, run rẩy toàn thân như bị sét dánh. “Ui - aaa! Cái này sẽ giúp chúng ta về tới nhà”. Anh rên lên rồi kéo chiếc khăn ấm che mặt, cất cái chai đi Eddie đã uống xong và ôm hai tay trước ngực, anh sẽ ngủ khoảng 20 phút trong khi trực thăng bay về trạm.

Giọng của viên phi công bỗng vang lên trong máy: “Tôi vừa nhận được điện từ trạm. Có một người đang chờ gặp anh, Simmons”. Simmons nhỏm dậy. Bây giờ à, ai lại rời nhà tới trạm này để gặp anh trong thời tiết như vậy? Anh hỏi viên phi công:

- Tên hắn là gì?

- Tôi không hỏi.

Simmons lo ngại trên suốt quãng đường về. Dù sao thì anh cũng bị bệnh ảo tưởng kinh niên. Nếu gã Lee ở dưới trạm mà không biết là ai thì đó là người quái quỉ nào thế? Anh leo ra khỏi trực thăng, chạy thẳng về văn phòng trong lúc cánh quạt trực thăng còn đang quay. Quái thật, gã này là ai nhỉ?

Simmons quen Rufus Eskew, thế thì chắc là gã ấy muốn gặp mình. Người khách đang đứng bên máy sưởi trên sàn, uống cà phê trong cái tách mà anh ta ôm bằng cả hai tay, cao khoảng 1m 85, tóc đen đã điểm bạc, thân hình như võ sĩ quyền anh. Hãy nhìn nước da rám nắng ấy xem, Simmons nghĩ, gã này chắc ở miền Nam - Los Angeles hoặc Florida. Anh ta mặc một chiếc áo thun cổ trái xoan, quần sẫm bằng vải dày, ống quần nhét vào trong ủng viền lông cừu và mặc một áo khoác lông cừu rất dày. Đeo kính mát. Los Angeles, Simmons khẳng định. Rồi tháo kính ra, Simmons nhìn vào đôi mắt xám lạnh lùng mà anh đã từng gặp. Ở Washington, Simmons tự bảo.

- Ông Simmons, tôi là Hatcher.

Lạy Chúa, Simmons nghĩ, hãy nghe xem.

Hatcher nói tiếp:

- Hãy đến nơi nào đó ta nói chuyện một chút. Đây là chuyện riêng.

Chuyện riêng? Chuyện riêng? Cái quái gì mà chuyện riêng. Simmons chẳng nợ ai một đồng nào. Tiền trợ cấp khi li dị vợ đã trả xong. Kể cả tiền mua chiếc xe jeep cũng đã trả rồi.

- Anh có 20 phút để sưởi ấm đít lên, - viên phi công nói khi những người còn lại trong đội theo anh ta vào đầy trong nhà. - Họ lại đang chất hàng lên cho chúng ta rồi.

- Chúng ta có thể vào văn phòng của chủ nhiệm, - Simmons nói. - Ông ấy đi Helena đôi ba ngày.

Anh dẫn Hatcher vào một căn phòng nhỏ có kê một cái bàn, mặt bàn trống trơn chỉ có mỗi cái máy điện thoại, một tủ đựng sách có cửa kính kiểu cổ lỗ đựng nhiều sách báo và một giá treo nón. Tấm lịch treo trên tường là của Công ti Cung Cấp Cỏ Khô và Thức Ăn Gia Súc ở Shelby. Hatcher nhìn quanh văn phòng và nghĩ bụng vị chủ nhiệm này hoặc phải là người ngăn nắp cực kì hoặc là phải là người làm biếng không tưởng được. Simmons ngồi lên một góc bàn, nói:

- Hãy vớ lấy cái ghế mà ngồi.

Rồi Simmons ngồi xuống. Trông anh có vẻ sợ chết khiếp. Anh vội hỏi:

- Có việc gì thế?

- Tôi làm việc ở Ủy ban quân báo. Chúng tôi đang tổng kết vụ Cody, - Hatcher nói.

