← Quay lại trang sách

21. HONG KONG

Hatcher yêu Phương Đông. Anh đã ở đấy nhiều năm trước khi Sloan gửi anh qua Trung Mỹ, nhiều năm ở trên các con sông vắng vẻ, so cựa với Ts’e K’am Men Ti, những tên cướp sông hoạt động ở phía Nam từ Thượng Hải và phía Đông Thái Lan vào đến tận các con kênh Macao của Hong Kong. Anh biết tất cả bọn chúng. Joe Cockroach. Tàu lai Malaisia, có giọng nói Ănglê ngượng nghịu và mặc đồ tơ tằm đặt may khi hắn làm ăn ở các vùng nước hẻo lánh trên sông Jungsian. Harry Tsin, có bằng đại học và có một cái chân giả ở trại tù bên Nhật. Sam-Sam, một kẻ tâm tính bất thường kiểm soát con sông này đòi tiền mãi lộ của bất cứ ai làm ăn ở đấy và lột da bất cứ kẻ nào qua mặt hắn, rồi treo bộ da ngay bên cạnh thuyền hắn để răn đời.

Rồi Cohen, gã Tsu Fi trắng.

Trong khi chiếc máy bay 744 lướt qua vịnh và hướng về phía phi trường Kai Tak, anh cảm thấy trào dâng trong lòng một niềm kích động. Chẳng phải vì Hong Kong là một nơi thích thú đặc biệt - ở đó quá đông người, quá ồn ào, riêng nó đã quá chật chội - nhưng vì đây là một nơi mọi chuyện ở phương Đông bắt đầu, ở đây những kẻ chuyên đổi tiền ngồi chồm hỗm trước bực cửa nhà băng Trung Quốc, còn những người giàu thì xuôi ngược như nước thuỷ triều. Ánh hồng đầu tiên của bình minh ló ra ở chân trời thì vừa lúc máy bay của họ từ phương Nam đến, bắt đầu giảm tốc độ. Shaukiwan, thành phố nổi với những thuyền mành, thuyền tam bản, thuyền thoi lướt êm đềm phía dưới, rồi đến đảo Hong Kong và vùng vịnh, cuối cùng là bán đảo Kowloon (Cửu Long) đối diện với một bến cảng trù phú có những tàu chở hàng từ khắp nơi trên thế giới đến. Các thuyền mành, thuyền tam bảo vây lấy chúng như đàn chó con tìm vú mẹ.

Hatcher có những người bạn thân ở đấy, và cũng có những kẻ thù xưa nữa nhưng anh chả bao giờ nghĩ đến chúng. Đừng bao giờ nhìn lại đằng sau, Sloan đã bảo anh ngay từ lúc đầu.

Lúc ấy là 5 giờ sáng, chỉ còn hai tiếng đồng hồ nữa là chuyến bay suốt của anh đi Bangkok khởi hành, chắc chưa phải lúc gặp những phiền phức. Anh sẽ ăn tại một nhà hàng nhỏ mà anh thích cách phi trường vài cây số và lại bay tiếp.

Khi anh tới phi trường, thình lình kế hoạch của anh bị thay đổi. Điều đầu tiên anh nghe thấy khi bước vào phòng đợi là tiếng loa mời.

- Xin chú ý, hành khách vừa đến tên Hatcher, xin mời liên lạc với quầy hướng dẫn của hãng Pan American càng sớm càng tốt...

Anh đến quầy của hãng Pan American đặt gần cổng.

- Tôi là Hatcher - anh bảo với cô gái Á Châu xinh xắn và duyên dáng - cô đã cho mời tôi.

- Mời ông nghe điện thoại ngay đây - nàng vui vẻ nói, tay chỉ vào phòng điện thoại ở cuối quầy. Cô điện thoại viên cũng vui vẻ như thế: “Ông phải gọi số điện thoại đã trả tiền trước ở Washington và xin hỏi trung sĩ Flitcraft”, nàng nói và đọc số điện thoại. Hatcher nhắc lại con số và tìm một điện thoại đã trả tiền để gọi.

- Văn phòng Điều tra đặc biệt, trung sĩ Flitcraft đang nghe - một giọng nói méo mó trả lời từ đầu dây bên kia. Hắn nhanh chóng nghe điện thoại - Ông Hatcher đấy à?

- Phải. - Hatcher nói nhỏ.

- Xin ông cảm phiền cho tôi biết số quân hiệu cũ của ông ở Hải quân, được chứ thưa ông?

- Chẳng hề gì - Giọng Hatcher khàn khàn - số 3146021.

- Rất tốt, thưa ông. Ông cũng đã qua phần kiểm tra giọng nói. Đại tá Sloan nói ông hãy chờ ông ấy ở Hong Kong. Ông ấy đến sau ông vài giờ. Quí ông có phòng cạnh nhau ở khách sạn Peninsula (Bán Đảo), ông ấy sẽ gặp ông ở đấy vào khoảng mười giờ, tùy ông nhận hay không.

