← Quay lại trang sách

20. CÚ ĐÁNH

Gã da đen cao lớn và lực lượng quẹo ra khỏi đường Suriwong qua đường Potterpong hướng về khu Tombstone. Khi màn đêm buông xuống, thành phố Bangkok biến đổi hẳn dường như có một vị thần tai quái đã biến khu vực thương mại ồn ào, đông đúc, cuồng loạn thành một rừng đèn nê ông sáng rực. Các con “cọp cái” ngực trần đi bắt khách trong khu rừng ấy, hành nghề trong các hộp đêm, nhà điếm, phòng tắm hơi xoa bóp và trước cửa các gian hàng. Hứa hẹn đủ thứ và cung cấp phần lớn những gì đã hứa, khu cuồng loạn nổi tiếng Patpong đã tỏ cho du khách châu Âu và Mỹ thấy thái độ, sự phục vụ cho ăn chơi theo cung cách phóng túng lạ lùng kiểu Mỹ của nó.

Patpong là làng dành cho the farang tức là cho khách ngoại quốc, những kẻ đêm đêm tụ họp đông đúc ở đấy để tìm những thú vui nhục dục ở địa phương, xem đó như là một phần sự từng trải của họ trên đất Thái Lan.

Ngoại trừ thỉnh thoảng thốt lên một tiếng “Hừm”, gã đàn ông to con chẳng thèm biết đến những tên ma cô, những bọn câu khách và những cô gái điếm. Tuy thế đa số bọn họ đều biết hắn. Hắn đi ngang qua tiệm Jack’s American Star và quán rượu San Francisco. Ở đây các vũ nữ nhảy go-go ngực để trần trình bày các màn đặc biệt, rồi hắn quẹo vào một đường hẹp, cách xa ánh đèn nê ông, cách xa các loa phóng thanh ầm ĩ và những người bán rong. Đó không phải là một con đường tối, nhưng nó giống thành phố Phoenix hơn là New Orleans. Chẳng phải vì những bảng hiệu kẻ bằng tiếng Anh và tiếng Thái, cũng chẳng phải vì tính chất của những tòa nhà đặc trưng cho nền kiến trúc Thái, cái khu được gọi là Tombstone này có thể bị nhầm với một phố ở một thành phố nào đó miền Tây nước Mỹ. Điều duy nhất thiếu sót là các đường phố đều bẩn thỉu và treo lắm bảng quảng cáo. Thực tế thì nhà nào cũng đặt bảng quảng cáo ở lề đường.

Có thể nói rằng Phòng Hòa Nhạc Langtry (Langtry’s Music Hall), với những vũ nữ Thái và Hoa trần truồng, có vẻ Patpong hơn là khu Tombstone, nhưng nó cũng phục vụ ăn chơi theo kiểu miền Tây đang ngự trị con đường này. Có những tấm hình lớn đã cũ của Lillie Langtry và Eddie Foy bên cạnh những tấm hình màu của các ngôi sao điện ảnh quyến rũ. Cửa ra vào quảng cáo một phim của John Ford.

Bên kia đường là tiệm Pike’s Peak, một tiệm kem mà cách trang trí trông có lẽ khác kiểu miền Tây hơn là quán Roundup, một quán cà phê xây theo kiểu trang trại phục vụ 24 giờ trên 24 chuyên môn bán cà phê, bánh rán và trứng. Rạp chiếu bóng nhỏ chứa 100 chỗ ngồi nằm cạnh một khu nhà gọi là Lâu Đài, chiếu những phim lồng tiếng xa xưa, đủ mọi loại phim từ phim cổ điển cho đến những phim ngắn loại B từ những năm 30, ngày chiếu 4 suất và thay đổi chương trình vào thứ ba và thứ sáu.

Rồi có quán Longhorn, giập theo kiểu miền Tây. Nó trưng bảng quảng cáo bên đường. Có lần một gã người Texas phóng túng đã cột chiếc xe thuê của hắn vào tấm bảng và vài giờ sau say mềm trở ra, đã quên cởi dây lái xe mang theo cả mặt tiền của quán. Chủ quán là Wilkie đã nhận bồi thường 1000 dollar và tự sửa chỉ lấy hết có 346 dollar.

Đêm nay Wilkie như ở trên thiên đàng, chiếc răng vàng lấp lánh ló ra một bên miệng đang cười toe toét. Cái máy phát nhạc đang hét ầm ĩ bài “Mặt trăng xấu đang lên” (Bad Moon Rising) của ban nhạc Creedence Clearwater và quán rượu đầy nghẹt người, hầu hết ở trong số khoảng 500 người Mỹ xa quê hương đang sống ở thành phố này. Một số ít khách du lịch tìm xuống con đường phía sau khu Tombstone, và nếu họ tìm ra thì quán Longhorn hầu như chính là nơi họ đang muốn tìm.

Gã da đen lực lưỡng, hai cánh tay căng như ruột xe trong hai ống tay áo sơ mi sặc sỡ kiểu Hawai, thong thả đi vào quán Longhor ồn ào, gật đầu với Wilkie, leo lên hai bậc thềm, lách qua tấm màn kết bằng những quả thuỷ tinh vào một phòng riêng của quán nổi tiếng với cái tên Hole in the Wall (Lỗ trong tường), một chỗ dành riêng cho khách quen. Ngài đang ngồi trong chiếc ghế tựa dành riêng đọc tờ báo Wall Street Journal. Trên chiếc bàn cạnh ông ta là một chai rượu nho và một chồng thẻ thay tiền để đánh bài Poker.

Hai người đàn ông đang chơi bi-da kiểu 8 quả, và phía trên họ là 6 người ngồi quanh chiếc bàn chơi bài năm lá dưới ánh sáng của ngọn đèn có chụp màu xanh. Gã da đen không tìm hiểu mấy vị khách đánh bài, hắn đã biết họ là ai. Gallagher, Eddie Riker, Potter, Johnny Prophett, Wonderboy và Wyatt Earp. Một bọn người trông lạ lùng, nhất là Wonderboy, hắn trông như một anh hề. Bộ mặt hắn được chia đôi bởi một nét như vạch bằng bút đỏ chạy dài từ chân tóc xuống trán qua sống mũi đến tận cằm. Nửa bên trái mặt hắn bôi đen và nửa bên phải bôi trắng.

