← Quay lại trang sách

27. NGƯỜI TSU FI DA TRẮNG

Từ bao lơn nhà mình trên sườn ngọn núi Victoria, Cohen nhìn chiếc xe điện leo lên sườn núi. Anh đã nhìn thấy Hatcher đến trên xe kéo và lên tàu. Cohen cũng đảo mắt qua suốt con đường và công viên phía dưới để xem có ai đang theo đuôi bạn anh không. Anh chẳng nhìn thấy gì đáng ngờ. Nhưng đối với Hatcher, người ta không thể chắc chắn điều gì, và bây giờ Hatcher lại bất chợt xuất hiện sau bao nhiêu năm qua, Cohen tự hỏi không biết người bạn cũ của anh đang làm gì.

Trí óc của Cohen trôi ngược dòng thời gian trở về một đêm ở mạn thượng nguồn sông lúc tình bạn của anh và Hatcher bắt đầu.

Cohen đang trên đường từ hang ổ của bọn Ts’e K’am Men Ti về với một số lớn hàng lậu thì một chiếc thuyền chở đầy bọn cướp hoạt động trên sông lù lù xuất hiện phía sau anh ta và bắn nhiều phát súng cảnh cáo lên trời. Cohen chỉ có nửa tá thủ hạ. Xét cho cùng thì không ai, không một ai đi tấn công tay Tsu Fi này, một sự kiện không may là anh đã gặp cái đám cặn bã trên sông này. Chúng đã ra lệnh cho hai chiếc thuyền của anh dừng lại.

Rồi Cohen nghe tiếng máy rú to và một chiếc tàu chiến đen như than hiện ra từ trong bóng tối. Nó có hình dáng như một chiếc giang thuyền Mỹ nhưng không mang dấu hiệu. Đứng trên mũi tàu là người đàn ông da trắng mà anh đã gặp ở vùng thượng nguồn sông vài tháng trước đây. Anh moi ra cái tên từ trong trí nhớ: Hatcher. Nhiều tên cướp vũ trang đứng dọc theo thành tàu của Hatcher. Rồi Cohen để ý đến người xạ thủ điều khiển cây đại liên M-60 trong tháp pháo đang mặc một chiếc sơ mi mang những vạch cấp hàm quân đội ở tay áo. Một trung sĩ? Có phải họ là lính Mỹ không, anh tự hỏi. Không có người nào mặc đồng phục. Hatcher mặc quần ngụy trang và mặc chiếc áo màu xanh ô liu, mà bấy giờ mọi người đều mặc như thế. Có một cuộc đối thoại với bọn cướp và mặc dù Cohen không thể nghe thấy Hatcher nói gì, nhưng mọi điều anh nói đã có hiệu quả. Bọn giang tặc đã quay lại, hướng mũi về hướng thượng nguồn sông. Hatcher cặp dài theo chiếc thuyền thoi nhỏ nhưng lịch sự của Cohen. Anh cười nói:

- Chúng ta lại gặp nhau.

- Đúng như thế, anh bạn, đúng như thế - Cohen nói - chẳng phải tôi thắc mắc đâu, nhưng anh từ nơi quỉ quái nào đến thế?

- Chúng tôi ở phía sau anh khoảng hai kilômet trong giờ trước - Hatcher trả lời. - Rồi mấy thằng nhãi ranh đó vụt ra từ một nhánh sông và lao tới phía sau đuôi thuyền của anh. Vì thế tôi nghĩ là chúng tôi nên theo dõi chúng.

- Tôi chịu ơn anh. - Cohen cúi chào nói.

- Tôi sẽ nhớ điều đó - Hatcher bảo. - Lên tàu đi, tôi sẽ đãi anh một li.

Chiếc tàu chiến do Hatcher và các thủ hạ đặt đóng - một chiếc tàu bóng loáng, chạy nhanh, được đóng để chiến đấu chứ chẳng làm gì khác. Nó có những gian chật chội cho thủy thủ đoàn ở, nhưng có một nhà bếp rộng lớn, dồi dào thức ăn, nhiều súng và ụ pháo hơn một chiếc xe tăng, và được sơn màu đen như than. Thủy thủ đoàn của Hatcher gồm một tá lính Mỹ râu ria, thành phần pha tạp như bọn cướp mà anh vừa đuổi đi. Hatcher dẫn Cohen vào chỗ ở sơ sài của anh, một ca bin nhỏ chứa một tủ rượu, một bàn giấy phủ nhiều bản đồ sông ngòi tự vẽ và một chiếc võng cột vào cái đà ngang. Cohen hiểu không nên đặt thẳng bất cứ câu hỏi nào với chủ nhân. Hatcher lấy từ trong tủ ra một chai rượu gin và rót cho mỗi người một li đầy.

- Anh định sẽ đi đâu? - Cohen thận trọng hỏi.

- Trở về Hong Kong để vui chơi một chút. - Hatcher trả lời.