- Ôi lạy Chúa, tôi biết mà. Tôi biết đúng là việc ấy. Quỉ bắt nó đi, tôi còn phải trải qua việc đó bao nhiêu lần nữa? Tôi đã ra khỏi cái quân đội khốn kiếp ấy gần 15 năm rồi và họ cứ tổng kết cái vụ Cody mãi suốt từ đó đến nay.

Hatcher ngạc nhiên vì phản ứng của Simmons. Nhưng phản ứng ấy cũng tiết lộ có một điều bí ẩn đây. Dường như nỗi sợ hãi ghê gớm nhất của Simmons đã bùng lên và siết chặt lấy yết hầu anh. Hatcher nhận thấy những biểu hiện ấy và ngay tức khắc anh biết linh cảm của anh là đúng. Điều anh phải làm bây giờ là ép cho Simmons phun ra sự thật. Anh nói:

- Đó chỉ là việc thường lệ thôi, chẳng có lí do gì để khùng lên với tôi.

- Tôi đã ra đây 10 năm rồi, - Simmons nói. - Cố quên đi tất cả chuyện đó. Tôi không cần... - Anh buông lửng câu nói.

- Chỉ cần nêu vài kết luận mơ hồ thôi, - Hatcher nói. - Mất chừng một phút là xong.

- Nhưng tôi nghe nói người ta đã chính thức tuyên bố là Cody chết rồi cơ mà.

- Điều ấy đúng.

- Thế thì còn cái quái gì nữa...

- Vấn đề là có một hay hai điểm chúng tôi cần làm sáng tỏ.

- Tôi không thể nhớ lại được, sự việc đã xảy ra quá lâu rồi, ông bạn ạ. - Simmons nói. - Đã 15 năm rồi. Tôi đã thấy rất nhiều người chết ở Việt Nam. Tất cả bọn họ đều là loại bỏ chạy cả.

- Đây là vấn đề về người chỉ huy máy bay, Cody. Cha của anh ta đã là Đại tướng Tổng tư lệnh của toàn bộ chiến trường đó. Tôi chắc là anh còn nhớ ông ấy, Simmons?

Simmons bắt đầu nổi giận, nhưng đây chỉ là kiểu nổi giận để tự vệ.

- Này, không cần biết tên ông ta là gì, - Simmons càu nhàu. - Tôi không nhớ. Tôi không muốn nhớ. Tôi đã mất 15 năm để cố quên đi tất cả mọi chuyện đó.

- Tất cả mọi chuyện gì?

- Mọi việc xảy ra ở bên đó. Mười hai tháng trong cuộc đời tôi mà tôi muốn... cố làm cho mình tin là không bao giờ xảy ra nữa. Đủ khổ lắm rồi... Vả lại cả bọn họ trông giống y như nhau ở khoảng cách xa như thế.

- Ai?

- Phi hành đoàn bị rơi.

- Xa bao nhiêu?

- Phía bên kia sông. Anh biết đây, chúng tôi bay trên trực thăng Huey của Sea-Air Rescue (Đội Cấp Cứu Hải Không). Khi anh đi cấp cứu, không bao giờ anh ở ngay... trên đầu họ.

- Ừ, đó là một trong những điểm mà tôi muốn anh kể lại - Hatcher nói và lấy một bìa. đựng hồ sơ trong cặp ra, lật những trang trong ấy. Anh để cho câu nói treo lơ lửng, nhìn Simmons đang sa dần vào bẫy. Có nhiều tội lỗi ở chỗ này, anh nghĩ, gã này rất mềm, hắn đã thua nhưng chưa chịu nói ra hết. Anh chờ thêm một lát nữa rồi thì thầm:

- Vấn đề là chúng tôi thấy điểm khác nhau chút ít trong các báo cáo.

- Khác nhau?

- Ừ, chỉ một điểm nhỏ. Trong lời khai ngay sau khi tai nạn xảy ra anh báo rằng chiếc phi cơ đó đụng vào cây và nổ tung ngay tức khắc. Chờ một chút, đây rồi. “Chúng tôi còn cách khoảng một cây số thì máy bay anh ta lật ngược và cả khu rừng dường như nổ tung. Tôi thấy chẳng ai có thể sống sót được”.