Gã đen kéo một cái ghế, ngồi cạnh một gã ốm, đầu đội nón vành phẳng. Hắn có bộ ria mép hình ghi đông và mái tóc bạc trắng, mặc áo sơ mi kiểu miền Tây màu đen, quần jeans và áo gi lê che khẩu Cobra 357 mà hắn gọi là Buntline Special (“Dây buồm đặc biệt”) đeo dưới nách.

- Đã quyết định ai vào danh sách chưa, ông Earp? - Hắn nhỏ nhẹ hỏi, mắt vẫn chăm chú vào các lá bài trên bàn.

- Bắt đầu là Early và tao. Chưa quyết định ai sẽ là người thứ ba. - Earp trả lời.

- Ông không phân biệt đối xử đấy chứ? - Gã đen cười nửa miệng hỏi.

- Lần cuối mày đã đi rồi, Corkscrew. - Hắn đáp.

- Cứt! Tôi là người giỏi nhất ông tìm được và ông biết điều đó. - Corkscrew trả lời với một thoáng tự kiêu.

- Ừa, tao biết - Earp trả lời và nhắc lại cái câu mà hắn đã nghe ít nhất mỗi tuần một lần từ miệng Corkscrew - Tôi đã có lần hạ tất cả những thằng dẫn mối ở Detroit ngay tại đó. Hắn ấn ngón tay cái xuống bàn.

- Nhưng đây không phải là Detroit. - Corkscrew đáp với một nụ cười mỉm, đối lại câu trả lời thường xuyên của Earp.

- Lần tới tao sẽ ghi tên mày vào. - Earp hứa rồi lật con bài tẩy lên cộng với cặp đôi trên bàn là 3 con và hắn thắng.

Earp nhìn chiếc đồng hồ Rolex vàng. Đã 9 giờ. Còn 30 phút nữa là đến giờ hành động.

Hắn nhìn quanh bàn, cho quyết định cuối cùng. Phần lớn họ là những kẻ đã dày dạn.

Cả bọn đều đã chịu đựng nỗi đau xót trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Hắn nói và đứng dậy:

- Ngồi chỗ tao này.

- Ông được bao nhiêu? - Corkscrew hỏi.

Earp đếm các thẻ thanh toán bằng một tay và nói:

- Ba trăm.

- Tôi cảm ơn ông. - Corkscrew nói, lách ngồi vào ghế.

Earp đã đặt kế hoạch cho vụ hành động này rất cẩn thận, y như mọi vụ hắn làm, và hắn cảm thấy thoải mái về toàn bộ công việc. Giữ một toán nhỏ và hành động thật nhanh, đó là phương châm của hắn. Nó đã giúp hắn nhiều năm nay. Hắn tránh ra khỏi vòm sáng đứng vào trong bóng tối, kiểm soát lại những khách quen như hắn vẫn thường xuyên làm.

Người ngồi cạnh hắn lúc nãy là Max Early, mặc áo khoác đi săn màu nâu nhạt phanh ra. Gã không mặc áo sơ mi lót, thân hình đang độ sung sức cũng như gương mặt gẫy góc cửa hắn đều rám nắng - một người làm việc ngoài trời. Khác với những người kia đều cắt tóc ngắn, những lọn tóc màu hung của Early từ dưới chiếc nón săn sờn cũ và nhăn nhúm xõa xuống đến tận vai. Early đứng im lặng khi Earp đứng lên. “Tôi thôi” hắn chỉ nói có thế và gom các thẻ thay tiền lại.

Earp thuộc lòng tất cả các chuyện riêng của họ.

Max và thằng nhóc to con Noel cùng với Jimmy mặt đầy mụn đang ngồi trong rừng rậm nhìn chăm chăm xuống cái hốc, trong khi những người khác của đội tuần tra đang lùng sục đám cỏ gần đấy. Trông nó có vẻ hoang sơ. Không có những vết chân mới và Jimmy đang nằm dài trên đất ẩm, áp tai vào miệng hốc trong mười phút mà chẳng nghe thấy một tiếng gì cả.

- Vậy tới phiên ai đây? - Noel nói, hắn là một thằng trẻ tuổi to con người miền Oklahoma. Với tác phong quân sự, hắn có thể lôi lên một người nặng khoảng 120 kí định chui như chuột vào hang ngay khi hắn mói thọc được một chân xuống hang.

- Tao đã đi lần trước. - Jimmy nói, hắn là thằng nhỏ gầy ốm ở xứ San Berdoo.

Early là đứa lớn tuổi nhất. Hắn 26 tuổi nhưng cảm thấy như đã 90 và hắn thấy phải có trách nhiệm đối với hai đứa kia.

- Cứt! Tao sẽ xuống - hắn thở dài - chẳng có ai xuống cái hang này từ một, hai tuần lễ nay đâu. Nhìn kìa, miệng hang đầy mạng nhện.

- Mày biết mấy cái thằng da vàng ấy mà - Noel nói - chúng có thể nằm dưới ấy hàng nhiều tuần lễ.

- Ừ hứ, - Early nói, lắp một băng đạn mới vào khẩu M-16 và lên đạn sẵn rồi kiểm soát lại ngọn đèn pin nhét trong ủng và băng đạn của khẩu Colt 45. Hắn căm thù phải chui rúc vào mấy cái địa đạo này, căm thù nó hơn bất cứ việc gì trong cuộc chiến tranh này, nhưng công việc phải hoàn tất càng sớm càng tốt, thế thì tại sao lại mất thì giờ. Hắn cột tóc ra sau bằng một dải khăn rồi lặng lẽ chui đầu qua miệng hang và tụt xuống căn hầm tối om. Hắn nằm nín thở, lắng tai nghe. Hắn chẳng đánh hơi thấy họ và cũng chẳng nghe thấy tiếng thở nào. Xong rồi, hắn nghĩ, Việt Cộng đã bỏ cái hang này. Hắn bắt đầu đi sâu vào hang, cắn chặt con dao giữa hai hàm răng, đưa khẩu M-16 tới trước và mò mẫm đi trong bóng tối. Các địa đạo này có thể đi mãi không hết, đôi khi ngoằn ngoèo, dích dắc chạy dài tới hai, ba cây số. Hắn ghét bóng tối và cảm giác ẩm mốc, nhưng hắn chưa muốn dùng đèn pin cho đến khi tin chắc rằng địa đạo đã bị bỏ phế.

