18. GÁI LỀU
Hatcher đang đứng trong phòng quan sát dõi theo các chiến đấu cơ lướt nhanh như những con chuồn chuồn bạc trên Thái Bình Dương và đáp xuống sân bay của Hải Quân. Một chiếc F-16 nghiêng cánh lúc đến gần, phản chiếu ánh mặt trời buổi sáng lấp lánh trên lớp vỏ máy bay trong chớp nhoáng, rồi lấy lại thăng bằng, bung càng ra vài giây trước khi các bánh cao su lăn rít trên đường băng.
Chiếc phi cơ hình viên đạn lướt nhẹ đến ô đậu và dừng lại, người phi công nhô ra khỏi phòng lái. Ông ta nhỏ người, nhỏ cả mọi chiều - thấp, gầy và nhỏ xương - trông có vẻ bé đi trong chiếc mũ bay, chiếc dù đeo trên lưng, chiếc áo phao nổi, và do cả viên trưởng đội bay đứng cao sừng sững như một người khổng lồ bên ông ta. Viên phi công bước xuống thang, nói chuyện với người trưởng đội bay vài phút rồi đi vòng quanh chiếc chiến đấu cơ chỉ trỏ chỗ này chỗ kia. Khác hẳn với viên phi công Hugh Fraser bay cặp với Cody mà Hatcher đã phỏng vấn đêm hôm trước ở Seattle, viên phi công này có vóc dáng và cử động đầy sinh lực đang nói điều gì với người trưởng đội bay lẽo đẽo theo sau ông, có vẻ phiền muộn và luôn luôn gật đầu tỏ vẻ đồng ý với ông ta.
Hatcher biết phải mất mười hay mười lăm phút nữa viên phi công mới xong việc kiểm tra sau khi bay. Anh gửi lại mảnh giấy cho viên sĩ quan trực các chuyến bay rồi đi xuống, băng qua một khu nhà trên con đường cỏ hai bên được xén tỉa gọn gàng để tới Câu lạc bộ sĩ quan. Vào trong, anh đứng ở hành lang dẫn tới phòng họp. Anh đã vào phòng này một lần cách đây mười tám năm. Trong mức độ mà anh còn nhớ, nó chẳng thay đổi tí nào, kể cả các bàn dường như vẫn nằm nguyên chỗ cũ. Căn phòng giát gỗ sồi bóng loáng, có mùi xi đánh bóng và sáp đánh sàn. Trên tường treo thành hàng những bức ảnh của những người đã phục vụ ở đây và đã đi nơi khác: tươi trẻ, tóc tai sạch sẽ áo quần chỉnh tề, những chàng trai trẻ lòng hăm hở mặc những bộ đồ trắng tinh đang mỉm cười trong trắng cho đến muôn đời. Ngành Hải Quân không bao giờ thay đổi. Khía cạnh lôi cuốn của ngành này là ý thức trách nhiệm cao, ngay việc đánh bóng bàn ghế đồ đạc cũng là một truyền thống. Đối với Hatcher căn phòng này đượm một nỗi buồn. Ấy thế mà chỉ vài giờ nữa nơi này sẽ trở nên sống động với tiếng cụng li, với những lời chúc tụng cùng các bài hát ca ngợi vinh quang của đoàn bay.
Anh dạo bước vòng quanh sàn nhảy vắng vẻ, gót giày gõ lộp cộp trên sàn gỗ cứng. Thật mỉa mai là bóng ma của Murph Cody đã đưa anh trở lại nơi này, trở lại căn phòng thân thuộc, nơi đã diễn ra một tình bạn với biết bao thử thách gay go, với những trò đùa nghịch lúc vui, lúc buồn, đã được xây dựng trên những lời thề chung thủy và trang trọng, rồi đã kết thúc một cách không ngờ. Trong căn phòng thân thuộc này Cody đã kết liễu tình bạn đó một cách dứt khoát, giống như một viên đạn bắn vào tim cắt đứt sự sống.
Ngày đó Hatcher đã đến dự buổi tiệc với lòng tràn đầy mong đợi hào hứng. Anh đã không gặp Murph một năm kể từ hôm đám cưới bạn anh. Anh đã đến với lòng mong muốn có một cuộc họp mặt xả láng.