Gương mặt Cohen sáng lên: “À! Tôi rất vui mừng. Hiện nay thì đấy là vùng mà tôi thật sự là thổ công. Anh sẽ là khách của tôi khi anh ở trên đất thuộc địa này. Tôi khẩn khoản đấy”.

Hatcher mỉm cười và nâng li lên.

- Ai có thể từ chối một đề nghị như vậy? - Anh trả lời.

Trong hai tuần lễ tiếp theo, Cohen đã chiêu đãi Hatcher như một ông hoàng. Họ đã chơi xả láng từ Macao đến Cửu Long. Một thời ngọt ngào, một thời để phát triển sự tin tưởng và giao phó cho nhau. Họ trở thành đôi bạn thân thiết. Đối với Cohen đây là người bạn thứ nhất, trong khi đối với Hatcher thì Cohen là người bạn trung thành đầu tiên sau Murph Cody. Cohen chỉ dẫn cho bạn mình về hoạt động của các nhóm Tam Kết ở Hong Kong, trong khi Hatcher thường xuyên cung cấp cho Cohen tin tức về các vị trí tuần tra của các đội kiểm soát Hải quan Anh. Nhưng điều đã kết chặt tình bạn của họ là họ thật sự yêu mến lẫn nhau. Hai kẻ sống cô độc trao đổi cho nhau những tâm sự cá nhân, và tình bạn của họ đã chín chắn một cách lâu dài qua bao nhiêu năm. Trong khi Cohen là tay Tsu Fi có thể đi lại trên các con sông không bị Sam-Sam ngăn cản, anh luôn luôn có cảm giác rằng Hatcher ở đây đó gần quanh sẵn sàng giúp đỡ khi anh gặp chuyện khó khăn.

Rồi, cũng bất ngờ như khi anh xuất hiện trên sông, Hatcher đã biến mất không nói một câu. Những lời từ biệt chẳng phải là cung cách của Hatcher. Hiện giờ mạch máu của Cohen đập nhanh vì nóng lòng mong gặp lại bạn.

Hatcher, cũng thế, bị kích động bởi ý nghĩ gặp lại tay Tsu Fi da trắng. Sau buổi gặp gỡ đầu tiên của anh với người đàn ông thấp nhỏ này, anh đã dò hỏi về anh ta trong những dịp thỉnh thoảng đột nhập vào Hong Kong. Có những dư luận mập mờ về anh ta, nhưng anh chẳng nghe thấy điều gì rõ ràng, trước cái đêm anh uống rượu với một nhóm phóng viên ở quán rượu Godown trên đường Connaught. Đó là nơi tụ tập thường xuyên được ưa thích vì có ban nhạc sống American Dixieland và những chầu nhậu phong phú, một tay cựu phóng viên say túy lúy tên là Charlie Rawlson vụt ngẩng đầu lên khi Hatcher nói đến Cohen. Hắn nói qua li rượu gin Bombay pha chanh.

- Tôi biết anh ta khi tôi còn ở Đại học Harvard với anh ta.

- Harvard! - Một người đặc phái viên của tờ Time kêu lên.

- Một gã lạnh lùng. - Rawlson nói văn vẻ và bắt đầu kể: - Đó là vào những năm 60, lúc ấy Cohen là chuyện để chế giễu ở sân trường. Các anh có thể hình dung ra gã lùn Pê đê ấy chạy vụt qua quảng trường Harvard với chiếc cặp ôm sát vào ngực làm như sợ ai giật mất, giấu mặt sau bộ râu bé xíu, chẳng nói một lời với bất cứ ai. Hắn có thái độ của một con trâu nước lạnh lùng. Ông già hắn là một luật sư tài giỏi ở Westchester hay là gì đó. Và gã Cohen ngày xưa đã làm cha mẹ hãnh diện. Đỗ đầu ở Đại học Princeton, lấy bằng Tiến sĩ quản lí thương mại ở Đại học Harvard. Khi hắn lấy bằng Tiến sĩ, các công ty lớn trong nước xếp hàng để phỏng vấn hắn. Rồi họ phát hiện ra đầu óc hắn chẳng có gờ-ram lịch thiệp xã hội nào cả, một thiên tài khó lòng mở miệng chào hỏi một người lạ. Hắn được miêu tả như có một thái độ lẩn tránh điên khùng. Thực ra hắn chỉ hay mắc cỡ, đó là con người hắn. Từ mắc cỡ như đã được đặt ra để tả Cohen ngày xưa.

- Thế rồi việc gì đã xảy ra? - Hatcher hỏi.