Mẹ kiếp, một người sống ngoài trời từ miền Utah đến làm quái gì trong cái hố này. Hắn nghĩ.

Rồi hắn nghe thấy một tiếng động rất khẽ đầu tiên.

Một tiếng sột soạt.

Rồi một tiếng rít.

Rồi một tiếng đập cánh.

Và bất thình lình địa đạo sôi động lên với tiếng rít, tiếng đập cánh, tiếng cắn, những con dơi đói, đông hàng đàn vây quanh hắn trong bóng tối.

Early rú lên kinh hoàng. Hắn bắt đầu nổ súng. Hắn bắn hết cả băng đạn, nghe tiếng các đầu đạn cắm phầm phập vào đất, trong khi lũ dơi vẫn tiếp tục lao đến, hắn bắt đầu lùi lại, cầm dao chém loạn xạ trong bóng tối, sờ soạng tìm khẩu súng ngắn. Các sinh vật kêu chiu chít bao quanh, hắn rú lên chói tai trong khi đấm đá loạn xạ trong bóng tối. Nép sát người vào vách địa đạo, hắn bắn hết đạn của khẩu 45 vào bóng tối, bắn một cách mù quáng. Hắn móc ra một băng khác rồi lùi dần qua các lối ngoằn ngoèo của địa đạo ra phía cửa hang. Hắn bị mất phương hướng trong bóng tối và hai bàn tay hắn run rẩy. Dơi bám đầy trên tóc hắn, gặm đôi má hắn. Hắn lắp một băng đạn khác vào khẩu 45 và nhả hết đạn. Rồi hắn rút đèn pin ra, bắt đầu quét quanh địa đạo với hi vọng ánh sáng làm cho chúng sợ bay đi. Cuối cùng hắn cảm thấy luồng không khí mát thổi từ miệng hầm qua người hắn và hắn đưa tay ra phía sau để bám lấy gờ miệng hang chật hẹp. Bàn tay hắn sờ một cái gì mềm và ươn ướt mà đầu tiên hắn ngỡ là bùn. Hắn xoay người lại rọi đèn xem, thằng Noel to con đang buông thòng nửa thân xuống hầm, hai cánh tay còn để trên nền địa đạo. Bộ mặt nát ra như cháo. Máu phun ra thành bong bóng từ lỗ đạn rộng toác dưới mắt và tuôn ra từ mũi và miệng.

“Ôi Thượng Đế! Ôi lạy Chúa!” - Early rú lên trong khi các con dơi tiếp tục tấn công hắn, rồi bay qua hắn để tấn công vào bộ mặt đầm đìa máu của tên lính đã chết. Còn Early, vẫn la hét, điên cuồng bò qua xác người đồng đội đã ngã xuống, hổn hển hớp luồng không khí trong lành thổi xuống hầm, hiểu thật sâu xa rằng trong cơn hoảng loạn hắn vừa bắn chết người bạn thân thiết của hắn...

Eddie Riker - người sẽ nói với bạn một cách rất khiêm tốn - hắn là một phi công nhanh nhẹn nhất trong cuộc chiến tranh chết tiệt ở Việt Nam, là người khai tiếp theo trong cuộc thẩm vấn.

Họ cử một Đại tá nông nổi từ Sài Gòn đến để thẩm vấn Riker. Điều đầu tiên Riker nhận thấy là viên Đại tá này không đổ mồ hôi. Trời nóng đến gần 38°C trong bóng râm và độ ẩm vào khoảng 98 mà áo sơ mi của ông ta vẫn còn hồ cứng, vẫn khô như sa mạc Sahara. Trong khi đó Riker đang mặc quần đùi ka ki và áo thun mà còn ướt đẫm mồ hôi. Viên Đại tá đến dãy nhà lính mà Riker đang bị giữ ở đó, dáng người nhỏ bé kiêu căng, cố gây ấn tượng mình là nhân vật quan trọng, tay xách chiếc cặp da cá sấu và một kẹp hồ sơ nhỏ. Ông ta nói giọng đều đều và chẳng bao giờ nhìn thẳng vào mắt Riker. Suốt cả buổi ông ta nhìn đăm đăm xuống bản báo cáo, gõ chiếc bút chì chậm rãi lên bàn trong khi Riker kể lại câu chuyện. Riker biết hạng người này, y chỉ là một tên luật sư cặn bã ngồi lì ở Sài Gòn, ở ngoài cuộc chiến tranh. Viên Đại tá nói:

- Anh bị kết tội đã xâm phạm thân thể một sĩ quan.

- Tôi biết thế. - Riker nói.

- Tôi muốn nghe anh kể lại việc đó. - Viền Đại tá nói, tay giơ tập báo cáo trước mặt. Chiếc bút chì gõ nhịp tốc! tốc! tốc! Riker biết rằng bất cứ điều gì mình nói cũng chỉ như gió thoảng qua tai viên Đại tá. Đối với những người như vậy thì chiến trận cũng kết thúc như là ta hết giấy vệ sinh lúc nửa đêm thôi.

- Thôi được, - Riker nói. - Trước hết ông phải hiểu rằng tôi là thằng phi công trực thăng nhiệt tình nhất trong đội. Chúng tôi đang di tản những thương binh đang nằm ở vùng sông Ngân 5 tháng nay rồi. Nó chỉ cách đây khoảng 30 phút bằng đường không. Hoàn cảnh thật tồi tệ. Rất nhiều đụng độ và tổn thất nặng nề. Tôi phải bay sáu bảy lần một ngày, điều đó ảnh hưởng rất nhiều đến chiếc trực thăng Huey. Tôi nói để ông hiểu, với kế hoạch bay như thế, việc bảo trì là cực kì quan trọng.