Nhưng Cody với cái tính bất thường của hắn đã sỉ nhục và làm cho anh hổ thẹn bằng một cái cách mà vào lúc khác có thể coi đó là một cái tát bọc găng đập vào mặt anh và anh sẽ sẵn lòng chọn vũ khí thách đấu vào sáng sớm hôm sau. Hatcher không bao giờ quên được nụ cười chế nhạo lạnh lùng, những câu nói gay gắt được thốt lên đủ to để làm ngưng lại mọi câu chuyện trong phòng. Cody đặt vào tay Hatcher một ly sâm banh và nâng cao nó lên bằng cái kiểu chúc tụng giễu cợt, nói: “Xin chúc mừng một thằng bọ vẫn còn là một thằng bọ. Xin chúc mừng một thằng bọ được ngành nuôi ăn, nuôi mặc và cho nhà ở, được dạy dỗ nghề nghiệp và bây giờ hắn quay lưng trở lại. Xin chúc mừng một thằng bọ mà tôi đã từng gọi là bạn hiện đang né tránh một cuộc chiến tranh đang xảy ra. Xin chúc mừng một thằng hèn nhát.” Rồi anh ta đổ li rượu nho lên quầy và quay lưng bỏ đi. Vì lời thề giữ bí mật của Đội Bóng Tối (Shadow Brigade), Hatcher đã không trả lời. Mọi cặp mắt đều nhìn theo Cody bỏ ra cửa. Kí ức ác nghiệt về một căn phòng mà ở đó các người anh hùng đã đùa giỡn một cách bình thường.
- Tôi là trung tá Schwartz. Anh đang.. tìm tôi?
Hatcher quay lại nhìn người phi công. Thực tế, Schwartz trông còn có vẻ nhỏ hơn khi nhìn từ xa. Ông ta nói rất nhanh với một kiểu lắp bắp lạ lùng, ngừng không đúng chỗ và nhấn giọng sai âm tiết, như một người cố tránh bệnh nói lắp kinh niên. Chiếc nón và cặp kính bay để lại những vết hằn dưới mắt ông và mái tóc cắt ngắn bù lên như một giọt mực trên sọ. Trông ông chẳng có vẻ gì là người chỉ huy chương trình huấn luyện tại một trong những căn cứ chính của Hải Quân. Trông ông ta giống một thần đồng ở trường trung học hơn.
- Trung tá Hatcher, - Hatcher nói dối, và chìa tay ra. - Ban Kiểm tra Hải Quân.
- Tôi... phải làm gì bây giờ? - Schwartz hỏi với nụ cười cởi mở. Ông ta tấn công Hatcher theo một kiểu khác hẳn với Simmons. Trái ngược với vẻ ngoài luôn luôn thận trọng, Schwartz chẳng có vẻ gì là đắn đo trong lời nói cả.
- Chúng tôi đang kết thúc vài chuyện nhỏ, - Hatcher nói nhỏ nhẹ. - Anh biết Hải Quân thế nào rồi.
Schwartz đáp:
- Sau 18 năm rồi, tôi phải... À, chúng ta có thể vừa làm việc này vừa ăn bánh sandwich không? Tôi đang đói meo.
Sau khi kêu bánh mì thịt và bia, Schwartz hỏi:
- Chuyện về An Khê, Hà Nội hay Cody?
- Đúng là một sự lựa chọn, - Hatcher lẩm bẩm.
- Tôi bị bắn rơi ở gần An Khê, - Schwartz nói. - Tôi làm tù binh gần bốn năm ở Hà Nội, và tôi là một trong những người bay cặp theo Cody. Tôi đã bị hỏi rất nhiều về cả ba việc.
- Đây là chuyện về Cody, - Hatcher thì thầm.
- Này, - người đàn ông thấp nhỏ nói. - Tôi biết anh không phải là người của ủy ban. Hugh Fraser đã điện thoại cho tôi đêm qua. Về phía Hải Quân, vụ Cody đã được khóa sổ. Họ chưa bao giờ nghe nói tới anh.
Trước khi Hatcher có thể nói được điều gì. Schwartz giơ một tay lên.
- Tôi chẳng thấy có vấn đề an ninh nào dính líu vào đây cả, cái mà tôi có thể nói với anh dù sao cũng nằm trong hồ sơ lưu rồi. Chuyện này là thế nào?
Hatcher quyết định nói cho Schwartz biết chỉ vừa đủ để hắn quan tâm và tiếp tục câu chuyện.