- Có thế thôi à?

- Thế thôi, thưa ông.

- Cám ơn trung sĩ! - Hatcher nói và gác máy. Mẹ kiếp, anh nghĩ, Sloan đang theo thật sát vụ này. Chuyện này còn quái quỉ gì nữa đây?

Đối với Hatcher, khách sạn Peninsula xác định đặc điểm của Hong Kong. Nó dựng lên thẳng đứng như một cột mốc ngoài mũi bán đảo Kowloon, đối diện với chiếc phà Star Ferry chuyên chở khách vào khu trung tâm trên đảo Hong Kong. Những chiếc xe hơi Rolls-Royce sang trọng dành cho khách xếp hàng dài ngoài cửa trước các xe kéo. Viên quản lí là một người Á thấp bé, mặc bộ áo vét cài chéo màu sẫm, còn người gác cổng cổ lỗ mặc chiếc xường xám truyền thống bằng lụa thêu. Trong góc phòng khách một người đàn bà tóc vàng trông có vẻ là người Thụy Điển đang chơi những giai điệu Trung Quốc trên cây đàn hạc Thụy Sĩ cho những người đến khuya hoặc dậy sớm thưởng thức. Đây đúng là nơi Đông Tây gặp nhau và là một trong những khách sạn sang nhất thế giới. Khách được đối xử như vua chúa.

Khi anh về phòng thì trời đang mưa. Người phục vụ treo xắc quần áo của anh lên, mở quạt trần và TV, biến đi trong một hai phút rồi trở lại mang đến một xô đá.

- Mm goi. - Hatcher nói tiếng cảm ơn và dúi một tờ 5 dollar Hong Kong vào tay anh ta.

Khi người phục vụ đi khỏi, Hatcher tắt TV, mở cánh cửa trượt và bước ra bao lơn. Anh ngủ rất ít trong ba ngày qua, và anh để cho làn gió lạnh của cơn mưa làm tươi mát lại người trong khi ngắm mặt trời đang lên xua đuổi cơn giông ngang qua vịnh. Cơn giông đã đi qua hòn đảo, để lại phía sau những tòa nhà chọc trời và những tháp lồng kính lấp lánh dưới ngọn núi Victoria cao vút.

Anh gọi điểm tâm và bảo người bồi đặt bàn ngoài bao lơn. Trong khi ăn anh nhìn tàu bè ra vào hải cảng, chiếc Star Ferry đang lao về phía hòn đảo, chiếc xe điện Peak Train đang lướt ngược lên sườn núi.

Anh bắt đầu thiu thiu ngủ. Thời gian chờ đợi chuyến bay đang ngấm vào người anh, và vì những lí do mà anh không hiểu ngay được, trí óc của Hatcher len lỏi quay về một đêm tối cách nay đã mười năm. Đêm đó anh đáp xe điện lên núi trong bóng đêm, xe chạy qua các rặng cây đa, vượt qua các căn nhà giàu có. Hình ảnh lờ mờ của Harline đang đợi trên đỉnh núi, một điếu thuốc cháy đỏ giữa đôi môi đang mỉm cười. Hatcher dẫn hắn đi vòng sang ghềnh đá về phía trên và Harline nồng nhiệt chìa tay ra bắt, mồm hầu như đầy nước dãi, giọng nói Ănglê sai bét trong bóng tối: “Rất tốt khi làm ăn với những người mà ta có thể tin được, bồ tèo ạ!”. Lúc đó Hatcher đã vờ làm rơi bao thư, cúi xuống để nhặt nó lên rồi chộp lấy hai đầu gối gã nói giọng Ănglê này làm như anh đang túm lấy hắn, và hất tung gã đàn ông mảnh khảnh ra phía sau làm cho gã rơi xuống vực thẳm cao khoảng 120 thước, tiếng thét kinh hoàng của lụi dần trong bóng tối.

Hatcher giật mình tỉnh giấc và ngồi nhìn ngọn núi Victoria. Điều ấy chui ra từ nơi quái quỉ nào nhỉ? Hôm qua, đó là chuyện xưa, ta không bao giờ nhìn lại, không bao giờ nghĩ lại, không bao giờ quay trở lại trừ khi công việc đòi hỏi, và khi nó đòi hỏi, ta đối phó với nó bằng những phản xạ ngày xưa, tiềm thức của ta cung cấp bất cứ cái gì cần có để duy trì sự sống. Bây giờ, bất thình lình nó đến, nổi lên từ lúc khởi đầu, bám riết lấy anh. Bất chợt anh tự hỏi vì sao anh đã giết Harline. Sloan chưa bao giờ nói cho anh nghe và anh cũng không hỏi.