Simmons gật đầu:

- Đúng thế!

- Nhưng trong cuộn băng thu lại của Ban Thanh tra năm 1981, anh bảo anh ở gần sát đủ để cảm thấy hơi nóng khi máy bay nổ và anh có thể nhìn thấy không một ai nhảy ra khỏi máy bay. Rồi các anh bắt đầu bị hỏa lực mạnh ở dưới đất tấn công và phải bỏ ý định cấp cứu.

- Chuyện đó thường xảy ra. Thế thì sao?

- Thế thì điều nào đúng? Anh đã ở gần sát đủ để cảm thấy hơi nóng hay ở cách xa một cây số khi máy bay anh ấy lật ngửa?

Simmons quay đi bước về phía cửa:

- Tôi phải đi. Còn phải cho nai ăn.

- Anh còn 15 phút nữa. - Hatcher thì thầm nhỏ nhẹ. Anh quyết định bắn phát súng cuối cùng. - Này, Simmons, tôi chẳng nói mẹ gì hết dù anh đã nói dối Ban Thanh Tra. Bây giờ tôi chỉ muốn biết sự thật. Anh nói cho tôi biết, câu chuyện sẽ chấm dứt ngay tại đây.

Simmons thình lình quay lại, mặt anh đỏ lên vì giận.

- Việc quái gì tôi phải nói dối?

- Viên sĩ quan thẩm vấn ghi trong báo cáo vào năm 72 rằng anh đã tỏ ra sợ hãi. Thực ra, ông ta ghi rằng anh nói ấp a ấp úng. Mọi việc đã qua, anh đã trở về mặt đất nhưng anh vẫn còn sợ hãi như thế.

- Tôi mới sang đó được ba tuần, anh bạn ạ, - Simmons thình lình nói. - Đó mới chỉ là chuyến bay thứ ba của tôi. Chắc chắn tôi đã sợ hãi. Tôi cũng sợ hãi cả trong ngày chót tôi ở bên ấy. Lúc ấy tôi 19 tuổi. Lúc nào tôi cũng sợ hãi.

- Sợ hãi không phải là hèn nhát. - Hatcher nhỏ nhẹ nói.

- Hèn nhát? Đó là điều anh nghĩ à?

Hatcher lắc đầu.

- Đó chẳng phải là điều tôi nghĩ. Nhưng có thể đó là điều anh nghĩ.

Simmons mân mê chiếc nón len trong tay và lắc đầu.

- Người ta chả bao giờ quên nó được. Khủng khiếp là cái xứ ấy. - Anh la lên xúc động mạnh mẽ làm Hatcher phải ngạc nhiên. Anh cảm thấy thương hại Simmons nhưng chưa đến mức bỏ đi.

- Anh thề với tôi là anh đã không nhìn thấy ai ra khỏi chiếc máy bay đó thì tôi sẽ đi ngay, - Hatcher thì thầm. - Nhưng nếu anh nói dối, tôi sẽ biết ngay.

- Đã lâu quá rồi...

- Anh đã không phải tuyên thệ là nói thật, Simmons. Vậy có lẽ anh đã lầm...

- Bây giờ, tôi cũng không phải tuyên thệ.

- Simmons, có thể là Cody đã thoát ra khỏi chiếc máy bay đó không?

- Mọi việc đều có thể xảy ra.

- Anh nghĩ thế nào?

Có tiếng gọi to phía ngoài: “Còn 5 phút, Simmons”.

- Xong ngay, - Simmons hét lại. Anh nhìn lại Hatcher.

- Tại sao họ lại kiểm tra việc này nữa? Mọi việc đã xong rồi cơ mà?

- Có khả năng Cody còn đang ở Cambodia, - Hatcher nói dối. - Trước khi chúng tôi xì ra vụ đó, tôi phải biết chắc rằng anh ấy không chết vào ngày hôm ấy.