- Tôi muốn anh giữ kín cho câu chuyện tin cậy này, - Hatcher nói, dừng lại một tí để tập trung những suy nghĩ của mình lại.
- Cái đó còn tùy, - Schwartz thận trọng nói.
- Anh biết cha anh ấy là đại tướng Bill Cody chứ?
- Dĩ nhiên.
- Ông Bill Cody đang chết dần vì ung thư. Tới lúc này thì người ngoài cũng chưa ai biết và ông ấy thích giữ như thế cho tới khi tin này lọt ra ngoài.
- Ông ấy còn sống được bao lâu nữa? - Schwartz hỏi, rõ ràng là sửng sốt và thật sự buồn khi nghe tin này.
- Có thể 6 tháng.
- Cứt!
- Có điều là Ông Già chưa bao giờ thỏa mãn với cái tin là Cody đã bị chết, - Hatcher khàn khàn nói. - Vì thế họ nhờ tôi kiểm tra lại một lần chót, chỉ vì Ông Già thôi. Tôi đã làm tình báo cho ông ấy ở Việt Nam.
- Anh muốn biết điều gì? - Schwartz hỏi.
- Tôi cũng phần nào quan tâm đến anh ta. Anh có thích Cody không?
Trong khi Simmons và Fraser miễn cưỡng nói ra thì ngược lại Schwartz thao thao bất tận. Người đàn ông thó nhỏ ấy nói huyên thuyên dường như Hatcher đã bấm vào cái huyệt nói của ông ta.
- Chắc chắn. Tôi rất thích anh ta, - Schwartz mở miệng, rồi dừng lại một lát, suy nghĩ lại câu hỏi. - Thế này này, đây chẳng phải là câu hỏi “anh có thích hắn không”, Murph chẳng phải là loại bạn bè dễ thân mật, anh biết đấy. Hắn là, ừ, ừ...
- Khó gần? - Hatcher gợi ý.
- Khó gần, đúng như vậy, - Schwartz nói.
- Khi tôi nói chuyện với Fraser, anh ta cho Cody là loại người phần nào thích cuộc chiến tranh tự tử này, đã đưa người của mình vào chỗ chết không thể tránh được.
- Tôi hiểu, Fraser là một gã lúc nào cũng chua chát, - Schwartz nói. - Tai nạn của hắn chả tránh được.
- Sự thực việc xảy ra như thế nào? - Hatcher hỏi.
- Hắn đang bay đến Forrestal, lúc sắp đến nơi thì máy bay bốc cháy, đành phải hạ cánh xuống biển. Hắn bị gẫy cột sống. Thật là mỉa mai, anh biết đấy, tất cả mong muốn của hắn chỉ là làm nhiệm vụ vận tải. Thành phố đã quyến rũ hắn.
- Ừa, nhưng vụ Cody xảy ra trước đó lâu mà.
- Anh thấy đấy, Fraser là phi công phản lực, hắn mơ giấc mơ vận tải, - Schwartz nói. - Đội bay Hải Quân dứt khoát không phải là lí tưởng của hắn đối với nhiệm vụ vinh quang thời chiến đấu.
- Đội bay Hải Quân à? - Hatcher hỏi. Đó là một từ anh chưa biết đến.
- Đó là tên gọi đội của chúng tôi, - Schwartz giải thích. - Chúng tôi là phi đội duy nhất ở trong đất liền của Hải Quân. Chúng tôi ở đấy chủ yếu là để yểm trợ lực lượng Tuần Tiễu Trên Sông, bảo vệ cho các đoàn vận tải trên sông, các loại bay tới, bay lui rác rưởi ấy mà, nhưng công việc thật sự của chúng tôi là yểm trợ các cuộc hành quân trên bộ. Đó là một nhiệm vụ khó chịu. Tôi cho rằng có điểm đúng trong những điều Fraser nói. Chúng tôi tổn thất rất nhiều. Nhưng tự tử ư? Không bao giờ. Điều ấy ngu như bò, - Schwartz suy nghĩ một phút rồi tiếp. - Nói cho anh nghe, hình như Cody không muốn gần gũi thân mật với ai quá, chẳng ai ưa anh ta. Những gì chúng tôi làm đều là những việc xấu xa nhất. Và nhóm của Cody nổi tiếng... là làm những việc tồi tệ nhất, cũng làm việc nhiều giờ nhất. Không ai muốn vào nhóm anh ta.