- Cha mẹ hắn quyết định rằng điều mà hắn cần là một cuộc sống du lịch vòng quanh thế giới kéo hắn trở lại với đời sống xã hội. Cha hắn bảo hắn: “Đã đến lúc con phải đi chơi một chút. Hãy tự tìm cho con một cô bạn gái đẹp và hãy xem nửa phần kia của nhân loại sống như thế nào. Nhưng mà ông già có thể đã không nhận thức được những giới hạn trong đó Cohen sẽ thực hiện lời khuyên nhỏ ấy. Đây là điều cuối cùng mà tôi nghe về hắn, đến khoảng một năm trước đây tôi trông thấy hắn yểu điệu đi ra từ một ngân hàng trên đường Connaught, mặc một chiếc áo xường xám bằng lụa đỏ. Hắn leo lên một chiếc Rolls-Royce và lái đi. Chỉ có Thượng đế mới biết điều gì đã xảy ra trong những năm ở khoảng giữa đó”.

Về sau Cohen đã bổ sung những khoảng còn thiếu cho Hatcher nghe.

Trên bao lơn nhà mình, Cohen cũng đang hồi tưởng lại thời xưa, nhớ lại lần đầu tiên trong đời anh nhìn thấy cảnh Hong Kong. Anh ta đã ẩn trong ca bin suốt chặng đường từ San Francisco ra đi, sợ gặp mặt mọi người lạ trên chiếc tàu thủy khổng lồ. Đêm đầu tiên đến nơi, anh ta thập thò lên boong tàu để nhìn quanh và kinh hoàng trước ngọn núi vươn cao như tháp, các ngọn đèn chói lòa của thành phố và các thuyền buồm Trung Quốc vây quanh chiếc tàu thuỷ to lớn với tiếng kêu lạ của trẻ con xin xỏ. Đó là lúc Cohen được người quản lí của chiếc tàu tên là Ringer - một tay dày dặn và cứng đầu - để ý đến, và thật sự thấy tội nghiệp cho Cohen.

- Này, thưa ông, tôi đi ra Khu Trung tâm một mình, ông có muốn cùng đi không?

Cohen tuy căng thẳng nhưng thích thú:

- Đó là khu kinh doanh phải không?

Ringer:

- Vâng, nhưng còn có những cái khác để xem. Tôi nghĩ ông có thể vui chơi khi tới Lầu Phong Lan của Bà Lau Mập.

Cohen:

- Đây là nhà hàng à?

Ringer vẻ láu cá:

- Thì... vâng... Tôi nghĩ rằng ông có thể gọi nó như vậy cũng được.

Quả thực là nhà hàng. Nhà Bà Lau Mập có lẽ là nhà điếm lớn nhất trên thế giới và Ringer dẫn anh ta đến đó, trong lòng tin rằng anh ta tưởng đi lên đảo để ăn trứng tráng và cải xào. Lúc Cohen bước vào cánh cửa hai lớp của nhà Bà Lau Mập thì cuộc đời anh ta thay đổi. Trí tưởng tượng về tình dục của anh ta bùng cháy và một cánh cửa mới mở ra cho Cohen.

Anh ta mỉm cười với mình khi nhớ lại đêm đó. Phòng khách được soi sáng bởi những ngọn nến hồng, và nhạc Tàu được tấu lên ở đâu đó ngoài tầm mắt. Bàn tiệc! Bàn tiệc là một phép lạ ngọt ngào. Mỗi thứ thức ăn quý có thế tưởng tượng ra được đều có ở trên bàn. Trứng cá hồi ở Biển đen, cánh chim sẻ ướp tỏi nấu theo kiểu Quảng Châu, vây cá và canh nấm gia thêm dấm Tàu, vịt Bắc Kinh xắt lát dùng với bánh bao, chả giò nhân thịt heo ướp cà ri và mực, rau cải hấp rượu champagne.

Và những người đàn bà! Cohen đã bị mê hoặc. Tất cả bọn họ được phô bày ra trong ánh nến lung linh, êm dịu, mờ ảo trêu chọc và mỗi người đều có nét độc đáo riêng, mỗi người ăn mặc theo lối của mình, dưới con mắt tán đồng của Bà Mập.

Một em mặc bộ áo ngủ kiểu Pháp nghịch ngợm, một em khác mặc áo lưới mỏng mà bên trong chẳng mặc gì thêm, còn em khác nữa thì mang dây lột tất màu đen và nịt ngực. Có một người đẹp cao lớn của xứ Peru mặc một chiếc áo choàng cao cổ kiểu Nữ hoàng Victoria và chẳng còn gì nữa, một công chúa xứ Nubia mặc áo mỏng manh như sương khói. Bao nhiêu là đàn bà từ những góc trời xa xôi trên quả đất. Những người lai Âu, Á, người Nhật, người Trung Hoa, người Thái Lan, người Ai Cập, người Hi Lạp và người Pháp. Có người Châu Phi và người Do Thái. Có cả một nữ vương của người da đỏ châu Mỹ và một cặp song sinh người Eskimo mà họ gọi là cặp Muckluck, luôn luôn biểu diễn với nhau trong phòng gương.

