17. GÁI ĐÒ
Windy Porter ngồi ở chiếc bàn thường lệ trong góc quán Queen’s Pub (Hoàng Hậu), nhìn những người Thái đang cố phóng lên một con diều Chula lớn dài ít nhất khoảng 1m8 và đang gặp khó khăn. Ở đầu bên kia Công viên Sanam Luang, nhiều người đấu diều Pakpao đã phóng lên không những con diều nhỏ một người điều khiển, và đang la hét động viên toán người bên kia.
Khi con diều to hình rồng cuối cùng đã bắt gió, lồng lộn bay lên không, một con diều Pakpao tấn công, bay ngoằn ngoèo về phía con diều to Chula, cố vượt qua nó, bay đến cuối sân của phe diều Chula và thắng cuộc. Diều Chula rất khó điều khiển, nhưng đội chơi diều rất kinh nghiệm, họ cắt ngang đường đi của con diều pakpao, cản dây của nó bằng dây của họ và ép con diều nhỏ phải lao xuống đất. Có rất nhiều tiếng hoan hô và bấy giờ đến lượt phe chơi diều Chula la hét thách thức, còn người trẻ tuổi có con diều pakpao nhặt con diều bị rách lên rồi đi về phía sân của toán mình với vẻ bẽ bàng. Một người chơi diều pakpao khác có con diều màu tím với cái đuôi đỏ lấp lánh, quấn chặt dây sẵn sàng chạy...
- Cá một tờ đỏ là con diều Pakpao thắng, - Porter nói với Gus, người chủ quán, và xòe tờ bạc 100 baht màu đỏ lên bàn.
- Bắt cá. - Người chủ quán, dân gốc Anh trả lời và nhận độ cá 5 dollar.
Tay chơi diều này thấp, vạm vỡ, bắt đầu chạy về phía đội Chula, rồi thả dây cho diều lên cao, lên cao nữa, đến gần 30 mét, mới bắt đầu lái diều về mục tiêu giả, di chuyển như một hậu vệ giỏi đưa bóng lên, kéo con diều màu tím xuống, điều khiển nó tránh xa sợi dây dài của con diều Chula rồi vừa luồn qua dưới con diều hung hãn hình rồng một cái là anh thả ngay dây cho diều vút lên. Anh ta rất giỏi, điều khiển diều xuất sắc, cho diều lao xuống dưới con rồng to khi chúng sắp sửa đụng nhau, giữ nó lại trong một giây rồi thả cho bay lên chỉ quẹt nhẹ vào con diều to một tích tắc, rồi anh ta tiếp chạy đến đích và thắng cuộc.
- Thật là một lối chơi thể thao. - Porter khoái chí hét lên. Hắn quay sang gã chủ quán rồi với vẻ hài lòng, thỏa mãn. - Chỉ cần trừ vào giấy tính tiền thôi, Gus.
Porter thích những trận đấu diều. Hắn rời văn phòng lúc 4 giờ 30, đi bộ khoảng hai cây số qua các đường phố đông đúc của Bangkok cốt để tránh các chỗ tắc nghẽn xe cộ ồn ào, đến quán Hoàng Hậu và bao giờ cũng ngồi ở chiếc bàn trong góc có tầm nhìn quang đãng ra công viên Sanam Luang và ngọn Tháp Vàng lấp lánh trên chùa Sakhet. Porter được điều về Bangkok từ khi chiến tranh ở Việt Nam kết thúc. Hắn thích vẻ đẹp cổ kính của thành phố này và đặc biệt là dân tộc Thái với thói quen phổ biến là nói: “Mai pen rai” có nghĩa là “Không hề gì”. Hắn đã từng là bạn thân của Buffalo Bill Cody trong nhiều năm, vốn là dân Boston chính cống. Một ngày hè năm 1968, hắn bất ngờ bỏ công việc điều hành ở một trong những nhà băng lớn nhất của thành phố để nhận lời đề nghị của Bill Cody giữ một chân trong Ban tham mưu của Buffalo Bill ở miền Nam Việt Nam, hắn đã ra đi để tìm mục đích cho cuộc đời ở một nơi mà đa số người ta đều sợ hãi và muốn tránh xa. Sau mười năm sống trong bầu không khí lố lăng ở Back Bay với công việc nhà băng thấp hèn hàng ngày, mà hầu hết chỉ là từ chối cho vay và tịch thu tài sản của những kẻ không gặp may, Sài Gòn là một luồng gió xuân đối với Porter. Vị đại tướng đã sắp xếp cho hắn về làm công tác cố vấn tình báo cho tòa Đại sứ ở Bangkok khi cuộc chiến tranh mà lúc đầu có vẻ rầm rộ này thất bại. Chuyến về thăm Hoa Kì cuối cùng của Porter cách đây đã mười năm rồi.