- Thế anh có sợ phải vào đây không?
- Chắc chắn có. Nhưng đây là, ờ... một điều không mong đợi, nhiều lời xì xào bàn tán quá, anh biết đấy. Một sự bắt buộc.
- Đồng ý.
- Dù sao Murph đã làm quá, bạn ạ, đúng là làm cả bảy ngày trong tuần, bất kể ngày đêm, suốt ngày, suốt đêm, trời xấu, cả ăn đêm nữa, người ta gọi như thế đấy. Anh ta như, ờ… như điên khùng muốn chấm dứt ngay chiến tranh ấy. Đừng cho tôi là nói xấu, anh ta cũng bay như những người khác. Nhưng tôi đoán Murph đã bay những phi vụ một mình nhiều hơn bất cứ người nào trong đội.
Hatcher hồi tưởng lại cuộc gặp mặt Fraser ở Seattle đêm hôm trước, viên phi công bay cặp với Cody này có một ấn tượng hoàn toàn khác về Cody. Đầu tiên Fraser từ chối nói chuyện với Hatcher. Vụ rớt máy bay đã làm ông ta tàn tật đáng thương. Ông ta đi bằng nạng như một cụ già, và hơi thở sặc mùi rượu vodka bệnh hoạn mà nước hoa xịt cũng không che dấu được, thuốc nhỏ mắt Visine cũng không tan được những sợi gân máu đã bị tổn thương trong mắt ông ta. Vì Fraser từ chối không tiếp chuyện Hatcher qua điện thoại nên anh đã đợi ông ta ở bãi đậu xe của một trong các ngôi nhà vệ tinh nhỏ vây quanh tòa nhà của hãng thuê máy bay Seattle-Tacoma quốc tế mà Fraser là phó chủ tịch. Hatcher cảm thấy thương xót ông ta. Ông đã già đi rất nhiều sau vụ tai nạn. Ông ta rất cay đắng, giống như một ông già bẳn tính, và trong câu chuyện thỉnh thoảng lại bị cắt ngang bởi một chiếc phản lực thương mại to lớn cất cánh. Ông ta đốp chát lại từng câu hỏi.
Hatcher hỏi Schwartz:
- Anh có thích nghe những gì Fraser đã nói không? - Anh lấy từ trong túi ra một máy thu băng nhỏ và ấn nút phát.
Fraser: Tôi rất bận. Anh có 5 phút thôi.
Hatcher: Tôi chỉ muốn nói chuyện một chút về chuyện Murph...
Fraser: Anh nói anh làm việc cho ai?
Hatcher: Ban Kiểm Tra Hải Quân. Chúng tôi...
Fraser: Quỉ bắt Hải Quân đi!
Hatcher: Chúng tôi... muốn kết thúc chuyện này một lần cho xong đi.
Fraser: Thế thì tôi có thể nói cho anh nghe những gì anh còn chưa biết nào?
Hatcher: Anh đã trông thấy máy bay Cody rớt xuống, phải không?
Fraser: Tôi đã nói các anh nghe tất cả chuyện này lúc trước.
Hatcher: Một lần nữa để chấm dứt hẳn.
Fraser (thở dài): Tôi đang bay ở phía cánh trái của hắn, sau hắn khoảng một cây số. Tôi nghe tín hiệu Mayday cầu cứu của hắn và trông thấy máy bay hắn xoay tròn rơi xuống.
Hatcher: Có cơ may nào anh ấy thoát ra được không?
Fraser (hoài nghi): Này, hắn đã làm bốc lửa trên mắt nửa vùng cửa sông Mekong.
Hatcher: Tôi có một báo cáo nói rằng anh ấy có thể... (có một đoạn ngừng lại vì tiếng máy bay phản lực gầm rú) thoát ra khỏi máy bay và chạy về...
Fraser: Bất cứ ai nói với anh điều ấy đều điên cả.
Hatcher: Anh đánh giá anh ấy thế nào? Ý tôi muốn nói là theo tư cách một sĩ quan.
Fraser: Thằng lỗ đít hạng sang muốn gây ấn tượng với ông già nó. Hắn khoái chiến tranh, một sĩ quan chuyên nghiệp điển hình. Hắn thuộc tầng lớp thượng lưu. Hắn chẳng cần biết cái quái gì sẽ xảy ra cho lính của hắn.