Bữa tiệc qua đường của mình đúng là một kinh nghiệm đáng ghi nhớ, Cohen mỉm cười suy nghĩ.

Bà Lau Mập là một người cao và mảnh mai như một cô người mẫu nước Pháp, gò má cao và vai rộng, là một vưu vật không sờ tới được trong một nơi mà mọi thứ khác đều được cho hoặc bán.

- Tại sao họ lại gọi bà ấy là Bà Mập? - Cohen hỏi.

Ringer trả lời:

- Bởi vì nơi đây, anh bạn ạ, là nơi mà tất cả dân “mập sụ” của thành phố đều lui tới.

Cặp mắt sành sỏi của Bà Mập lập tức nhận ra Cohen là trai tân và đã chọn một vưu vật hiếm có cho anh. Bà ấy rời phòng và trở lại với Tiana. Cohen lấy làm thích thú với kỉ niệm này, cô bé nhỏ con ấy thấp hơn Cohen, chỉ mới mười sáu tuổi, quấn người trong xà rông, mái tóc nàng được chải thành một búi nhỏ cài hoa phong lan và hoa đỗ quyên, với những rèm tóc đen cắt ngang phủ xuống trán. Nàng mỉm cười với Cohen, một nụ cười dịu dàng nhất mà anh chưa hề thấy, rồi nàng đưa tay ra nắm lấy tay anh dẫn anh lên thiên đàng. Nàng dắt anh lên phòng của nàng và Cohen có thể nhớ lại một cách sinh động từng góc phòng được soi sáng bằng ánh nến, màu sắc của những chiếc gối dựa chất trong một góc, chiếc bồn tắm rộng kiểu xưa với chân bằng đồng ở một góc khác, nhớ lại nàng chọn từng miếng các thức ăn quý bày trên bàn và đút cho anh, trộn lẫn các khẩu vị với một tài nghệ điêu luyện đến mức ăn cùng là một thứ thuốc kích dục.

Rồi nàng chậm rãi cởi quần áo anh ra, xoa bóp từng bắp thịt trên cơ thể anh, sau đó mới đưa tay tháo trâm cài và hoa trên mái tóc đen của nàng để tóc xõa xuống vai. Rồi nàng đứng dậy, tháo xà rông, để nó rơi xuống sàn và đứng đấy cho anh chiêm ngưỡng thân hình nàng trước khi nàng dẫn anh đến bồn tắm, chứa đầy một thứ bùn nóng đến mức anh gần như chịu không nổi, rồi đùa nghịch và xoa bóp làm anh đến phát điên lên. Máu của Cohen chạy rần rật trong huyết quản khi nhớ lại việc ấy.

Cohen không bao giờ rời đi nữa. Không bao giờ trở về tàu hoặc trở lại với bất cứ con tàu nào sau đó. Thế giới của anh ta là Hong Kong và cái lâu đài Victoria ở Wanchai, là nếm mùi đời, học cách nói về tình yêu bằng mọi thứ ngôn ngữ và làm tình bằng mọi phương pháp kì lạ tuyệt diệu có thể tưởng tượng ra được.

Và rồi Cohen khám phá ra một điều khác về chính con người của anh, một mặt của cá tính đã ngủ yên trong hai mươi bảy năm. Anh ta khám phá ra rằng từ trong thâm tâm anh là một kẻ vô lại bẩm sinh, đối với anh một việc làm bất lương còn thú vị hơn nhiều so với sự lên xuống của thị trường chứng khoán của đồng dollar hay hàng hóa. Cohen phát hiện ra nghề buôn lậu, làm môi giới mua bán vàng bất hợp pháp, lừa được tàu hải quan để mang hàng lậu về thuộc địa. Anh ta cũng học được rằng ở thuộc địa của Hoàng Gia tin tức cũng có giá trị như hàng hóa. Anh và Tiana trở thành bạn bè đồng thời là người tình của nhau. Lối sống phương Đông hút chặt lấy anh ta.

Từ người Tàu, Cohen lần đầu tiên nghe nói đến tay Tsu Fi, tức là Old Man Who Bites Like a Dragon (Ông Già Cắn Như Rồng). Họ bảo tay Tsu Fi này liên lạc mật thiết với các tài phán ở Khu Trung Tâm qua các đường dây là các con rối mặc áo lụa. Không một sự bí mật nào lọt khỏi ông ta. Các tay trùm sò trộm cướp có thế lực nhất của phương Tây đều nể sợ ông ta. Cản trở được Tsu Fi, họ nói, là cản trở được cá thánh thần. Trong đầu của Cohen, tay Tsu Fi là người gác cổng của đền thờ bách thần. Được gặp mặt và chia sẻ những bí mật của ông ta trở thành nỗi ám ảnh Cohen. Nhưng tay Tsu Fi khó tính và không tin cậy các gwai-lo (người ngoại quốc).