- Tất cả đều nằm trong báo cáo. Tôi đã kể cho họ nghe tất cả. Máy bay của anh ấy luôn luôn lao xuống. Đó là một đội bay tự sát, ai cũng biết điều đó.

- Anh muốn nói đến đội bay của Cody?

- Phải, anh ta điên bạn ạ. Điều đầu tiên tôi được nghe khi tôi về Đội Cấp Cứu Hải Không là “Anh ở toán yểm trợ cho Cody”, họ bảo. “Anh sẽ bận hết hơi đây. Tốt hơn là phải biết giữ bình tĩnh”.

Cảnh tượng xưa vụt hiện ra trong đầu Simmons. Anh dụi mắt nhưng nó vẫn còn đấy, bao giờ cũng thế. Bóng một người chạy khập khiễng điên cuồng về phía bờ sông, tuyệt vọng đưa tay vẫy, rồi tiếng nổ bùng lên, đám lửa kinh hoàng tỏa ra bao trùm các ngọn cây. Nhưng viên phi công vẫn cứ chạy, vẫy tay, một bóng ma in bóng trên nền lửa cho đến khi hình tượng này nhòe đi trong óc Simmons.

- Có thể... - Simmons nói.

- Có thể sao Simmons? Có thể Cody không chết, đó là điều anh muốn nói phải không?

Hatcher biết anh đã đẩy Simmons tới, hầu như có thể cảm thấy nỗi đau lòng của anh ta. Đó là một phần công việc, biết được khi nào họ sẽ gục và cứ tiếp tục siết chặt thêm.

- Tôi chưa bao giờ nói anh ấy chết, - Simmons hét. - Tôi chưa bao giờ nói câu ấy cả. Anh ấy có thể thoát ra khỏi nơi ấy mà tôi không nhìn thấy. Họ đang bắn chúng tôi, hỏa lực rất mạnh...

- Đạn bắn sát lắm phải không?

- Đạn chiu chiu bắn vào chiếc Huey chỉ cách mặt tôi chừng một mét.

- Do đó buộc phải chuồn ngay, phải không?

Simmons quay mặt đi. Ngoài kia tiếng rú quen thuộc của máy bay trực thăng vọng đến khi viên phi công nhấn thêm ga.

- Tôi phải đi.

- Thế thì tôi chờ đến lúc anh về.

- Lạy Chúa, anh muốn tôi kể cho anh cái quái quỉ gì?

- Sự thật.

Simmons đập mu bàn tay vào khung cửa đánh sầm, hét lên:

- Chết tiệt! Chết tiệt hết đi! Chết tiệt cả anh nữa!

- Anh luôn bị cắn rứt phải không?

Simmons không trả lời. Hatcher lại nói:

- Hãy lưu ý này, nếu anh đã trông thấy một người chạy ra khỏi máy bay ngày hôm ấy thì có thể chúng ta sẽ tìm ra hắn.

Simmons rên rỉ:

- Đêm đêm tôi vẫn có những cơn ác mộng. Chẳng có gì giúp được tôi. Vợ tôi bỏ tôi… Mọi cái đều trở thành cứt heo cả.

- Có thể việc này sẽ giúp anh quét sạch các giấc mơ đó. - Hatcher gợi ý, nhưng Simmons lắc đầu.

- Vì thế anh tới đây để quên nó đi?

Simmons im lặng gật đầu.

- Và chẳng có hiệu quả gì.

Nước mắt bỗng trào ra từ đôi mắt Simmons. Anh chớp chớp mắt cố kìm lại, nhưng nó cứ từ từ chảy thành dòng trên mặt.

- Tôi cứ suy nghĩ mãi, có lẽ tụi tôi đã có thể bốc anh ấy ra khỏi nơi đó, nhưng chúng tôi đang bị bắn tơi tả, vì thế tôi bảo họ… “Hãy ra khỏi nơi này, tôi chẳng nhìn thấy ai cả”. Mẹ kiếp! Điều đó cắn rứt lương tâm tôi ngay từ khi tụi tôi chưa về đến căn cứ và nó cứ bám riết lấy tôi, tôi không thể giữ được mãi nhưng không thể... nói về việc đó; gặp những người quen bên đó, tôi thấy sợ hãi, anh bạn ạ, tất cả chỉ có thế!