Hatcher: Ồ! (phần còn lại của câu nói bị át đi vì tiếng rút của một chiếc phản lực khác)
Fraser: (có phần nghe không được)... Một thằng lính trẻ vô kỉ luật. Xuất thân từ trường Annapolis, cha là nhân vật quan trọng. Hắn không bao giờ uống rượu với bạn bè, không bao giờ đi chơi lang thang. Hắn có một cô “gái lều”, một cô gái tuyệt đẹp. Anh biết không, da mịn màng, răng trắng như ngà, và đôi mắt trong vắt thì anh có thể nhào vào tắm được. Nàng chờ đợi hắn như một cô nô lệ. Khi hắn không bay, hắn nằm dài với cô “gái lều”, quấn lấy nhau suốt ngày.
Hatcher: Nhưng mà, “gái lều” chỉ đáng giá mười xu một...
Fraser: Cô này đúng là thứ xịn, tôi bảo thật cho anh biết không quá 15, 16 tuổi. Chỉ để mắt đến hắn, không một ai khác lọt được vào mắt xanh. Hắn đôi với ả ấy như vợ hắn, như gia đình hắn. Quỉ thật, cái loại “gái lều” Việt Nam!
Hatcher: Rồi nàng ra sao?
Fraser: Khi hắn rụng cánh, tất cả mọi người trong đội hắn đổ xô đến nàng, nhưng nàng không chịu ai cả. Ngày hôm sau, nàng bỏ đi. Biến mất. Nghe này, thằng chó đẻ ấy đã làm cho số người của ta chết còn nhiều hơn cả Việt Cộng làm.
Hatcher: Anh muốn nói đến việc thực hiện công tác của anh ấy à?
Fraser: Thực hiện công việc và thực hiện công việc. Hắn là một tên cuồng loạn, anh đã hỏi thì tôi nói. Hắn thường hét lên: “Đánh cho đúng ngay vào kênh, đánh cho đúng ngay vào kênh!” - Lạy Chúa! Chúng tôi đang... (lại ngưng vì một phản lực cơ cất cánh) phóng xuống các địa đạo như thường lệ. Đã rụng mất một nửa số máy bay do hỏa lực từ dưới đất. Mẹ kiếp! Chúng tôi đã bất ngờ tấn công một đơn vị, đốt cháy vài ghe thuyền, quét sạch vài làng mạc. Ngày mai họ lại trở lại ngay. Giống như khi bước vào vũng bùn, anh kéo chân lên mà không hề biết rằng bùn đã ùa ngay vào chỗ đó. Tất cả những gã này đã thua là vì thế.
Hatcher: Này này, chẳng ai đi chiến đấu lại mong được làm việc trong phòng và phục vụ khách sạn nghỉ mát.
Fraser: Hắn giống như tất cả mấy thằng lợn xuất thân từ học viện quân sự. Tất cả những gì chúng cần là làm sao cho hồ sơ của chúng xem có vẻ tốt để chúng chắc chắn được trở thành Đô Đốc trước khi về hưu. Này, anh có nghĩ rằng bây giờ anh còn ở đây nếu Cody không phải là con trai của một vị Đại Tướng không?
Hatcher: (Im lặng một lát) Không!
Hatcher tắt máy. Schwartz nói:
- Thế rồi, quỉ thần ơi, tất cả chúng tôi đều nổi điên lên sau vài tuần lễ bay với anh ta, tôi muốn nói chúng tôi cứ kéo đi tìm cái kênh đó trong mỗi lần xuất kích. Tôi thường xuyên trở về với ba nhánh cây cắm vào cánh máy bay. Nhưng Cody không thích việc ấy, Fraser đã lầm, Murph không phải là kẻ ưa chiến tranh, mà hoàn toàn ngược lại. Điều làm anh ta bứt rứt là cứ phải điều đám lính đi đánh nhau hết ngày này sang ngày khác. Anh ta đã biết đa số chúng tôi là phi công phản lực rất ghét phải chiến đấu ở một trận địa trên những chiếc máy bay De Havillands già cỗi ấy. Chúng chỉ là... những cái thùng hai động cơ chứa vũ khí - một khẩu 20 li ở mũi, 4 cây súng máy 50 li, những chùm bom. Nhưng chúng tôi đã cày nát cái cửa sông Mekong chết tiệt ấy. Điều lo âu là mỗi người đều có sẵn một viên đạn đề sẵn tên mình trên đó. Chúng tôi bay quá nhiều, sớm muộn thì cũng đến phiên mình. Tổn thất của chúng tôi lên tới 60 đến 65 phần trăm,... một phần ba trong số đó là những người đã mất tích hoặc tù binh chiến tranh. Anh có thể hiểu tại sao nhóm của Cody chẳng được đám phi công coi là nơi đất lành.