Một đêm ở nhà Bà Lau Mập, Tiana đã mở cánh cửa vào đền thờ bách thần này. Một khách thỉnh thoảng đến chơi đã tâm sự với Tiana rằng một người đàn bà giàu có đã mướn anh ta giết chồng. Tiana biết rất ít chi tiết nhưng biết tên của người đàn bà ấy trùng với tên của một loài hoa. Cohen kiểm tra trong cuốn sách Toole’s Guide to the Crown (Hướng dẫn vào Vương Quốc của Toole), một cuốn sách tra cứu mới nhất về kinh doanh ở Hong Kong. Và đây:

Hampton-Rhodes Overseas T’ransport, Ltd. (Công ty Vận tải Viễn dương Hampton-Rhodes) - Chủ tịch và Trưởng Ban Quản Trị: Charles Rhodes - Nguyên thủy là Công ty Tàu thủy và Vận tải Hampton - Sáng lập năm 1934, đăng kí: Aberdeen. Sáng lập viên: Jonathan Hampton, chết năm 1978. Thay đổi tên: 1979. Kết hôn với Iris (họ khi sinh là Hampton) - con gái của sáng lập viên: 1975.

Anh ta kiểm tra lại với bạn bè ở các nhà băng trên đường Connaught và đêm ấy nhờ Tiana sắp xếp một cuộc tiếp xúc với tay Tsu Fi.

- Nhưng, Cohen này, ông ta không làm ăn với người ngoại quốc.

- Bảo ông ta rằng người ngoại quốc này có thể làm cho ông ta giàu thêm, - Cohen tin tưởng nói.

Kế hoạch thật táo bạo và đó là một trong những lí do đã lôi cuốn Cohen. Nhưng anh biết kinh doanh, và đó là việc anh rất rành. Đúng là một hành động phi thường nếu gã ngoại quốc này có thể biết được các bí mật của tay Tsu Fi.

Văn phòng của tay Tsu Fi nằm ở đường Cat ồn ào, hỗn độn, trên lầu một phòng châm cứu. Tay Tsu Fi điều hành công việc ở hai căn phòng giống nhau từ lúc nào không ai còn nhớ. Tấm biển trên cửa, được viết bằng chữ Tàu, ghi đơn giản “Vương”, và ở phía dưới là “Gia vị”.

Cohen căng thẳng thần kinh nhưng anh biết không thể để lộ điều ấy ra. Sau khi leo lên cầu thang, anh đứng ngoài cửa, hít thở thật sâu, ngậm miệng ngân nga một mình cho mạch máu bớt đập rồi mới bước vào và nhận ra mình đang đứng trong một phòng đợi nhỏ, chẳng lớn hơn tủ đựng quần áo. Qua cánh cửa, anh có thể nhìn vào trong văn phòng của tay Tsu Fi, văn phòng này cũng chẳng lớn hơn bao nhiều. Rõ ràng lão già này chẳng phải đến đây để phô trương.

Tay Tsu Fi ngồi quay lưng ra cửa sổ phía sau một bàn làm việc giản dị bằng gỗ hồng đào, một bàn hầu như còn trống trơn chỉ có một bàn tính ở một bên chiếc điện thoại màu đen kiểu đã cổ. Một chiếc ghế độc nhất được đặt phía trước bàn. Ánh nắng chiếu lấp lánh quanh chiếc ghế của lão và bụi lơ lửng bay trong các tia sáng. Có một tủ kiên cố bằng gỗ tếch trong một góc và một chiếc bàn con trên đặt bộ ấm trà ở phía đối diện. Có thế thôi.

Lão Tsu Fi trông có vẻ già nua, mặc dù thân người lão vẫn thẳng và đôi mắt sáng lấp lánh. Da dẻ lão hoàn toàn không có nếp nhăn và gần như là trong suốt, giống như giấy nến bọc bộ xương mảnh mai của lão. Mái tóc lão bạc trắng và được cắt ngắn, mày râu nhẵn nhụi. Lão nhìn Cohen đăm đăm giây lâu rồi mới đưa tay lên và mời anh ta vào phòng bằng cái ngoắc của ngón tay trỏ. Cohen lại gần bàn và đưa tay ra.

- Tôi là Robert Cohen. - Anh nói bằng tiếng Bắc Kinh hoàn hảo.

Lão Tsu Fi làm ra vẻ không biết có bàn tay của Cohen giơ ra và thay vì cúi bắt tay Cohen lão đưa bàn tay đúng chỗ chùm ánh sáng xuyên qua làn bụi. Lão ngắm nghía cái bóng bàn tay trên sàn.

- Ít ra thì anh cũng đúng hẹn. - Lão nói bằng giọng cao vút và chỉ cho Cohen ngồi vào chiếc ghế trống.

Lão Tsu Fi xếp hai bàn tay lên bàn và nói, “Rồi sao?”.