- Vậy là Cody đã thoát ra khỏi máy bay. - Hatcher nói toạc ra.

Simmons đang khóc thầm và cố giấu không để lộ ra. Anh tựa vào cửa sổ, nhìn chiếc trực thăng thổi cuốn lên các đám mây tuyết trong lúc chờ nóng máy. Cuối cùng anh hít một hơi thật sâu rồi thở dài nói:

- Một người trong bọn họ đã thoát.

- Người ta cho rằng đã tìm được những di vật của người xạ thủ ngay tại chỗ, Hatcher nói. - Nhưng không tìm thấy Cody.

Simmons nhìn vào mặt Hatcher, gương mặt anh nhăn nhúm vì đau khổ. Anh hỏi giọng run rẩy vì cảm thấy tội lỗi.

- Cái quái quỉ gì đã xẩy ra với Cody?

Hatcher nhún vai và lắc đầu.

- Nếu khi nào anh tìm ra... - Simmons vừa bắt đầu nói thì có tiếng gọi to từ ngoài trực thăng lần nữa: “ Simmons, anh làm cái quái gì đấy? Chúng ta còn việc phải làm”.

- Tôi sẽ cho anh biết, - Hatcher nói. - Còn điều này nữa, Thai Horse có nghĩa gì đối với anh không?

- Anh muốn nói đến heroin?

- Chỉ có nghĩa thế thôi à?

- Với tôi chỉ có nghĩa đó.

- Cảm ơn. Anh nên đi đi. - Hatcher nói.

Khi Simmons bước ra phía cửa văn phòng, Hatcher đứng dậy và đập nhẹ vào tay anh:

- Hãy nghe tôi một phút, những gì xảy ra bên ấy thì chẳng liên quan gì đến đây. Anh hãy quên nó đi. Đó là một cuộc đời khác. Còn những điều anh đã làm thì có lẽ ai cũng phải làm như vậy. Nếu anh đã bỏ không cứu mạng sống của Cody, thì ngược lại có lẽ anh đã cứu mạng sống của phi công, phi công phụ và của anh. Ba đổi một, đó là sự trao đổi đáng làm.

- Tôi cũng đã nghĩ thế, - Simmons nói. - Nhưng nó chẳng giúp gì cho tôi.

- Lương tâm có thể là một người bạn đường đáng sợ. - Hatcher thì thầm.

- Điều đó cũng chẳng giúp được gì, - Simmons cay đắng nói.

Anh kéo nón xuống thật chặt và rời phòng. Hatcher nhìn qua cửa sổ trong khi Simmons chạy băng qua tuyết đến trực thăng. Anh tự nghĩ, được, như vậy Cody có thể đã thoát ra. Và nếu anh ấy đã thoát ra anh ấy có thể còn sống và như thế có nghĩa là anh ấy chắc chắn không chết.

Vậy thì anh ấy ở đâu 15 năm nay?

- Anh đã mất dấu hắn? Anh đã mất dấu hắn? - Sloan nói nhẹ nhàng nhưng nghiêm khắc. - Sao anh lại có thể mất dấu một người ở... hừ, chỗ ấy tên là gì nhỉ?

- Shelby, - Zabriski trả lời. - Hắn không trở lại Billing, thưa đại tá. Hắn đáp máy bay đi Spokane và từ đấy đi Seattle, rồi lại bay đi Los Angeles ngay,

- Bây giờ anh đang ở đâu?

- Los Angeles. Khách sạn Quốc Tế. Hắn vừa đi khỏi đấy sáng nay.

- Đi đâu?

- San Diego.

- San Diego! Quái quỉ. - Sloan ngập ngừng một lát rồi nói - Chờ một phút. Tôi chuyển anh sang đường dây chờ, cứ đợi đấy.

Sloan bấm nút chờ, và quay sang một trong bốn chuyên viên máy vi tính làm việc trong bộ chỉ huy nhỏ xíu của hắn.