Dù xấp xỉ năm chục tuổi, Porter vẫn cắt tỉa tóc mai, nuôi một hàm râu mép thật rậm mà hắn chải sáp hàng ngày, và đã học ngôn ngữ cùng phong tục của Thái Lan. Vì những mục đích thực tế, hắn đã trở thành dân bản xứ. Hắn cũng sùng bái Ông Già và xem công việc ngầm theo dõi Wol Pot của hắn là một trách nhiệm được đặc ân giao phó.
Porter không được huấn luyện về công việc tình báo và theo dõi, nhưng hắn đã cố xoay xở để theo kịp gã cung cấp tên người Thái Lan ấy, mặc dù hắn đã gặp nhiều điều bực bội. Wol Pot đã dời chỗ ở hai lần kể từ lần đầu tiên hắn bàn chuyện Murph Cody với Porter. Rõ ràng hắn hay di chuyển và sợ hãi một điều gì đó. Liệu gã Thái có thể lừa bịp họ không? Nếu thế, làm cách nào hắn biết được về chuyện Murph Cody? Tại sao hắn lại chọn Cody? Và tại sao Wol Pot lại từ chối đề nghị của Porter không vào trong Tòa Đại Sứ ở để được bảo vệ? Rõ ràng là con người này không tin ai cả.
Porter xem đấu diều cho đến lúc quả cầu lửa mặt trời tỏa sáng long lanh từ từ lặn xuống sau Núi Vàng, thoạt đầu phản chiếu ngọn tháp vàng lấp lánh, rồi in bóng nó lên nền trời đỏ thẫm, và cuối cùng hòa cái đường nét hình quả chuông đó vào bóng tối. Màn đêm bắt đầu buông xuống Bangkok, các ngọn đèn bật sáng, khách du lịch rời khách sạn đi tìm các thú vui đêm, còn Windy Porter rời quán Hoàng Hậu, vội vã đi qua vài khu nhà tới công viên Bho Fhat ở bên kia chùa Sakhet, đấy là chỗ hắn thức canh trên cái ghế dài quen thuộc khuất sau các bụi hoa nhài.
Trong đầu, Porter chẳng thắc mắc gì về việc Wol Pot đang sợ hãi một cái gì, sau lần tiếp xúc đầu tiên Wol Pot trở thành thỏ đế. Mới đầu hàng ngày hắn sinh hoạt phóng túng. Porter đã từng theo hắn đến một chiếc thuyền neo trên sông, đến những nơi hắn đột nhập ăn đêm dọc theo các con kênh, đến các ổ gái điếm trên đường Potterpong và đặc biệc là Yawaraj, khu vực người Hoa. Gã con hoang nhỏ con này rất ghiền món ăn nóng của người Hoa. Thế rồi hai hôm trước đây Pot rời phòng ở và biến mất. Porter hoảng hốt. Con chồn nhỏ ấy là người duy nhất hắn biết có thể dẫn bọn hắn đến Murph Cody, nếu Cody còn sống. Hắn đã loan tin đi khắp Thái Lan, đến các tay chỉ điểm của hắn, đến các nơi liên lạc, các bạn bè, và tìm đến vài chỗ dẫn mối, nhưng tất cả đều uổng công.
Thế rồi Porter gặp may. Một nhà sư, bạn lâu năm của Porter, nghe nói Porter đang tìm một người tên là Wol Pot. Ông ta bảo:
- Chắc chẳng ai khác ngoài người đàn ông đã đứng tuổi mới vào tu trong chùa Sakhet, và người ta đã bắt gặp đêm nào cũng bỏ chùa đi. Tư cách thật lạ lùng vì kỉ luật ở tu viện rất nghiêm khắc mặc dù là hoàn toàn tự nguyện.
- Hắn vào tu viện khi nào? - Porter hỏi.
- Mới được hai ngày. Bởi thế mới thấy cách cư xử của gã có vẻ lạ lùng, - nhà sư đáp.