Tuy thế chúng tôi lại nhận được một thằng Thiếu tá lười biếng đểu cáng - đúng là một thằng trốn việc, ông ơi - phụ trách việc bảo trì. Một thằng chỉ ngồi ám, hắn biết hắn chỉ ngồi chơi khắc vạch lên chiếc gậy gỗ để tính thời gian chuồn. Tất cả những gì hắn lo lắng là chóng chuồn khỏi nơi đây. Còn chúng tôi rớt trực thăng tứ phía, việc bảo trì như cứt ấy. Một buổi sáng nọ tôi đang bay tới để bốc một đám thương binh thì bất thình lình tôi bị chết máy. Tôi đang bay khoảng 180km/giờ, ở độ cao 30 mét thì trực thăng của tôi đột ngột rơi xuống như cái bao đựng xác chết tiệt ấy. Tôi rớt xuống, chiếc Huey lật nhào, các cánh quạt gẫy tung. Nhiều thằng bị bầm nát. Ông có bao giờ nhìn thấy một người bị cánh quạt trực thăng bằm nát không?

Viên Đại tá thở dài nhưng không nhìn lên. Ông ta quay đi, nhìn đăm đăm ra cửa sổ.

- Hãy bám lấy các sự kiện thực tế, Trung úy. - Ông ta nói.

- Đây là những sự kiện thực tế, thưa Đại tá. Nhiều thằng trẻ đang ở dưới ấy chờ được cứu còn tôi thì trực thăng lại rơi xuống và chặt nát chúng ra.

Riker ngưng một lúc đủ để châm một điếu thuốc.

- Còn tôi ư. Kết thúc sự việc tôi bị một vết bầm ở cổ và mắc chứng nhức đầu. Họ bốc tôi bay về căn cứ này và trên suốt đường về tôi đã nghĩ, thằng chó đẻ đó, tất cả những gì đáng ra hắn phải làm là giữ cho trực thăng bay an toàn thế mà hắn chả làm gì ngoài việc khắc chơi lên cây gậy trời tru đất diệt ấy. Công việc khốn kiếp của hắn là thế đấy. Điều đó cứ cắn xé tôi hoài. Khi trở về, tôi đến thẳng cái thằng chán việc ấy, giật lấy cây gậy của hắn và quất mạnh vào cái chỗ mà mặt trời không rọi được tới ấy, rồi tôi bẻ gẫy chiếc gậy và cầm khúc còn lại quất cho hắn một trận tơi bời cho tới khi hắn mềm ra như bún. Tôi định bắn bể mông hắn ra nhưng tôi đã không làm. Tôi chỉ quất roi vào hắn thôi. Rồi tôi gọi điện thoại bảo cho tòa án quân sự và họ cho bắt giữ tôi. Đó là toàn bộ câu chuyện.

- Đó là tất cả những gì anh nói à? - Viên Đại tá hỏi.

- Còn gì nữa đâu? - Riker trả lời.

- Anh không hối hận à? - Viên Đại tá ngạc nhiên nói.

- Hối hận à? - Eddie Riker nói sau một giây suy nghĩ - Vâng, tôi có hối hận. Bây giờ tôi nghĩ, nhẽ ra tôi phải giết chết cái thằng thối tha không đáng giá một chút nào đó. Chỉ có Chúa mới biết được hắn đã nhét đầy bao nhiêu túi đựng xác người.

Lần đầu tiên viên Đại tá nhìn vào hắn. Ông ta có vẻ giận dữ:

- Tôi đề nghị anh phải trả lời trước tòa về tội cố ý đả thương. Anh sẽ được chỉ định một luật sư bào chữa. Anh sẽ được đưa về Sài Gòn để vào khám.

- Thế thì có gì lạ đâu. - Riker nhún vai nói.

Viên Đại tá đóng kẹp hồ sơ lại và tỉ mỉ xếp các thứ vào cặp rồi đứng lên, phủi vài hạt bụi bám vào chiếc quần ủi thẳng nếp.

- Anh phạm vào một tội nặng đấy! - Viên Đại tá càu nhàu.

- Không, thưa Đại tá, cái tôi mắc phải là đã gặp một sĩ quan bảo trì tồi.

Viên Đại tá khệnh khạng đi ra khỏi dãy nhà lính.

Riker nhìn ông ta đi thẳng qua sân và leo lên xe jeep lái đi. Hắn đứng đấy và suy nghĩ. Trời đất ơi, đúng là một sự lãng phí. Là một phi công trực thăng nhanh nhẹn, nhiệt tình nhất ở miền Nam mà mình lại phải ngồi cô độc trong cái túp nhà này trong khi bọn trẻ tuổi đang chết mòn ngoài kia. Thế là hắn bỏ ra ngoài, vớ lấy một chiếc trực thăng đang nóng máy và trở lại với công việc...

Ngồi kế đó là Gallagher, người có dáng đi nghiêng ngả trông buồn cười như cả hai chân đều bị khập khiễng, dường như cả hai bàn chân lúc nào cũng bị đau. Mà chúng bị đau thật. Một quả địa lôi đã bật tung sàn xe jeep của hắn lên đến tận nách. Ngồi cạnh hắn là Johnny Prophett, người đã được nhận giải thưởng Pulitzer, nhưng hắn ở Việt Nam kể ra cũng quá lâu rồi. Bị thua cuộc vào năm 25 tuổi, hắn chuyển qua xài heroin để xoa dịu nỗi đau đã mất đi giấc mộng vàng son của hắn.