- Holloway, tôi cần biết nơi ở hiện tại của hai người bên Hải Quân. Thiếu tá Ralph Schwartz và trung tá Hugh Fraser. Tôi có một người đang chờ trên đường dây liên lạc đường dài. - Sloan đánh vần hai cái tên.

- Xin một phút, thưa ngài, - Holloway nói. Sloan sốt ruột gõ gõ lên bàn và lật xem hồ sơ của Murph trong khi Holloway đánh máy các câu hỏi vào máy vi tính. Bộ chỉ huy điều hành của Sloan gồm ba phòng trong một phòng công sở nhỏ cách Nhà Trắng bốn khu nhà. Có một phòng chờ nhỏ do một viên thư kí phụ trách, phòng làm việc chính, trong đó có bốn máy vi tính nối liền với một mạng lưới điện thoại và vệ tinh, còn phòng riêng của Sloan thì không để bất cứ một thứ tư liệu nào.

Chỉ không đến hai phút người trung sĩ đã tìm ra câu trả lời.

- Ra rồi, thưa ngài, - viên trung sĩ nói. - Fraser đã về hưu được 18 tháng, thưa đại tá. Ông ta là phó chủ tịch của một hãng Hàng không nhỏ ở Seattle. Không có địa chỉ dân sự hiện tại trên giấy. Trên mảnh giây kia... ơ, đây rồi. Ralph Schwartz: bây giờ ông ta là trung tá thực thụ, thưa ngài, chủ nhiệm khoa hướng dẫn không lưu ở Trường Không-Hải Quân San Diego.

- Thế đủ rồi, trung sĩ, cảm ơn. - Sloan nói và bật nút liên lạc trở lại với Zabriski ở Los Angeles. - Xong rồi, tôi đã cho tìm ra. Hãy hủy bỏ việc theo dõi và trở về.

- Hủy bỏ việc theo dõi? - Gã nhân viên ngạc nhiên hỏi.

- Hủy bỏ! - Sloan nói và gác máy. Hắn bắt đầu cười to. Hắn nghĩ: Thằng chó đẻ, nó muốn đùa với ta, chứng tỏ cho ta thấy nó vẫn còn đáng giá. Người đàn ông có cái giọng khàn khàn ấy chẳng cố tình che đậy dấu vết của mình, anh chỉ muốn biết phải mất bao lâu họ mới bắt kịp anh. Sloan nhìn đồng hồ. 7 giờ tối, ở ngoài bờ biển là 4 giờ chiều. Hatcher đã đi khá nhiều trong 24 tiếng đồng hồ.

Một chuyên viên vi tính khác cắt ngang dòng suy nghĩ của hắn.

- Có một máy vi tính gọi đến, thưa đại tá.

- Từ đâu đấy?

- Căn cứ M.

Người gọi đang dùng một máy vi tính biến điện (computer modem) để gọi. Đó là phương pháp để bảo vệ đường dây điện thoại khỏi bị dò xét. Màn ảnh vi tính trước mặt người chuyên viên hiện lên nhiều câu hỏi cần trả lời.

- Mã số:

- Mã số hàng ngày:

- Mã số hành quân:

- Sự chuyển mức:

- Tên mã số tín hiệu gọi:

- Tên mã hóa của anh:

- Số ưu tiên của anh:

- Kiểm tra giọng nói:

Một câu trả lời không đúng từ bất cứ nơi nào trên đường dây sẽ đưa đến sự cắt liên lạc tức thời và cùng lúc bắt lấy số điện thoại gọi để theo dõi. Các con số và các tên gọi lần lượt xuất hiện trên màn ảnh trong thời gian người gọi trả lời các câu hỏi.

- Ông ta đã qua được phần kiểm tra giọng nói. - Người chuyên viên nói.