Cohen hắng giọng. Anh đã tập những gì anh muốn nói và anh tựa lưng ra sau, cố ngồi cho thoải mái trong chiếc ghế thật khó chịu rồi bắt đầu nói:

- Tôi có nguồn tin mà tôi nghĩ rằng có thể có lợi cho cả hai chúng ta. Tôi được cho hay rằng một nhà kinh doanh ở đây sẽ bị ám sát. Vợ ông ta sẽ trả tiền cho việc giết người ấy.

Lão già nhìn Cohen đăm đăm không nhúc nhích một thớ thịt, đôi mắt lão xuyến thẳng vào mắt Cohen.

- Nhà kinh doanh ấy vô tích sự và lười nhác. Ông ta nhậu quá nhiều và lừa dối vợ. Cha của bà ta đã gây dựng nên công việc làm ăn này và đã chết. Công ty đang gặp khó khăn to. Nhưng nếu ông ấy chết đi thì bà ta sẽ thừa hưởng gia sản và nắm quyền kiểm soát Công ty. Không có ông ta cản trở, bà ta sẽ tự do mướn nhân viên mới và tổ chức lại. Tài sản của họ rất lớn. Theo tôi thấy thì có hai điều có thể xảy ra. Hoặc là Công ty sẽ đứng vững trở lại, hoặc là một tập đoàn tư bản nào đó sẽ nắm lấy nó.

- Không thể có một khả năng thứ ba xảy ra à? - Lão Tsu Fi hỏi.

- Ông muốn nói đến phá sản à? Không như thế dâu. Người đàn bà này có những nguồn vốn riêng. Tôi không cho là bà ta sẽ dùng đến những biện pháp cực đoan, trừ phi bà ta có kế hoạch để lấy lại Công ty liền ngay sau.

- Thế việc này có nghĩa gì đối với tôi? - Lão già hỏi.

Cohen mỉm cười chồm người tới.

- Chúng ta? - Anh gợi ý.

- Tôi chẳng có thích thú gì trong việc buôn bán trên giấy tờ của anh, anh Mỹ ạ! Đấy là một trò của phương Tây, tôi không chơi.

- Tôi hiểu điều ấy - Cohen xác nhận - Tsu Fi, nếu chúng ta đợi cho đến lúc cổ phiếu này sụt xuống cứ cho là tám điểm đi, rồi ta đầu tư vào, thí dụ, nửa triệu, cổ phiếu sẽ tăng vọt lên khi sự tổ chức được bắt đầu lại.

- Thế việc ấy cần bao lâu?

- Sáu tháng, có thể bảy.

- Và anh nghĩ nó sẽ lên đến bao nhiêu?

- Tôi đánh giá nó sẽ lên đến ít nhất là hai mươi điểm.

Ngón tay lão Tsu Fi chạy thoăn thoắt trên bàn tính.

Cohen tiếp tục nói mặc dù anh biết rằng lão Tsu Fi đã tính trước anh rồi.

- Hai hoặc hai triệu rưỡi trong vòng sáu tháng. Tôi sẽ theo sát nó mỗi ngày và bán vào thời điểm đúng nhất.

- Và anh muốn gì?

Cohen chồm người tới, mắt sáng lên:

- Một nửa lợi nhuận. - Anh tin tưởng nói.

Lão Tsu Fi cau có nhìn anh ta. Một phút im lặng rồi lão từ từ lắc đầu.

- Không.

- Thôi được, thế thì một phần ba vậy - Cohen tính toán mau lẹ - ông làm ra được hai triệu, tôi được sáu trăm ngàn. Tôi lấy tròn con số năm trăm ngàn.

- Anh cho đi một trăm ngàn dollar rất dễ dàng. - Lão Tsu Fi nói.

- Rất dễ cho đi một số tiền mà người ta chưa có. - Cohen trả lời.

Lần đầu tiên lão Tsu Fi mỉm cười. Gã ngoại quốc này thật kiêu căng nhưng lão Tsu Fi hiểu anh ta. Anh ta rất nhanh trí. Anh ta biết cách làm ăn. Điều quan trọng hơn nữa là tay Cohen này đã chứng tỏ là anh ta biết sử dụng tin tức. Anh ta có thể thảo luận mua bán với sự kiêu căng, mặc dù vậy cần phải cho anh ta một bài học. Có lẽ gã Cohen này có thể mở ra những cánh cửa mới cho lão, những cánh cửa mà lão đã bỏ qua trong quá khứ. Ý tưởng về một cuộc mạo hiểm mới làm máu lão sôi lên.

- Và anh không cảm thấy có nghĩa vụ phải ngăn chặn vụ giết người này hay sao? - Lão Tsu Fi hỏi.

- Đây là chuyện gia đình - Cohen nhún vai như là chuyện đương nhiên. - Hơn nữa, nếu tôi đi báo cảnh sát thì sẽ gây phiền hà cho các bạn tôi.