- Khob khun krap, - Porter nói lời cảm ơn nhà sư bằng tiếng Thái. - Tôi xin thầy khoan kỉ luật hắn cho tới khi tôi xác minh lại xem có đúng là hắn không?
Nhà sư đồng ý. Nếu đó là Wol Pot thì hắn ta đã làm một việc táo bạo, Porter nghĩ, nhưng chắc chắn là cách đánh lừa khéo léo. Porter biết rõ các yêu cầu đối với các sư sãi mới vào tu đạo Phật, dòng Khất sĩ. Một trong những cảnh quen thuộc nhất ở Thái Lan là hàng trăm nhà sư vận áo cà sa, đầu cạo trọc, đi trên các đường phố hoặc ngồi tham thiền trong hàng trăm ngôi chùa ở thành phố, trong các tu viện hoặc các chùa chiền, những kiến trúc phổ biến nhất ở xứ này. Lần đầu tiên đến Bangkok, Porter đã bực mình với các sư sãi, họ làm hắn nhớ đến các nhà sư Ấn Độ đã làm cho đa số các phi trường ở Mỹ có một cảnh tượng lạ lùng bởi vô số các chùa chiền của họ. Nhưng trong khi hắn không định hiểu biết các lẽ huyền bí của đạo giáo phương Đông, thì dần dần hắn lại đi tới chỗ chấp nhận và kính trọng những người đã thế phát này.
Trong mùa mưa, vào lúc cuối hạ sang thu, các dãy tu viện này đông nghẹt hàng ngàn chàng trai trẻ. Truyền thống của họ là phải vào chùa tu, có khi hai tuần, có khi sáu tháng, học hỏi đạo hạnh, hãm mình từ bỏ vật chất. Trong thời gian ở đó, họ bắt buộc phải tuân theo 227 điều răn, không được nói dối, nói vô căn cứ, không tà dâm, không uống rượu, không xa hoa và vui chơi lông bông. Vật sở hữu duy nhất của họ là chiếc áo cà sa quen thuộc và một chiếc bình bát bằng đồng mà họ dùng để xin hai bữa cơm hàng ngày mà giới luật cho phép. Sự đi tu của họ là điều tự nguyện dâng hiến, không có gì cấm họ bỏ về bất cứ khi nào họ muốn. Nhưng khi họ còn phát nguyện giữ giới luật thì họ phải tuân theo các yêu cầu. Buổi tối họ tụng kinh trong chùa và đi ngủ lúc mặt trời lặn, thức dậy trước bình minh để ra đường với chiếc bình bát đi xin bữa ăn đầu tiên trong ngày.
Vì cửa chùa rộng mở đối với mọi người và các sư sãi được tự do đi lại từ chùa này sang chùa khác nên nơi ấy thật là một chỗ lí tưởng để ẩn náu, đặc biệt là vào thời gian này, lúc có rất nhiều người vào tu.
Đêm ấy Porter đến ngồi ẩn ở phía bên kia ngôi chùa có mái vòm thếp vàng to lớn chờ đợi. Mặt trời chỉ vừa lặn hắn đã thấy một vị sư áo vàng lẻn ra khỏi chùa. Porter đi theo nhà sư nhỏ thó đang bước đều đặn đến Hua Lamphong - nhà ga chính cách chùa chừng hai cây số, ở đó nhà sư lấy quần áo để trong một hốc tủ khóa của nhà ga và vào phòng nghỉ thay đồ. Khi ra nhà sư đã diện bộ đồ tây, Porter nhận ra ngay tức khắc - đúng là Wol Pot. Gã Thái kêu một chiếc taxi và lộn trở lại Yawaraj, khu vực người Hoa, để ăn tối, trong một cửa hàng nhỏ không bảng hiệu ở khu cũ. Ăn đã rồi hắn thả bộ xuống kênh Klong Phadung, một trong nhiều nhánh của con sông chính Mae Nam Chao Phraya, ranh giới phía Tây của thành phố; ở đây Pot mặc cả giá với cô gái điếm nhỏ xíu, một trong nhiều cô gái đò buôn bán hàng hóa của họ trên những chiếc hang yao, một loại ghe đuôi dài được che kín bằng những tấm phên che. Pot vui chơi một giờ đồng hồ với cô gái trẻ rồi quay trở lại ga xe lửa, thay lại chiếc áo cà sa và về tu viện lúc nửa đêm.