Một tiếp viên mang bữa ăn trưa đến cho họ và Schwartz đớp ổ bánh mì thịt như một con thú đói.
- Về mặt nào đó Chúa đã phù hộ tôi (ông ta nói, mồm còn đầy thức ăn). Tôi chẳng cao thêm tí nào khi tôi ăn nhiều nhưng tôi cũng chẳng mập ra (Ông ta lại cắn một miếng). Điều gì đã xảy ra cho Fraser cũng xảy ra cho tôi tuy có nhẹ hơn. Tôi nói cho anh nghe điều này, tôi đã chịu 4 năm vất vả, nhưng tôi đã gặp may.
- Đấy là một thái độ lạc quan, - Hatcher thì thầm khàn khàn.
- Thực sự đấy, - Schwartz nói.
- Chuyện xảy ra như thế nào cái ngày mà Cody rụng cánh? - Giọng khàn khàn của Hatcher hỏi.
Schwartz chẳng cần phải suy nghĩ, cảnh tượng vẫn còn rõ nét trong đầu ông sau bao năm qua. Buổi sáng hôm ấy trời mưa và Cody rất bồn chồn. Có báo cáo rằng quân địch đang hoạt động ở mạn thượng nguồn sông và bộ binh yêu cầu chi viện. Khi thời tiết vừa tốt lên, Cody cho tập hợp gấp. Họ cất cánh quá gấp đến nỗi khi đã ở trên không rồi Cody mới điện cho họ biết tọa độ của vùng đất hành quân. Họ đã bay qua hai lượt, thả bom chùm dọc theo bờ sông, rồi bất chợt ông nghe thấy tín hiệu gọi cấp cứu “May day” của Cody.
Thoạt đầu Cody có vẻ không gặp rắc rối. Chiếc De Havilland của anh ta bay phía trước Schwartz khoảng 1 cây số. Rồi Schwartz nhìn thấy chiếc máy bay chao đảo. Một bên cánh chúc xuống và bắt đầu vỡ lả tả. Anh ta đã bị trúng đạn điều khiển bằng rađa hoặc một loạt hỏa tiễn nào đó, Schwartz nghĩ thầm, rồi thì ôi! Lạy Chúa! Hắn sắp rơi, chiếc máy bay bị mất điều khiển bắt đầu lao xuống và bắt đầu bắn vãi đạn xuống khu rừng phía trước máy bay của Cody, quạt một đường bằng đạn cỡ 20 và 50 li. Lạy Chúa, Schwartz nghĩ, anh ta chỉ còn khoảng 500 thước nữa là đến bờ sông và bên bờ kia đã là đất bạn. Cố lên, cố lên, Schwartz lặp đi lặp lại với mình và tiếp tục bắn vãi đạn vào khu rừng phía trước chiếc máy bay trúng đạn. Rồi giọng nói rè rè trong máy: “... tôi sắp rớt...” và thình lình chiếc máy bay lật ngược như một con thú lớn giẫy chết rồi gần như rơi tõm xuống rừng cây. Tấm thảm cây xanh phía dưới Schwartz đỏ rực lên một đám, và khi ông bay vọt qua cái xác máy bay vỡ tan, lướt trên mặt sông, ông nhìn thấy một chiếc trực thăng Huey của trung tâm tìm kiếm và cấp cứu ở phía dưới ông, đang hướng về chỗ máy bay rớt, rồi rừng rậm dường như nổ bùng lên. Một vòi lửa phụt lên từ chỗ máy bay rớt và ông cảm thấy làn sóng chấn động của vụ nổ tràn qua người. Ông ngoặt gấp, cố bay vòng trở lại, rồi nghe thấy tiếng người phi công của chiếc Huey, “Corkscrew, đây là cấp cứu 1... Chúng ta đã mất dấu hắn...”