Lão Tsu Fi gõ gõ cằm, mắt vẫn nhìn Cohen không chớp.

- Khi nào? - Lão hỏi.

- Tôi không biết điều đó, nhưng khi Rhodes chết, cổ phiếu sẽ tụt giá và chúng ta phải sẵn sàng.

- Và nếu chuyện làm ăn trên giấy tờ này không thành thì sao?

Cohen mỉm cười và nhún vai:

- Nếu vậy thì tôi cho là sẽ gặp nhiều rắc rối lắm. Tôi đã chuẩn bị để chấp nhận mạo hiểm.

Lão Tsu Fi gật đầu thật chậm chạp.

- Báo cho tôi biết khi nào anh sẵn sàng, - lão nói. -Tôi sẽ cho anh câu trả lời sau đó.

- Như thế sẽ quá muộn, để tôi đi tìm một người đầu tư khác, nếu ông không đồng ý. - Cohen nói.

- Anh muốn một quyết định tức thời à? - Lão già nói với vẻ ngạc nhiên.

- Nếu ông không thấy thích thú, Tsu Fi, tôi sẽ phải tìm một người khác.

Lão Tsu Fi lại nhìn anh ta đăm đăm, đánh giá người đàn ông trẻ cao ngạo này.

- Thế thì câu trả lời của tôi là không. - Lão già nói.

Điều ấy làm Cohen hẫng người, nhưng anh biết rằng lão già Tàu này đã chú ý đến lời đề nghị. Nếu ta bỏ đi, ông ta có đổi ý hay là bỏ qua luôn ý kiến này? Anh tự hỏi. Cohen bị mắc vào thế kẹt. Lùi bây giờ sẽ là dấu hiệu của sự yếu đuối, và anh chú ý đến việc lấy được lòng tin của lão Tsu Fi hơn là chú ý đến chính việc mua bán này.

- Thế thì tôi lấy làm tiếc đã làm ông mất thì giờ, thưa ông. - Cohen nói và đứng dậy để đi ra.

Lão Tsu Fi lại đưa bàn tay ra luồng ánh sáng và nhìn đăm đăm lên sàn.

- Tạm biệt. - Lão nói.

Cohen quay lưng và đi ra cửa thì thình lình lão Tsu Fi gọi anh ta:

- Ông Cohen, mặt ông bắt đầu xệ xuống rồi đấy. Hãy dừng lại ở dưới chân cầu thang. Tên người đàn ông dưới đó là Ping. Báo với ông ta là tôi nói ông cần vài cái kim.

Cohen theo lời khuyên của lão. Anh ngồi trong một chiếc ghế hớt tóc kiểu xưa trong khi nhà châm cứu thận trọng đâm những cây kim dài, mỏng manh vào các huyệt bí ẩn. Cohen cảm thấy người thư giãn. Anh ta ngồi nhắm mắt trong vòng ba mươi phút. Khi Ping rút những cây kim ra, Cohen mở mắt. Lão Tsu Fi đang đứng trước mặt anh ta.

- Cứ báo cho tôi - lão nói. - Tiền sẽ có sẵn. - Và lão rời phòng.

Cohen chạy theo sau lão. “Thưa ông!” anh gọi khi lão Tsu Fi đang quay lên lầu.

Lão già quay lại và cau có nhìn anh. Cohen lấy trong túi ra một mảnh giấy xếp và đưa cho lão già.

- Tôi,... ơ..., xin được mạn phép chuẩn bị sẵn một tờ hợp đồng, chỉ để khẳng định sự thỏa thuận của chúng ta. - Anh nói.

Lão Tsu Fi khịt mũi và giật phắt lấy tờ giấy trên tay anh ta. Lão quay lưng và càu nhàu: “Lên đây”. Cohen theo lão lên lầu.

Lão già rút một que diêm đốt cháy tờ hợp đồng, không cần đọc. Đôi mắt lão lấp lánh trong ánh nắng đầy bụi bặm.

- Bây giờ thì anh biết giấy tờ có giá trị thế nào. - Lão nói ngắn gọn - và đừng bao giờ kí tên vào bất cứ cái gì, dấu vết của anh sẽ theo anh tới chết.

Chín ngày sau Cohen và lão Tsu Fi gặp lại nhau, Charles Rhodes đã chết trong một tai nạn xe hơi. Cổ phiếu tụt xuống điểm 5 trước khi Cohen ra quyết định mua.

Sau thông báo là công ty đã được cải tổ, nó nhảy vọt, leo lên trên hai mươi bốn điểm trước khi lấy lại cân bằng. Lão Tsu Fi khoái trá vì đã đớp ngon lành được hơn hai triệu một chút. Cohen vội vàng đến văn phòng trên đường Cat để lấy nửa triệu của anh.

Lão Tsu Fi chìa mười ngàn dollar ra bàn.

- Cái gì vậy, trả công suông à? - Cohen cười hỏi.