Đó là một buổi hành lễ đối với Pot và Porter thấy khó chịu mặc dù đêm nào hắn cũng đi theo Pot và chỉ ra về khi biết gã Thái này đã an toàn trở về nơi trú ngụ.
Đêm nay Porter hơi bực mình vì hắn đã hi vọng chuyển được việc thức canh đêm của hắn cho một người mới là Hatcher. Hắn không chắc có thể tin vào được Hatcher. Hatcher là người của Sloan. Mà Porter không bao giờ ưa Sloan, không bao giờ ưa những cuộc chiến tranh trong bóng tối hắn làm, phá vỡ cả mọi luật lệ và hoạt động, cái mà Porter cho là thể chế đúng đắn. Nhưng bây giờ là chuyện của Sloan và vì Hatcher chưa ra mặt nên Porter còn phải tiếp tục theo dõi để chắc rằng Pot không lẻn ra ban đêm và biến mất lần nữa, mà lần này thì toi hết công hắn theo dõi bấy lâu.
Nếu Pot đi chơi thì hắn sẽ rời khỏi chùa ngay sau khi mặt trời lặn. Porter châm một điếu thuốc “555” và chờ đợi.
Đường phố im ắng rất ít xe cộ qua lại. Tiếng ồn ào đinh tai nhức óc của thành phố đã lắng xuống. Một bà già hối hả đi lại miếu cô hồn ở ngay cạnh chùa Sakhet, đặt một vòng hoa lài trước bệ cầu nguyện, cắm một bó nhang vào đất và đốt lên. Rồi bà chắp tay lại, vái lạy trong nhiều phút, cầu khẩn sự rộng lượng của thần linh. Porter tự hỏi bà ấy đang cầu xin gì. Thêm một đứa cháu mạnh khỏe? Một mùa bắp tươi tốt? Một vé số trúng?
Dòng suy nghĩ của hắn bị cắt ngang vì Wol Pot đã ra. Cánh cửa bên hông đền chỉ hé mở vừa đủ để Pot lách người qua. Porter dụi tắt thuốc, nhìn gã đàn ông nhỏ thó đang nép mình trong bóng tối, dáo dác nhìn quanh, rồi đi về phía ga xe lửa. Porter bám theo, giữ ở xa một khoảng cách đủ để Pot khỏi nghi ngờ. Hắn tập trung quá vào Pot nên không thấy hai người đàn ông khác cũng đang bám theo gã Thái này.
Họ là người Hoa, nhỏ con và gân guốc, mặc bộ quần áo màu đen mà nhiều người Hoa ưa chuộng. Họ theo Pot đến ga xe lửa, ở đó hắn thay quần áo thường dân rồi đi đến bìa khu Yawaraj. Pot ra khỏi taxi, thả bộ xuống đường Worachak ồn ào náo nhiệt, một trong những phố chính của khu vực người Hoa. Khi hắn rẽ vào những con hẻm ồn ào, chật hẹp của khu vực người Hoa, hai gã người Hoa tách ra, mỗi gã đi bên đường. Pot thả bộ qua các hẻm ngoằn ngoèo sáng đèn nê ông trong hai gã kia vẫn đeo sau hắn. Chỉ đến lúc Pot đi vào một quán ăn nhỏ trong con hẻm nằm trên đường Bowrong thì hai gã Tàu mới nhận ra là còn có Porter cũng bám đuôi Wol Pot.
Một trong hai gã mới khoảng hai mươi tuổi mái tóc dài sấy khô và để một hàng ria mép. Gã kia già hơn, mặt chằng chịt sẹo và dữ dằn. Một vết cắt sắc chia đôi mày phải của hắn, làm con mắt bên dưới hơi bị híp lại. Gã là người cầm đầu và chính gã đã phát hiện ra Porter. Gã đã trông thấy tên Mỹ to con ở trước ga xe lửa và bây giờ lại thấy hắn vừa ra khỏi taxi ngay phía sau Pot. Gã huých tên đồng bọn và hất hàm về phía bên kia đường, chỗ Porter đang giả vờ xem hàng trong tủ kính để tìm Pot trong quán ăn. Khi Pot đã ngồi xuống, Porter vào một quán mì đối diện ở phía bên kia đường, tìm một chỗ ngồi gần cửa sổ phía trước, gọi món ăn trong khi vẫn không rời mắt theo dõi gã người Thái đó.