Prophett đang ngồi bên lề đường, nguệch ngoạc ghi vài chữ vào quyển sổ báo cáo hắn nhét trong túi vải bạt đeo trên vai. Lưng hắn đau và cổ họng nghẹt đầy bụi. Đã bao nhiêu ngày nay trời không mưa, đường xá cứng như đá và bắt đầu nứt nẻ thành những đường ngoằn ngoèo. Hắn đã lạc mặt trận hai ngày trước, cách đây khoảng bốn mươi cây số. Khi hắn giật mình thức dậy vào buổi sáng sau một đêm đầy ảo ảnh vì bạch phiến, hắn thấy đơn vị hắn đã đi mất. Chả có gì vứt lại ngoài những thứ thường lệ:, các lon rỗng và hộp đạn, những đống tro tàn, tất rách tả tơi và nắp thùng quá củ chẳng đáng bận tâm. Bao giờ cũng thế, họ rời đi như một buổi hội của dân du mục, họ đóng gói vào đêm khuya và chuyển sang thành phố khác.

Hắn đã chạy lồng lên như ngựa và bắt đầu cảm thấy cái đau đớn của sự rút chạy. Những cơn đau ở bụng, sự ngứa ngáy, cơn nhức đầu, mồm khô đắng. Bàn tay hắn run đến nỗi hắn viết thật khó khăn. Hơn nữa, mọi thứ tiếng động nghe cứ giống như nhau cả. Gần hắn không nghe thấy tiếng chiếc xe jeep chạy đến, cho đen khi nó suýt cán lên hắn, hắn mới giật bắn mình nhảy dựng lên rồi loạng choạng lấy lại thăng bằng và đưa một ngón tay cái ra. Hắn nhớ lại cái ngày hắn xin quá giang xe đi Woodstock và cũng thử như thế. Vào lúc hắn tới đây, âm nhạc chỉ còn là một kí ức.

Chiếc xe jeep phủ đầy bụi chạy vèo qua rồi rít thắng dừng lại, làm bụi bốc mù mịt.

- Anh phải cẩn thận chứ. - Gallagher nói giọng người miền Cincinnati - Tôi suýt cán anh bẹp dí.

Prophet khập khiễng đi lại tựa vào chiếc ghế ngồi bắn súng máy.

- Cho quá giang được không?

- Được chứ, nhảy lên - Gallagher nói, đẩy cần số về tốc độ chậm - Anh đi đâu?

- Tôi bị lạc trận tuyến. - Prophet vừa nói, vừa xoa hai cánh tay.

- Cứt. Anh đi lộn hướng rồi. Hành quân phía sau kia. - Gallagher nói, chỉ ngón tay cái qua vai.

- Thế anh đi đâu?

- Tôi định băng ngang qua Cam Ranh. - Gallagher nói.

- Anh làm nghề gì? - Prophet hỏi.

- Coi vài câu lạc bộ ở thành phố S.

- Nghe có vẻ cực đấy.

- Kiếm sống mà. Anh là phóng viên à?

- Ừ hử.

- Tôi quen mấy tên ở Đài truyền hình dưới đó. Hãy lấy lòng bọn chúng, hiểu ý tôi nói chứ?

- Đúng thế. - Prophet nói và gieo mình vào ghế ngồi, hi vọng đường sẽ không có quá nhiều ổ gà. Ít ra hắn có thể tới đấy, xin quá giang một chiếc Huey để trở về phòng tuyến. Hắn đu đưa một chân ra ngoài xe jeep nói:

- Ở Cam Ranh nghe có vẻ vui đấy chứ!

- Tôi sẽ để ý xem sao, - Gallagher nói. - Con đường này đầy lỗ nẻ. Tôi ghét lái xe loạng quạng khi anh cứ đong đưa một chân bên cạnh xe như...

Câu nói chưa ra hết khỏi miệng thì họ cán phải một quả mìn. Gallagher chẳng nghe thấy tiếng nổ nữa, tất cả điều hắn cảm thấy là cơn đau ghê gớm ở dưới chân, như bị một quả bóng chày đập vào, hắn bị bắn tung người lên không, cố gắng nắm lấy một cái gì, bất cứ cái gì, nhưng chả có gì để víu vào cả. Hắn rớt phịch xuống một vũng bùn nghe như tiếng ai đập quả bí rợ bằng một tấm ván. Hắn thở phì ra. Hắn lăn người nằm ngửa ra ngoài vũng sình lầy nhớp nháp, nhìn lên trời và nghĩ thầm, lạy Chúa, lạy Đức Mẹ và Thánh Joseph, hãy thương xót con, đừng để con chết nơi đây.

Phía bên kia đường chiếc xe jeep tan nát nằm chổng ngược, các bánh xe còn quay, sàn xe bay mất. Prophet nằm nghiêng, đờ dẫn nhìn đăm đăm chiếc chân hắn bị kẹt dưới đống sắt vụn. Hắn quên hẳn việc rút chân ra, cơn đau ở chân ghê gớm quá. Hắn nhổm người ngồi lên và dường như hắn nghĩ có thể làm cho chiếc xe lật trở lại được. Rồi hắn ngất đi...

Và còn tay Wonderboy, ngôi sao nhạc rock đã biến thành thủy thủ. Hắn đã để lại phần lớn gương mặt ở vùng châu thổ sông Mekong.

Harswain là một người thấp, ốm như cây sậy có bộ râu mép rậm và mái tóc cứng như lông nhím. Ông vẫn còn mang cây gậy ngắn từ những ngày còn làm Thanh tra khu vực ở đảo Parris. Ông ngồi trên một khúc cây và lấy gậy vạch vu vơ trên đất.

- Mày sẽ biết khi nào nó đến, cậu bé đẹp trai ạ! - Ông ta nói với Wonderboy, - viên đạn có tên mày khắc trên ấy. Mày sẽ gặp nó. Nó sẽ bay vù vù ngang qua cánh đồng và bắn vào mắt mày một giây trước khi xơi tái bộ óc mày.

Ông ta cười to.

Wonderboy cảm thấy lạnh gáy. Nỗi sợ hãi dăng lên trong lồng ngực, ép hai buồng phổi làm hắn thấy nghẹt thở. Đã đến lúc phải khuây khỏa một chút. Hắn làm việc 77 ngày liền, không có giải lao. Sáu mươi ngày đầu đã qua, còn lại 17 ngày nữa. Hắn lắng nghe Harswain và suy nghĩ về viên đạn ấy.