-... Dù sao thì tôi đã bay ngang qua máy bay anh ta và khi bắt đầu quặt lại thì nhìn thấy chiếc Huey cấp cứu bay ngược sông rồi chiếc máy bay của anh ta nổ tung, - Schwartz nói và chấm dứt câu chuyện ông kể.
- Bao lâu sau khi hắn rớt thì máy bay nổ? - Hatcher hỏi.
- Đủ lâu để tôi có thể quay 180 độ.
- Vậy là đủ thời gian để anh ấy có thể thoát ra? -Hatcher thì thầm.
- Murph ấy ư?
- Ừa.
Schwartz nhún vai. “Chắc chắn, tôi nghĩ vậy. Tôi không đồng ý với Fraser. Ý kiến cho rằng Cody có thể thoát ra khỏi máy bay không phải là điên đâu”.
Hatcher nhấm nháp tô xúp của anh rồi thì thầm hỏi:
- Cô bạn gái của anh ấy thế nào khi nhận được tin đó?
- Khó mà biết được cái cách “gái lều” xử sự. Fraser cũng hơi hẫng ở đây. Cơ bản là Cody không thích ông ta. Hoặc có thể anh ta cảm thấy Fraser không thích mình. Gì đi nữa thì Fraser cũng chẳng bao giờ được mời đến họp mặt với Cody ở đó.
- Mấy người còn lại của bọn anh thì được mời chứ?
Schwartz gật đầu.
- Trời ơi, đến đó mỗi lần có dịp, nàng nấu ăn chiều cho hai thằng bọn tôi. Đồ ăn Việt Nam, ngon tuyệt.
- Từ Thai Horse có nghĩa gì đối với anh không? - Hatcher hỏi.
- Anh muốn nói đến heroin à?
- Còn nghĩa gì khác đối với anh không?
- Không. Cái đó liên quan đến…
- Cody có dính líu gì đến ma túy không?
Schwartz có vẻ ngạc nhiên.
- Chắc anh nói giỡn. Murph Cody à? Đến thuốc lá anh ta còn chẳng hút nữa là. Anh định đi đến đâu với câu chuyện này đây?
- Chẳng đi đến đâu cả, chỉ xem lại mọi vấn đề cơ bản.
Câu hỏi về Thai Horse và ma túy đã làm Schwartz choáng váng, và bất chợt ông cảnh giác.
Hatcher nhanh chóng thay đổi đề tài.
- Hãy nói cho tôi nghe thêm về cô gái ấy?
Schwartz ngập ngừng, vẫn còn nghi ngờ, nhưng lòng kính trọng Cody đã thắng. Ông dịu đi.
- Anh biết không, thật buồn cười, tôi đã nghĩ có lẽ Murph yêu Pai.
- Pai?
- Ừa. Tôi nghĩ lại, lúc đó anh ta rất tự hào về nàng, hay phô trương nàng.
Ông ta ngồi im lặng một cách lạ lùng trong một, hai phút, hớp từng hớp bia, rồi nói:
- Anh biết đấy, ba tuần lễ sau tôi bị rơi. Ngay ở phía Bắc Bình Thủy. Trong bốn năm tháng đầu làm tù binh, chúng tôi ở trong những trại chuyển tiếp. Họ thích, như anh biết đấy, chuyển bọn tôi đi rất nhiều chỗ. Cuối cùng họ đưa bọn tôi ra Hà Nội. Dù sao tôi cũng đã nghe đồn về cái trại bên Lào. Nói giống như một đơn vị lưu động, anh biết chứ, người ta đồn họ giữ một nhân vật quan trọng ở bên đó.
- Quan trọng loại nào?
- Đấy, đấy, một nhân vật quan trọng. Tôi nghe đủ thứ chuyện từ Westmoreland đến Bop Hope! Anh hiểu dư luận như thế nào rồi. Dù sao, cho đến khi họ mang bọn tôi ra Bắc, tôi lúc nào cũng nghe nói đến cái trại này. Họ gọi nó là, ờ..., Huie-kui, tức là trại ma, tôi đoán là bởi vì... hình như nó thường xuyên biến mất.
- Cũng chẳng lấy gì làm lạ, khi họ chuyển các trại đi nhiều nơi khác nhau.
- Tôi hiểu. Điều này chưa bao giờ xảy ra cho tôi trước đây. Tôi luôn luôn cho rằng anh ta đã chết, nhưng có thể nhân vật quan trọng đó là Murph.