Hai gã người Hoa đâm ra chú ý đến cả Porter lẫn Pot. Bọn họ lại quyết định tách ra, gã trẻ theo dõi tên Mỹ, còn gã Mắt Sẹo bám sát tên người Thái. Họ chỉ mới theo dõi Wol Pot ngày hôm ấy nên không nắm được thói quen hằng đêm của hắn. Nhưng Mắt Sẹo tỏ ra chẳng kính nể gì hắn lắm. Pot đã lẩn thoát khỏi tay họ thành công và tìm ra chỗ ẩn náu rất tốt, nhưng hắn lại làm đổ bể tất cả vì đã đi ăn ở khu vực người Hoa, nơi hắn dễ bị lộ nhất trong thành phố. Bây giờ thì hình như tên Mỹ cũng đã hiểu được vì sao Pot lại đi trốn. Gã Thái rất khôn ngoan, nhưng hắn cũng tỏ ra vô ý một cách ngu muội.
Pôt lấy ra tờ 100 baht màu đỏ, giơ lên đầu. Cô gái đã trông thấy, nheo mắt nhìn kĩ tờ giấy bạc rồi lắc đầu. Pot ngạc nhiên vì nghĩ rằng cái giá hắn đưa ra là đã rộng rãi rồi. Hắn lại rút ra tờ giấy 500 baht màu tím và giơ lên. Nàng cân nhắc rồi đưa hai bàn tay ra, lòng bàn tay úp vào nhau, rồi từ từ nắm lại. Pot suy nghĩ một lát rồi đưa cả hai tờ tím và đỏ lên. Nàng gật đầu. Cuộc thương lượng đã xong.
Windy Porter nhìn Wol Pot leo qua hai chiếc thuyền để sang chiếc hang yao của cô gái đò hắn mới bắt. Hai người đứng yên trên khoang thuyền một lát, nói qua nói lại, rồi cuối cùng cô gái nhận hai tờ giấy bạc và dẫn Pot vào trong khoang thuyền phía sau được che bằng phên đan.
Nếu Porter đoán đúng thì Pot sẽ ở trong ấy khoảng nửa tiếng. Thoạt đầu Porter chẳng để ý lắm đến một chiếc hang yao khác đang lướt trên mặt nước và cặp nhẹ vào một trong hai chiếc thuyền ở gần đó. Người chèo thuyền nhanh nhẹn bước về phía đuôi thuyền và cột hai thuyền vào nhau. Hắn bước sang chiếc hang yao nói chuyện gì đó với một cô gái điếm. Một số tiền được trao tay. Người chèo thuyền hất hàm về phía cái ổ điếm nổi của Pot.
Porter đánh hơi thấy có điều gì không hay đây. Hắn đột ngột lướt nhanh qua gã người Hoa trẻ đang đi về phía hắn, leo xuống chiếc thuyền và đến sát sau người chèo thuyền. Gã trẻ giật mình vì hắn hành động nhanh đến thế, nhìn chằm chằm vào hắn một lát rồi mới bước theo hắn.
Phía bên trong khoang thuyền có mái phên che, cô gái điếm trẻ bắt đầu trổ tài quyến rũ. Nàng đã cởi chiếc sơ mi, rồi chiếc quần của Pot ra và tự cởi áo váy của nàng. Nàng cọ cặp vú quả đào của nàng lên ngực hắn, trêu chọc hắn, rồi nàng cúi xuống và bắt đầu vuốt ve để kích thích hắn. Nàng đặt một bàn tay lên ngực hắn và nhẹ nhàng đẩy hắn nằm xuống tấm đệm rơm trên sàn. Pot sướng ngây ngất, chẳng biết đến màn kịch đang diễn ra ở phía ngoài cách đây chừng 6 mét. Hắn không cảm thấy chiếc hang yao lắc nhè nhẹ khi Mắt Sẹo thận trọng bước sang.
Porter bước sang chiếc thuyền thứ nhất ngay khi Mắt Sẹo từ đó bắt đầu bước qua chiếc hang yao của Pôt.
“Này!” Porter hét lên, chạy lao đến sau gã. Gã quay lại. Con mắt hư của gã đảo điên cuồng trong hố mắt. Bàn tay gã thò ra ngoài ống tay áo và Porter nhìn thấy ánh thép con dao găm trong bàn tay khi gã Mắt Sẹo phóng đến hắn.