Đó là lúc địch tấn công. Thật là hỗn loạn - mọi người, chạy quanh, loạng quạng kiếm một chỗ núp, chộp lấy vũ khí. Thư nhà vừa gửi tới. Harswain hét với họ như mọi khi.

- Nằm sát xuống. - Ông đang rống lên thì Wonderboy trườn như rắn trên mặt đất, nép vào một thân cây đã bị đốn ngã. Thình lình đất bắn tung lên cách đó khoảng 3 tấc, hắn rúm người nép xuống thân cây, chuẩn bị súng sẵn sàng rồi như một tài tử phim cao bồi hắn xoay người, nhổm dậy, vắt khẩu súng ngang thân cây, nổ 5, 6 phát vào cánh rừng rậm.

Đó là lúc hắn nhìn thấy viên đạn, hoặc nghĩ là đã nhìn thấy nó, cái đầu đạn chì xuyên qua không khí về phía hắn như một hình ảnh quay chậm, xoay tròn đỏ rực như một con ong vò vẽ giận dữ, một cái đầu đạn chì đang rít lên trong không khí.

Hắn ngã ngửa ra mắt nhắm nghiền lại chờ đợi, lắng nghe tiếng nhiều đầu đạn chì xé nát thân cây trên đầu hắn, rồi hắn vứt khẩu súng và quờ quạng bò trên hai tay hai chân bỏ trốn, nức nở vì sợ, khi nghe tiếng Harswain thét gọi: “Trở lại dây, thằng hèn nhát, gan thỏ. Mẹ tổ mày!”. Hắn nghe thấy ông ta bắn một tràng sau lưng hắn và thấy đạn cày tung đất quanh chân hắn, nhưng hắn vẫn không dừng lại. Hắn đứng dậy tiếp tục chạy cho đến lúc không còn chạy nổi nữa. Hắn ngã sấp xuống và nằm bẹp.

Hắn nghe tiếng súng phun lửa gần đấy, cảm thấy hơi nóng dội lại từ đó và hắn ghé nhìn qua đám cỏ rừng. Cái thằng trẻ đó ở cách hắn khoảng 6 mét đang cháy mọi cái trước mặt nó.

Chỗ nấp đó chắc chắn, Wonderboy nghĩ và bò lại sau lưng nó.

Có tiếng ai đó thét lên “Pháo tới đấy!” và hắn nghe tiếng xé gió của quả pháo từ trên trời rơi xuống. Hắn co rúm người lại như một con sên trong vườn. Quả pháo trúng ngay bình xăng của khẩu súng phun lửa làm thằng bé bung lên trong đám lửa khổng lồ quạt trùm lên người hắn. Một giây trước khi ngất đi hắn cảm thấy da trên mặt hắn bắt đầu rã ra...

Cuối cùng là Corkscrew và Potter. Hiện tại chúng là một cặp. Corkscrew và thằng em trai Hammer đã có lần chở gái điếm tại thành phố Mo ở băng sau của chiếc xe Lincoln màu vàng nhạt, còn Potter đang kiếm sống trong một nông trại ở Arkansas, ở đó đất đai cằn cỗi đến mức như hắn nói một cách tế nhị: “Kiến còn phải leo lên cây để làm tình”. Bọn chúng đã may mắn ra khỏi được cuộc chiến tranh và thân nhau còn hơn anh em sinh đôi.

Bọn chúng đã giữ ngọn đồi ở Đăng Bang hai ngày nay, chống lại một nhóm Việt Cộng hình như có mặt ở khắp nơi.

Buổi sáng ngày thứ ba Potter bò xung quanh đỉnh đồi kiểm tra xem ai còn sống sót. Đám lính còn lại của hắn đều đã chết cả. Đạn pháo đã quật ngã hầu hết cầy cối và mưa dã làm các hố pháo đầy nước sình lầy. Các con muỗi nở ra và bay là là trên mặt nước các ao vũng hôi thối. Bấy giờ chỉ còn lại ba người bọn chúng. Potter - gã trồng trọt chân lấm tay bùn nghèo nàn ở Arkansas, Corkscrew và đứa em trai, Hammer của hắn, một cặp ma cô đang sống gấp ở Detroit thì bị bắt đi quân dịch. Tất cả đều là lính bộ binh, có những nét giống nhau như thích chén một trái chuối với li rượu gin.

Potter bò trở lại căn hầm trú ẩn nhỏ mà hắn dựng lên bằng những cây gẫy và bùn đất.

- Chúng ta đã hết sạch mọi thứ - Corkscrew bảo với Potter và Hammer - hết đạn dược, hết thức ăn, hết nước.

- Hết may mắn - Potter càu nhàu tay ôm lấy bụng - tao phải uống li rượu đây, Corkscrew.

Corkscrew nói:

- Bao tử mày chứa đầy mảnh đạn, bồ ạ! Mày mà uống thì mày sẽ chết.

- Dù sao tao cũng chết rồi! - Potter trả lời.

- Cứt bò ấy! - Corkscrew lầm bầm.

Hammer không nói gì. Corkscrew với tay lay thằng em dậy, Hammer quay sang bên và ngã úp mặt xuống một vũng nước.

- Hammer! - Potter thét lên. Hắn nhảy xuống nâng Hammer dậy và lôi gã lên miệng vũng. Nhưng người Hammer lạnh ngắt và đôi mắt đã mất thần.

- Ôi! Trời tru đất diệt tất cả đi - Corkscrew thét lên giận dữ - mẹ kiếp chúng mày, lên đây. Chúng mày muốn cái gì, bọn khỉ đột khốn kiếp, tới đây lấy đi…

Khi đạo quân tiếp viện lên đến trên đồi, Corkscrew đang đứng bên thằng Potter bị thương và xác đứa em trai, tay cầm nòng khẩu súng M-16 đã hết đạn, chờ VC đến...

“Ừ! - Earp nghĩ thầm, - tất cả bọn chúng đều có thể được việc trong lúc gay go, nhưng đêm nay chỉ cần Riker là đủ rồi!”. Hắn gật đầu với gã đội nón săn.