- Cho tôi một đặc ân chứ trung tá? Hãy giữ bí mật chuyện này. Nếu Cody còn sống, hãy cho tôi may mắn tìm được anh ấy.
Schwartz nhìn Hatcher đăm đăm rồi từ từ gật đầu:
- Anh ta đáng được như thế.
Ý nghĩ của Hatcher quay trở lại cô gái lều. Anh hỏi:
- Ông có thích cô gái của anh ấy không?
- Anh đùa đấy à? Cô ta làm cho mình thấy nữ tài tử Natalie Wood trông như con heo nái ấy, - Schwartz ngưng một phút rồi tiếp. - Anh có muốn nhìn thấy cô ấy không? Tôi có một tấm ảnh cô ấy trong tập dán ảnh của tôi.
Trên đường đến sân bay, mạch của Hatcher bắt đầu đập nhanh, các dây thần kinh kêu ong ong. Bốn mươi tám giờ trước đây, ý nghĩ là Murph Cody còn sống dường như là một trò đùa đối với Hatcher. Bây giờ có một thắc mắc trong đầu anh. Khi Hatcher học về điều tra hình sự, Sloan, thầy của anh, một lần đã nói rằng: “Đừng bao giờ tin vào những bản báo cáo viết. Khi viết, người ta thường có khuynh hướng tỏ ra là mình đúng”.
Anh phải mất 48 giờ đế ôn lại lí thuyết đó nhưng anh hài lòng vì đã ôn lại. Anh suy nghĩ về ba người đàn ông mà anh đã phỏng vấn, mỗi người có cái nhìn khác nhau về Cody, mỗi người bị ảnh hưởng khác nhau do vị trí của họ trong cái ngày định mệnh đầy sự kiện ấy khi Murph Cody mất tích.
Đối với Schwartz, Cody là một anh hùng đã buộc phải tham gia một công việc bẩn thỉu; đối với Fraser, anh ta là một thằng điên ưa thích chiến tranh; đối với Simmons, đó là một hồn ma ám ảnh với nắm tay lạnh lẽo đang bóp ghẹt tim ông ta. Đối với Fraser, việc thoát ra khỏi chiếc máy bay vỡ tung, bốc lửa của Cody là không thể được; đối với Schwartz đó là vấn đề còn nghi vấn; đối với Simmons đó là điều có thực.
Lại còn báo cáo của Schwartz về cái trại ma Huie-kui nữa. Có thể đó là lí do mà Cody không bao giờ tái xuất hiện? Có phải anh đã là tù binh trong bao nhiêu năm nay không; nếu thế, làm cách nào anh đã trốn ra?
Còn một điều khác nữa đang gậm nhấm đầu óc Hatcher. Nếu Murph Cody đã chết thì gã Thái Wol Pot đào đâu ra tên anh? Về Wol Pot, còn nhiều câu hỏi phải trả lời.
Chỉ có một điều duy nhất mà Fraser và Schwartz có vẻ cùng đồng ý là... Pai, cô gái lều của Cody rất đặc biệt. Nhìn vào tấm ảnh mà Schwartz đưa cho, Hatcher cũng phải đồng ý là như vậy. Đó là một tấm ảnh màu, đã quăn góc và phai mờ; trong ảnh, Cody đang đứng trước túp lều lợp tranh của anh, một tay ôm lấy cô gái tuyệt đẹp người nhỏ nhắn, hước da màu nâu nhạt, cằm cúi xuồng, mắt nhìn đăm đăm đầy vẻ huyền bí vào chiếc máy ảnh. Nàng trông có vẻ như còn trẻ con. Nhưng thân thể nàng là thân thể của một cô gái đã đến thì, đôi mắt nàng hình như phản ánh một trình độ hiểu biết thầm kín vượt nhiều so với tuổi nàng. Hatcher nhìn đăm đăm vào đôi mắt đó, cảm thấy chúng giao nhau, và hầu như còn thấy chúng nhấp nháy. Anh cất tấm ảnh vào ví.
Anh nhìn đồng hồ. Trong vòng 12 giờ nữa anh sẽ ở Bangkok. Anh hi vọng Windy Porter sẽ cho anh nhiều câu giải đáp. Làm sao anh biết được rằng gần đúng lúc ấy Windy Porter đang dãy chết trong dòng nước tối tăm của con kênh Phadung Klong, cách đó khoảng tám ngàn cây số.