- Đây là mệnh lệnh. Anh là một người lính thì phải làm việc của lính. Lính không được hỏi. - Sloan đã nói như thế lần đầu tiên khi anh hỏi tại sao. Và bây giờ, lần đầu tiên kể từ khi anh gặp Sloan, Hatcher nghĩ, một người lính không có đồng phục, không có lí lịch, không có giấy chứng nhận hoặc căn cước thì đó là loại lính quái quỉ gì nhỉ? Và bây giờ anh đang ở đây, một lần nữa mối nghi ngờ về Sloan lại gặm nhấm lòng anh.

Ngoài kia trên đảo, những con diều hâu tai đen trước đó đã bay vào trú dưới những tàn cây để tránh mưa, bây giờ đang dang rộng đôi cánh dài 6 tấc bay vút lên cao. Hằng bao nhiêu thế kỉ chúng đã bay lượn bên những ngôi nhà quí phái trên sườn núi với những tài phán (taipan), những người điều hành kinh doanh, những ngôi nhà điểm lốm đốm trên mặt triền núi như những pháo đài nhỏ. Phía dưới là khu vực Trung tâm trải rộng, trái tim thương mại của Hong Kong. Ở đó các tên gangster Tàu vênh váo lên với các chủ nhà băng Ănglê và các tài phán, ở đó các triều đại được dựng lên, các đế quốc thắng và thua, vàng là vua, nguyên tắc ràng buộc nhau là tiền bạc.

Một hòn đảo do các tay buôn lậu và cướp biển dựng lên, Hatcher nghĩ thầm. Chỉ có một điều duy nhất đang thay đổi ở đây là thời gian.

Và khi nghĩ về bọn cướp, đầu óc Hatcher lại ngược dòng thời gian, lần này về Cohen, và một kí ức nữa lại hiện ra trong óc anh. Lần này là một kỉ niệm vui.

Nghĩ về Cohen, Hatcher cảm thấy dễ chịu, vì Rob Cohen là một trong những người đặc trưng làm cho Đông phương đúng là Đông phương, một con người huyền bí, một người Mỹ xa quê hương, và đã trở thành một huyền thoại của Hong Kong. Hatcher là một trong số ít người biết được toàn bộ vở kịch. Họ là những người bạn gần gũi và tin cậy nhau, mặc dù họ đã không gặp mà cũng không nói chuyện với nhau trong nhiều năm.

Mười năm trước đây, khi họ gặp nhau lần đầu tiên, Cohen đã nổi tiếng là vua của các kênh rạch ở Macao, một ông vua khác kiểu, mua hàng lậu rất tài nghệ và chở các ghe hàng lậu qua mặt các trạm Hải quan Hong Kong nhiều chuyến trong một tuần với sự ranh mãnh của một lãnh chúa Trung Quốc.

Từ đó Cohen nổi tiếng là một Tsu Fi da trắng trên sông, mặc dù phải mất một thời gian Hatcher mới hiểu được nghĩa của từ đó. Tất cả những gì Hatcher biết là: nếu bạn muốn biết những bí mật bàn trong phòng kín ở Hong Kong thì người Do Thái thấp nhỏ, gân guốc này - với giọng nói miền Boston và bộ râu lởm chởm, mặc quần áo Tàu, nói ba thứ tiếng địa phương khác nhau, có một khúc trên sông để buôn bán, đã trở thành một người bí ẩn và đáng sợ nhất ở Hong Kong - là người bạn cần đến.

Trước khi họ gặp nhau, Hatcher đã nghe nhiều chuyện về Cohen - những lời đồn đại, những chuyện phóng đại, những chuyện bịa đặt - tất cả những vu khống, tất tần tật đều đúng trong một phạm vi nào đó. Nhưng sự thật đúng đắn còn lạ lùng hơn nhiều những điều tưởng tượng mà những kẻ gièm pha Cohen hoăc những kẻ thù của Cohen có thể bịa ra được. Qua nhiều năm, Cohen và Hatcher đã tiến từ chỗ là những đối thủ đế phải dè chừng nhau để trở thành đôi bạn thân thiết, Hatcher đã dần dần trở nên tin cậy con người đa mưu như truyền thuyết ấy. Đúng lúc này anh dần dần từng bước liên kết câu chuyện lại với nhau.

Trở lại năm 1975, văn phòng của Cohen mới là một buồng nhỏ có hai phòng tẻ ngắt, bụi bặm nằm trên một phòng châm cứu ở phố Cat đông đúc, thật ra chỉ là một phòng đợi với hai chiếc ghế ngồi chả tiện nghi chút nào. Trong phòng rất nóng. Chẳng có điều hòa không khí và cái quạt trần có vẻ như đã hỏng từ đời nảo đời nào ấy.

- Ông Hatcher đấy à? Xin mời vào.