- Tao ra đây! - Riker nói. Gã lột chiếc nón có thêu hàng chữ vàng ‘Home Sweet Home’ (Ngôi nhà yêu quí) ở viền nón và gạt các thẻ thay tiền vào đấy.

Gã đang mặc quần đùi đá bóng vải ka ki và chiếc áo đỏ hở cổ, lông ngực xoăn xoăn lộ ra ở cổ áo. Trong khi mái tóc rậm đen của gã đang ngả sang màu muối tiêu và thỉnh thoảng gã đã phải đeo cặp kính lão mạ vàng để đọc sách thì đôi vai và cánh tay rám nắng của hắn cuồn cuộn những bắp thịt dẻo dai của một người biết giữ cho mình cường tráng. Gã đi ngang qua phòng, đổi các thẻ thay tiền thành tiền ở chỗ người đàn ông ngồi ở cửa mà bọn chúng đều tôn kính gọi là Honorable (Ngài).

Gã Johnny Prophett người ốm, mắt trũng sâu, rời khỏi bàn đánh bạc và kéo Earp vào một góc tối trong phòng nói: “Hãy để tôi đi chuyến này, vui lòng chứ?”.

- Nào, hãy nhìn lại chú mày xem. Hai bàn tay chú mày run đến nỗi không thể pha được một li rượu mà không nhúc nhích cả cánh tay.

- Việc rất nhanh, chỉ uống hết tách cà phê là xong mà!

- Johnny, để lần khác, thế nhé? Tao phải nói thẳng với chú mày. Nếu tao mang chú mày đi làm việc này, chú mày có thế làm cả tụi mình bị giết hết. Có thể lần tới, thôi nhé...

- Tự tôi hại tôi. - Prophett lẩm bẩm, mắt nhìn xuống chân.

- Chắc chắn, đúng như vậy. - Earp nói và vỗ tay hắn.

Earp, Riker và Early rời gian phòng dành riêng, đi qua phía sau quầy rượu, vào văn phòng riêng của Wilkie. Hắn không để ý đến bọn chúng. Văn phòng trông giống như một bãi chứa phế liệu trong nhà. Báo chí, hóa đơn, bìa kẹp hồ sơ và tạp chí chất đống trên bàn giấy, trên ghế, trên sàn nhà và nhét đầy một cái tủ đựng hồ sơ kiểu cũ dựng trong góc.

- Wilkie giữ từng mảnh giấy mà hắn nhặt được trong đời. - Early nói vừa,lắc đầu buồn bã trong khi dưa mắt dò xét cái văn phòng bừa bãi không thể tưởng được này.

- Đây là điều hắn làm. - Earpp trả lời. Hắn mở một ngăn kéo bàn giấy, bỏ khẩu 357 của hắn vào đấy rồi lấy ra một khẩu 9 li có gắn ống hãm thanh. Hắn bật băng đạn ra kiểm tra. Đầy ắp.

Chuông điện thoại reo, một tin báo giọng nghẹt lại gọi đến. Riker nhận ra và trao ống nghe cho Earp.

- Earp đây. ừ... xuất sắc! Xuất sắc! Được, chúng tôi đi đây. Phải thật cẩn thận. Chúc may mắn.

Hắn gác máy và thật chậm rãi xoa hai bàn tay vào nhau.

- Chúng ta gặp may. Nàng đến đó trước hắn. Hắn vừa đặt buồng được 10 phút và nàng đã sắp xếp để thuê căn phòng ngay cạnh.

- Thế là đèn xanh rồi. - Early nói.

- Ừ. - Earp đáp.

- Tôi thấy giống như thả bộ đi dạo ấy. - Riker bảo.

- Có thể. - Earp nhướng mày nói - Thôi đi, chúng ta có 10 phút.

Prophett cũng rời căn phòng dành riêng đi ngang qua quầy rượu vào phòng vệ sinh nam. Hắn ngồi xuống, lấy trong túi ra một hộp nhựa nhỏ đựng ống chích, một cây nến, một chiếc muỗng và một gói heroin. Tay run run hắn đốt ngọn nến, cắm nó trên cái giá kẹp giấy vệ sinh rồi giốc một ít chất bột vào thìa, nấu trên ngọn lửa cho đến khi nó trở thành một chất lỏng trong sủi bọt, các ngón tay bóp ống chích đẩy không khí ra rồi cắm kim hút chất lỏng vào. Hắn vươn cổ tay ra. Mũi kim mày mò tìm một tĩnh mạch cắm vào, rồi ấn sâu hơn. Prophett rùng mình nhè nhẹ, hít một hơi dài và run lẩy bẩy. Một vẻ hài lòng hiện ra trên gương mặt hắn. Hắn nhắm mắt lại và mỉm cười.

Khách sạn Dusit Thani chỉ ở cách đó một đoạn ngắn, đi bộ cũng được, nhưng bọn chúng vẫn đi bằng chiếc xe vận tải nhẹ của Riker và đậu ở phía sau. Riker xuống xe, ở lại bên ngoài ngay gần đấy. Early và Earp lên phòng 429. Nàng đã đợi sẵn. Earp nói:

- Bọn anh cho em 5 phút để tìm biết số lượng hàng. Căng thẳng không?

Nàng lắc đầu.

- Cô gái giỏi. Vậy làm đi.

Nàng rời phòng, leo cầu thang lên lầu 3 rồi theo thang máy trở lại, để đề phòng trường hợp có người theo dõi nghe trộm. Nàng gõ cửa phòng 427 và cửa được mở ra gần như ngày tức khắc bởi một gã Tàu mập, to con, có một vết sẹo xám xịt chạy dọc một bên mặt.

- Mrs. Giu?

Nàng gật đầu và gã lùi lại để nàng bước vào phòng, rồi gã liếc nhanh kiểm tra hành lang trước khi đóng cửa. Gã ngạc nhiên. Người đàn bà đẹp tuyệt, nhỏ nhắn, tự nhiên, gần như vương giả trong cách ăn vận. Nàng mặc chiếc áo dài dạ tiệc bằng lụa xanh màu ngọc bích, đeo găng tay trắng. Đôi bông tai ngọc trai có vẻ đắt tiền. Hiển nhiên nàng chẳng có vẻ gì của một người đi giao nhận ma túy.