- Nối đường dây gọi vào hộp xanh. - Sloan ra lệnh và đi vào phòng làm việc của hắn. Hắn đóng cửa lại, mở khóa một ngăn kéo bàn làm việc. Ngăn kéo chứa một điện thoại có bộ phận đổi tần số của cả hai phía và xác lập một tần số khác trên một đường dây chỉ có hai người liên lạc được với nhau. Có hai bóng đèn nhỏ trên đầu chiếc hộp. Bóng xanh bảo đảm với Sloan rằng đường dây không bị nghe trộm. Nếu bóng màu đỏ sáng lên thì cuộc điện đàm được chấm dứt ngay tức khắc.

Sloan trả lời điện thoại:

- Đây là Moon Racer (Nguyệt Xa).

- Đây là Hound Dog (Chó Săn), thưa ngài. Chúng tôi đang gặp rắc rối.

- Tốt thôi, Hedritchch, chúng ta đang nói chuyện trên đường dây trắng.

- Ông bạn đã đánh thắng chúng tôi một cách dễ dàng, thưa đại tá.

- Vẫn lại chuyện cũ?

- Vâng, thưa ngài. Mọi việc đều ổn chừng nào chúng tôi còn giữ được ông ta ở ngoài hồ, việc đảm bảo an ninh ở đó dễ thôi. Nhưng ông ta quyết định đến những chỗ ăn chơi đêm. Tôi đã nói với ông ta là không thể được và tôi cũng không muốn nhắc lại những gì ông ta đã nói với tôi.

Sloan cười khúc khích.

- Tôi hiểu, tôi đã mang ông ta ra, nhớ đấy. Mấy loại người xứ nhiệt đới đều thế cả. Bầu máu nóng và mọi cái đều như thế.

- Bầu máu nóng của ông ta sẽ tung tóe ra đầy sàn nhà nếu ông ta không cẩn thận. Tôi có được phép ngăn ông ta lại không?

- Không. Ông ta là khách mời của Mỹ, không phải là tù nhân. Việc của chúng ta là bảo vệ ông ta dù cho cực nhọc thế nào đi nữa.

- Ông ấy muốn đến vũ trường Spit Personality dự một buổi dạ hội hóa trang. Chúng tôi không thể đảm bảo an ninh ở chỗ ấy dù có cả một đạo quân Israel giúp sức.

- Khi nào?

- Ngày mốt.

Sloan suy nghĩ giây lát.

- Thôi được, chúng ta đành phó thác cho may rủi thôi. Đừng cho ai biết anh đến đây. Hãy đến vào khoảng 11 giờ, báo cho người quản lí biết anh là ai. Sau đó tìm một góc kín đáo ngồi. Đó là cách hay nhất anh có thể làm.

- Sẽ lộn xộn đấy, thưa ngài.

- Luôn luôn là như thế, Hedritchch.

- Vâng, thưa ngài.

Sloan gác máy. Hắn lấy một điếu xì gà Havana dài từ trong ngăn bàn, rút nó ra khỏi ống đựng và đưa qua đưa lại trước mũi nhiều lần, thưởng thức hương thơm của thuốc lá. Rồi hắn châm lửa và lại nhấc chiếc điện thoại xanh lên. Hắn bấm một số.

- Đây? - Một giọng nói trả lời ngày sau hồi chuông thứ nhất.

- Đây là Moon Racer. Ông ấy có rảnh không?

- Có, thưa ngài.

Lát sau một giọng nói hỏi:

- Moon Racer?

- Vâng! - Sloan đáp.

- Ông đang hút thuốc đấy chứ, Moon Racer?

- Vâng. Ông biết tôi đang hút gì không?

- La Fiera.

- Đúng. Tôi đã tìm được hiệu ấy cho ông.

- Có phải là điều phiền toái mà chúng mình đã bàn luận?

- Vâng. Campon sẽ đến một chỗ gọi là Spit Personality ở Atlanta, tiểu bang Georgia, 11 giờ tối ngày mốt.

- Tức là thứ Tư.

- Phải. Có vấn đề gì không?

- Không có vấn đề gì. Hãy thưởng thức điếu thuốc.

- Tôi cũng định thế.

Sloan gác máy, đóng ngắn kéo và khóa lại. Rồi hắn nhấc điện thoại thường, nói:

- Lấy cho tôi chuyến bay sắp tới đi San Diego.