Cohen nói bằng cái giọng pha tạp một phần Boston, một phần Ănglê và một phần ê a kiểu tiếng Tàu.

Để gặp anh ta, Hatcher phải nheo mắt đi qua luồng bụi đang nhảy nhót trơng ánh nắng rọi qua cửa sổ. Cohen đang ngồi trong một chiếc ghế dựa thẳng in bóng mặt trời. Bất chợt Hatcher nhớ ra anh ta. Hatcher chìa tay ra nói:

- Chúng ta đã gặp nhau trước đây.

- Phải - Cohen đáp lại bằng một cái bắt tay nồng nhiệt, - hai năm trước, lúc ngược dòng Beijiang vào vùng Chin Chin.

- Gặp Sam-Sam và đám thủ hạ của hắn. - Hatcher gật đầu nói.

Và Cohen cười to rồi gật gù.

- Phải, đúng là một thằng thối tha chưa từng thấy. Hắn sẽ đánh cắp cả đồng tử trong mắt anh và vặn cổ con chó Pháp lông xù của anh trong khi anh còn đang nắm sợi dây xích. Anh có trí nhớ tốt thật, gwai-lo (người ngoại quốc).

- Trí nhớ anh cũng chẳng tồi.

- Lạy Chúa - Cohen nói với nụ cười nhăn nhở, - thật là khoái được nói tiếng Mỹ. Đó là điều duy nhất mà tôi không có. Mấy gã ngoài kia ấy à? Chúng chả biết cứt gì về thổ ngữ cả.

Buổi gặp mặt của họ hai năm trước đây rất ngắn. Lúc đó Hatcher đã bỏ qua người đàn ông dạn dày ấy, coi như chỉ gặp một tên ăn cướp trên sông, quen biết qua đường, chả ích lợi gì, một sai lầm dễ mắc vì chính đêm đó Cohen đã đi chuyến đầu tiên vào nơi mà anh ta gọi là vùng Chin Chin của Trung Quốc.

Trong ba năm Hatcher đã hoạt động trên các con sông vắng vẻ từ phía Đông Thái Lan, qua vùng châu thổ và các đồng bằng cao hơn ở Cambodia rồi hướng lên phía Bắc xuyên qua Lào, Việt Nam và Trung Hoa đến các kênh rạch Macao của Hong Kong. Anh thuộc con sông Irrawaddy, sông Mekong, Áp lục giang và được dân làng chấp nhận - hoặc lờ đi cho. Họ coi anh như là một người lính đánh thuê không tổ quốc và không có lòng trung thành. Anh tránh các đội tuần phòng ở Việt Nam bằng cách ngày ẩn nấp đêm đi, và bằng cách nói tiếng Nga khi bị chặn lại. Anh qua được nhờ sự táo bạo và thái độ ôn hòa của anh. Anh ở đấy để thu thập tin tức, không phải để gây rắc rối, và anh gom góp tin tức bằng cách quan sát nhiều hơn là đi hỏi han.

Đó là việc học cho được các phương pháp bí mật của chúng, đường đi, nguồn cung cấp, điểm lấy hàng và chủ yếu là đường dây liên lạc của bọn chúng với chợ đen ở Sài Gòn. Việc này sau đó đã dẫn Hatcher đến cuộc họp mặt với chúng vào năm 1973. Bọn chúng tự xưng là Ts’e K’am Men Ti, nghĩa là Những Người giữ cổng Bí Mật. Ở đấy thỉnh thoảng anh làm ăn với bọn chúng để nâng cao sự tin cậy của chúng vào anh. Viện cớ là bán súng ống, anh tiếp tục xây dựng đội ngũ mật báo viên, đội ngũ hoạt động trên sông và quan hệ của họ với tầng lớp cặn bã của Hong Kong. Họ biết anh qua cái tên gli Occhi di Sassi, nghĩa là Người Có Đôi Mắt Đá, biệt danh mà một trong số những người tin cẩn nhất trong đội ngũ của anh, người một thời đã là thủ lãnh Mafia tên là Tony Bagglio đặt cho anh.

Đứng trong văn phòng bụi bặm, Hatcher nhớ khá rõ hình ảnh đầu tiên của Cohen hiện ra trong sương mù, một người trông lạ lùng trong chiếc áo xường xám bằng lụa và bộ râu dài, xồm xoàm, đứng ở mũi thuyền thoi, cùng với một người Tàu duy nhất trông vẻ khắc khổ đang cầm tay lái cho chiếc thuyền lướt êm ngược dòng một nhánh sông phủ đầy cây rừng của dòng sông Beijiang, cách Macao khoảng 70 cây số về phía Bắc. Chết thật, Hatcher thầm nghĩ, gã giáo sĩ Do Thái gốc Tàu này làm quái quỉ gì ở trên này nhỉ?

Anh tìm ra điều ấy ngay...