- Tôi là Mr Sen. - Gã nói - Cho xem hộ chiếu?

Nàng lấy trong bóp ra một quyển sổ nhỏ bìa bọc da và đưa cho gã. Hắn kiểm tra thật kĩ, cố tìm ra những dấu vết giả mạo nhưng chẳng phát hiện ra điểm nào. Nếu nó qua được mắt gã nó sẽ qua được mắt hải quan.

Hộ chiếu ghi nàng là Mrs.Victor Giu, một quả phụ 29 tuổi, sinh tại Bangkok. Nàng đã có thời gian đi du lịch, phần lớn là ở Malaysia, Hong Kong, Philippines.

- Tôi được biết qua giấy thông hành bà là một vũ nữ. - Gã nói.

- Vâng. Chiếc rương hai lớp ấy dùng để đựng quần áo của tôi.

Sen hơi mỉm cười nói:

- Tốt lắm. Một ý nghĩ rất thông minh về chiếc rương ấy. Nó chứa gấp ba lần một chiếc va li quần áo thường. Bà hiểu việc bà phải làm chứ?

- Vâng. Tôi sẽ gởi bốn chiếc hòm đến Seattle. Sau khi tôi làm xong thủ tục hải quan, một chiếc xe Limousine sẽ đón tôi. Khi các chiếc hòm đã được chất lên xe, tôi sẽ được trả nốt phần tiền công còn lại và tự do ra đi.

- Vâng. Thật là giản dị.

Gã lấy ra từ ngăn tủ quần áo một bao thư và đưa cho nàng:

- Đây là vé khứ hồi của bà và 2.795 dollar. Đó là 500 dollar tiền chi phí vặt và một nửa tiền công.

Mrs. Giu nhanh chóng tính ra giá trị của nó.

Sen nói tiếp:

- Chẳng ít đối với công việc làm trong vài giờ.

- Ông quên tính đến sự nguy hiểm. - Nàng vừa nói vừa đứng nhích về phía cánh cửa nối liền hai căn phòng.

Sen nói:

- Chẳng có gì rắc rối đâu! - Gã bị thu hút bởi người quả phụ lịch sự và bắt đầu nói bốc. Hắn nâng một chiếc rương quần áo để nó lên giường và mở ra, giảng giải rằng các vách rương được nhét những bánh bạch phiến nén chặt, gối trong giấy bạc tẩm cà phê. Cà phê làm mất mùi bạch phiến để chống lại lũ chó được huấn luyện tìm ma túy. Cái túi trong va li và nhiều ngăn trong hai lớp chứa các gói nhỏ bột thơm để thanh tra không ngửi thấy mùi cà phê. Trong khi gã tả về các lần vận chuyển, Mrs. Giu tựa lưng vào cánh cửa thông sang phòng kia và bí mật mở khóa, rồi nàng đi ngang qua phòng đến bên chân giường giữ cho Sen khỏi lưu ý đến cánh cửa. Sen nói:

- Chúng tôi chưa mất một lô hàng nào trong sáu tháng nay. Không có gì đáng lo ngại cả.

Gã đang quay lưng lại cánh cửa thông sang phòng bên và đang nói, thì cánh cửa bật mở và Earp nhanh nhẹn bước vào phòng. Sen nghe tiếng động và qua tấm gương của tủ quần áo, nhìn thấy Earp sau lưng gã. Gã đưa tay để rút khẩu súng ở thắt lưng, quay lại đồng thời quỳ gối xuống.

Earp đứng cách gã khoảng ba mét, hai chân hơi dạng ra, cánh tay đã giơ sẵn khẩu súng, Earp bắn phát đầu tiên. Phát súng nổ chỉ nghe như ai đó vừa đóng mạnh cửa. Viên đạn của Earp ghim trúng mắt trái của Sen trong khi gã còn đang rút súng, đẩy bật đầu gã ra sau. Gã té vào giường.

Một cơn đau buốt cháy lên trong đầu Sen. Hai tay, hai chân tê dại, vị mặn của máu trào lên miệng, căn phòng quay cuồng. Gã thấy khẩu súng rớt khỏi tay gã, khi nhìn vào đầu ống hãm thanh và phía sau khẩu súng, hắn thấy một người đàn ông cao với bộ ria bạc đang đứng sừng sững bên phải. Khẩu súng lại khạc đạn và gã thấy căn phòng nổ tung thành hàng trăm màu sắc chói lòa rồi vụt tắt.

Trong khi Sen ngã gục, đổ về phía trước thì Riker chạy ào vào phòng tắm, quơ vội nhiều giẻ lau và khăn bông, chạy vù trở lại, áp chặt các giẻ lau những vết thương đang chảy máu của Sen. Mọi việc làm xong trong 20 giây, Earp lật chiếc rương hai lớp lên mở ra, nói:

- Món này nhét vào thì chật cứng.

- Gã này phải nặng khoảng một trăm kí. - Riker nói trong khi cùng với Earp gắng sức nhấc xác chết lên và cố nhét nó vào rương. Sen nằm nghiêng, hai đầu gối co lại,. đầu gục xuống ngực. Bọn chúng đè nắp rương xuống, khóa lại, nâng một đầu rương lên và dựng nó thẳng đứng.

- Chúng ta sẽ cho bốn người khuân vác đến mang đi. - Earp nói.

Mrs. Giu đi thang máy xuống phòng khách, ra khỏi khách sạn với hai tay không và gọi một chiếc xe lam đang chờ khách gần đấy. Hai phút sau Earp và Riker rời khách sạn bằng cửa hậu, sau khi đã kiểm soát cả hai phòng. Chúng theo cầu thang chữa cháy xuống và chất các chiếc rương lên xe tải.

- Bao nhiêu? - Early hỏi.

Trong khi chúng lái xe vào bóng đêm, Earp ngồi yên vị, mỉm cười nói:

- Ba mươi bảy thỏi.