- Đó là số tiền trả xứng đáng cho công việc anh đã làm. - Lão Tsu Fi nói.

Cohen nhảy chồm lên, điên tiết:

- Ông là người đã bảo tôi là giấy tờ chả có giá trị chó gì cả. Tôi đã tin ông!

- Lại thêm một bài học - lão già nói. - Đừng bao giờ tin ai cả. - Lão đưa tay lên xem giờ.

- Bỏ tay xuống - Cohen gầm lên. - Ông nợ tôi nửa triệu dollar.

Lão Tsu Fi ngẩng lên nhìn anh ta:

- Anh muốn lãnh tiền của anh hay là anh muốn la hét và than vãn? - Lào già ìiói.

Cohen dịu xuống. Anh ta ngồi trở lại, mắt nhìn chằm chằm vào lão già lừa đảo tài ba.

- Anh còn phải học nhiều về các phương pháp của chúng tôi, anh Mỹ ạ! - lão Tsu Fi nói. - Nhưng anh có tài. Khi anh học hỏi được, nửa triệu dollar sẽ chẳng có nghĩa lí gì.

Và thế là Cohen trở thành người được lão Tsu Fi che chở. Anh mở văn phòng riêng của mình, phòng độc nhất ở ven quận Wanchai có ba máy điện thoại và một máy vi tính. Anh tự mình làm mọi công việc kinh doanh, một bài học khác của lão Tsu Fi: “Đừng bao giờ thổ lộ bí mật với bất cứ ai”. Lời khuyên của lão Tsu Fi trở thành kinh thánh của Cohen. Rồi một ngày kia ông thầy dày dạn kinh nghiệm của anh triệu anh về văn phòng ở đường Cat.

- Đây là lúc anh lên vùng sông rạch Macao. - Lão Tsu Fi nói, Cohen giật mình vì tin mới. Chưa bao giờ xảy đến, cho anh việc lão Tsu Fi phái anh đi ngược sông lên đất Chin Chin.

- Tại sao? - Anh hỏi.

- Không biết có cần thiết phải hỏi không, có lẽ tôi đang cử lầm người, - lão Tsu Fi nói. - Anh là người đàm phán mới của tôi. Anh phải chinh phục được mấy thằng cướp biển Tàu ấy với lòng dũng cảm, không sợ hãi. Đây là việc làm ăn. Cái giá của hàng hóa. Anh khoái tiền, anh Mỹ ạ! Anh đang làm giàu, nhưng nó đòi hỏi một sự khó chịu nào đó.

Lão Tsu Fi đưa cho anh ta một đồng vàng hai mươi dollar mang hình Nữ hoàng Victoria.

- Cái này có nghĩa là anh đại diện cho tôi - lão nói. - Trong quá khứ người của tôi đã làm không tốt các vụ đàm phán. Họ không tin vào các suy nghĩ của họ và họ đồng ý quá nhanh. Anh là một nhân vật quí trong những người đi đàm phán, anh ngoại quốc ạ! Anh phải thực hiên các cuộc thương lượng mới hay hơn.

- Thế thì ta cần phải thêm mật cho ruồi. - Cohen gợi ý.

- Thêm mật cho ruồi? Ruồi nào?

- Đưa đến cho chúng cái gì hay hơn là những kẻ đang làm ăn trên sông đem đến.

- Và điều đó sẽ là gì?

- Tôi đang suy nghĩ. - Cohen nói.

- Nghĩ nhanh đi. - Lão Tsu Fi nói. - Anh đi đêm nay.

Và đó là cái đêm lần đầu tiên Cohen gặp Hatcher.

Cohen trở thành tay Tsu Fi da trắng. Anh ta có thuộc hạ của riêng mình trên sông. Anh ta được bọn Ts’e K’am Men Ti kính trọng và được các tài phán ở Hong Kong nể sợ. Các cuộc tiếp xúc của anh ở miền thượng nguồn sông trên đất Trung Hoa Đỏ thật là không chê vào đâu được. Nhưng phần lới anh buôn bán bằng tin tức. Cohen trở thành ngân hàng hối đoái cho mọi dư luận kinh doanh và dư luận cá nhân ở xứ thuộc địa này.

Nếu có khó khăn lớn, các tài phán lại quay về gặp Cohen.

Họ gọi anh ta là Cohen Tàu.

Anh nâng niu từng giây phút ấy.

Khi Hatcher lên đến đỉnh núi, anh thả bộ men quanh đỉnh núi đến đường Albany gần vườn bách thảo. Nhà của Cohen ở ngay rìa của đỉnh núi.

Anh đang chìm sâu vào suy nghĩ, nhưng không quá sâu đến độ không nhận thấy chiếc xe hơi đậu ở đằng xa phía trên anh, ngay lối vào vườn bách thảo và gã tài xế đang theo dõi anh qua ống nhòm.