“Lạy Chúa!” - Porter hét lên. Khi Mắt Sẹo đâm, Porter né sang bên và cảm thấy lưỡi dao xướt qua áo, hắn chộp lấy cổ tay gã vặn ra ngoài. Mắt Sẹo bị mất thăng bằng, con dao văng khỏi tay gã. Vì bị vặn người sang một bên, gã vấp phải be thuyền và ngã ngửa xuống sông.
Chỉ một giây sau, Porter cảm thấy đau buốt vì một lưỡi thép lạnh cắm ngập vào một bên lưng, làm hắn bị thương. Hắn quay lại chạm mặt gã Tàu trẻ. Cánh tay của gã trẻ lại vung lên nhưng Porter đã xoay người tránh và con dao đâm xượt sang bên. Phía sau hắn, Mắt Sẹo đã trồi lên mặt sông. Gã nắm lấy be thuyền hang yao và nhún người nhảy lên ghe, chộp ngay lấy lưỡi dao găm văng trên sàn.
Porter đang bận với gã Tàu trẻ không còn thấy được gì khác. Hắn tống một quả đấm khổng lồ vào mặt gã Tàu trẻ, cảm thấy xương mũi gã vỡ vụn ra và nghe thấy gã thét lên đau đớn. Hắn thúc mạnh đầu gối vào giữa háng của gã, và kẻ đã tấn công hắn gập đôi người khuỵu gối xuống. Phía sau hắn, Mắt Sẹo rất thận trọng và cũng chẳng quá hấp tấp đâm một mũi dao vào gáy Porter, cắt đứt dây thần kinh xương sống làm hắn bại liệt.
Porter xoay lại, đã trọng thương, đờ đẫn nhìn Mắt Sẹo, hai cánh tay buông thõng xuống đung đưa vô dụng. Mắt Sẹo đâm lần nữa, vung mạnh lưỡi dao lên thành hình vòng cung hẹp rồi cắm phập đến tận chuôi vào sườn Porter. Gã đàn ông to con gần như mất hết cảm giác. Hắn chỉ nhận thấy như có một vật gì đang ở bên trong người hắn, thấy nó chạy sâu vào lồng ngực hắn. Rồi tim hắn ngừng đập, đôi mắt trợn lên. Mắt Sẹo rút con dao ra và lao vào tên Mỹ to con, đấm hắn ngã nhào xuống sông.
Pot nghe tiếng náo động, cảm thấy chiếc hang yao chòng chành, rồi nghe thấy tiếng rú của đàn bà, rồi lại một tiếng rú khác. Hắn giật nẩy mình, sợ hãi, dường như có một luồng điện vụt chạy qua các dây thần kinh. Hắn bật dậy, quờ quạng tìm quần rồi nghe tiếng cái gì rơi xuống nước đánh ùm một cái thật to. Hắn bò lên nhìn qua khe hở của tấm phên đan thấy gã Tàu trẻ đâm Porter, hắn kinh hãi nhìn thấy Mắt Sẹo trồi lên khỏi mặt nước, tấn công gã to con và đấm hắn văng qua mạn thuyền. Mắt Sẹo quay lại nhìn Wol Pot, con mắt lành của hắn nhấp nháy một cách độc ác.
Pot sợ điếng người. Hắn vặn người, lăn qua ba chiếc hang yao chỉ mặc độc có chiếc quần lót và rơi tòm xuống dòng nước đen ngòm.
Trên bờ, sự náo động của màn bi kịch ngắn ngủi, dữ dội đang lắng dần nhưng vẫn còn nhiều tiếng la hét om sòm. Mắt Sẹo biết gã người Thái lại thoát khỏi tay hắn lần nữa. Hắn nắm lấy ngực áo gã đồng bọn, đẩy gã vào trong chiêc hang yao mà hắn đã trưng dụng rồi quay sang cô gái điếm trẻ. Hắn đẩy ả vào trong khoang phên đan che kín và dí mũi dao vào cổ ả, hỏi:
- Hắn cư trú ở đâu? - Giọng hắn rít lên.
Cô gái lắc đầu, không nói ra lời vì quá sợ hãi.
- Tao phải tìm Thai Horse ở đâu? - Hắn hỏi.
- Ai? - Cô gái ấp úng.
Tên sát nhân hiểu ả này chẳng biết gì hết.
- Cứ khai với cảnh sát đi rồi tao sẽ trở lại rạch mặt mày ra cho đến khi trông mày giống như một mụ già, - hắn dọa rồi nhảy qua chiếc hang yao kia chèo nhanh vào bóng tối.