← Quay lại trang sách

29. FLITCRAFT

Trung sĩ Flitcraft đang chờ ở nơi tiếp tân của phòng máy vi tính trong Lầu Năm Góc thì Trung sĩ Betz đến nơi làm việc. Betz là một người đàn ông cao, bụng bự đang ở vào những năm cuối của tuổi bốn mươi, vừa lòng với công việc dễ chịu và còn gần hai năm nữa mới nghỉ hưu. Những tĩnh mạch ửng đỏ trên đầu mũi xác nhận anh ta ưa thích rượu mạnh. Anh ta và Flitcraft cùng nhớ lại thời xa xưa. Bragg. Triều Tiên. Việt Nam. Betz nhăn mặt nháy Flitcraft, viên Trung sĩ da đen cứng cỏi này luôn mỉm cười và đã xoay xở để ở lại đây làm việc mặc dù anh ta đi khập khiễng phải chống gậy. Flitcraft cũng sắp sửa về hưu. Betz biết rằng Flitcraft đến đây chẳng phải để thăm xã giao.

- Có vài số liệu cho anh sáng nay, Trung sĩ a. - Flitcraft nói và đứng dậy khi Betz bước vào.

- Vâng, được,- Betz nói. - Xuống đây. - Anh ta quay sang bảo cô tiếp tân: - Đưa cho Trung sĩ Flitcraft giấy phép hạng ba.

Nàng với tay vào ngăn kéo lấy ra một thẻ ghi tên màu xanh, ghi số thẻ vào một số nhật kí và đưa nó cho Flitcraft. Nàng biết anh và cho rằng anh đến đưa cho Betz, tin tức đã phân loại để chạy máy vi tính tổng hợp. Tấm thẻ màu xanh chỉ cho phép anh ta đi trong phạm vi những văn phòng chung, một dãy nhà hộp nhỏ không có cửa sổ, qua cửa phía bên trái của phòng tiếp tân. Cửa bên phải đi vào phòng hệ thống máy vi tính tổng hợp và có một lính thủy gác.

Flitcraft theo Betz vào phòng làm việc của anh ta, một căn phòng vuông vức, buồn tẻ vừa đủ chỗ để đặt một bàn giấy, một tủ hồ sơ, một máy vi tính đời cuối và một chiếc ghế khác.

- Anh có vài số liệu cho tôi đây hả, Trung sĩ? - Betz hỏi và nhẹ nhàng mở một ngăn kéo bàn.

Anh ta biết Flitcraft, biết anh làm việc cho một đơn vị đặc biệt chỉ được biết đến dưới cái tên Đội Bóng Tối và là người đáng tin cậy. Vì Flitcraft không có giấy phép loại C-1 nên anh không được phép xem đến các hồ sơ vi tính mật. Flitcraft lấy từ trong cặp ra một chai rượu Dewar’s White Label loại hơn một lít và tuồn nó vào ngăn kéo mà Betz nhẹ nhàng đóng lại ngay bằng đầu gối. Vì văn phòng thường xuyên được giám sát bởi máy video quét khắp nơi nên họ chơi trò hỏa mù này.

- Chúng tôi có vài báo cáo đã phân loại thuộc hạng thấp để đưa vào tổng hợp. - Flitcraft nói và đẩy qua mặt bàn về phía Betz một tập báo cáo mỏng. Betz nhìn chúng, hờ hững lật trang bìa và đọc trên một mảnh giấy ở trang hai: “Hồ sơ phân loại tù binh chiến tranh”. Betz nhìn Flitcraft dường như hỏi “Ai cần?”

Flitcraft nhướng chân mày và nhún vai dường như trả lời, “Ai biết được? Anh biết các vị sĩ quan cao cấp thế nào rồi”. Những cái nhìn im lặng trao đổi giữa hai viên Hạ sĩ quan đã làm lâu ngày trong hệ thống này và hiểu rằng những tin tức được phân loại chỉ cốt để ngăn ngừa các phương tiện thông tin luồn lách vào, nắm tin, đưa tin theo Luật Tự Do thông tin.

Betz mở nắp chiếc hộp nằm trên bàn và kiểm tra một bảng các mật danh và các mật mã. Anh ta viết nhiều tên và số mã lên một mẩu giấy và kẹp nó vào đầu tập hồ sơ. Anh ta để nó sang bên ngay trong tầm mắt của Flitcraft trong khi anh ta điền vào một giấy biên nhận và kí tên.

Flitcraft ghi nhớ ngay lập tức cái bảng mật mã đó:

52- 767- 52116

Sidewinder

9696

Cherry

Monte

Cristo

Zenda

Betz đưa cái biên nhận giả vờ cho Flitcraft bỏ vào cặp.

- Chào anh nhé. - Flitcraft nói. Họ bắt tay nhau rồi Flitcraft rời văn phòng.

Cho đến lúc này mọi việc đều tốt đẹp. Flitcraft đi thẳng tới phòng vệ sinh nằm ở cùng một lầu, bước vào một buồng tiểu và chép lại bảng mật mã đó trước khi quên mất. Rồi anh ta rời Lầu Năm Góc ra gọi một chiếc taxi.

Văn phòng của Shadow Section (Đội Bóng Tối) nằm trong một tòa nhà riêng gần Nhà Trắng. Đối với người quan sát vô tình thì nó chỉ là một công ty liên lạc nhỏ của tư nhân nằm trong một khu vắng vẻ. Rất ít người biết rằng nó là một chi nhánh của ngành tình báo quân sự.

Ở bên trong cái công sở mà ngoài cửa chỉ gắn cái tên Interplex là một dãy máy vi tính và những hệ thống liên lạc nối liền với nhau cho phép ba nhân viên đều mặc thường phục liên lạc với vệ tinh và trao đổi tin tức qua máy vi tính với toàn thế giới. Flitcraft cho chạy máy vi tính với sự giúp đỡ của hai Hạ sĩ quan khác. Cả ba người trong quá khứ đã phục vụ cho Sloan và cả ba đều đã chịu đựng những vết thương mà đáng ra phải dưa ra khỏi ngành vì sức khỏe. Nhưng đại tá Harry Sloan đã bảo vệ nhân viên của mình và ngược, lại, về phần họ, họ hoàn toàn tận tụy làm việc cho Sloan. Họ thà chịu mất lưỡi còn hơn là nói về công việc họ đã làm.

Flitcraft lấy một tách cà phê và ngồi xuống trước một máy vi tính.

Flitcraft đã quen thuộc với các số liệu phức tạp và những mã số thầm lặng cần thiết để liên lạc được với máy vi tính tổng hợp quốc gia, rồi tìm đến những hồ sơ phân loại đặc biệt. Đây là một dãy số và tên cần phải đưa vào nhờ tác động của một máy phụ. Hệ thống này cũng có một dãy mã số tính kép cần phải đưa vào không nhắc lại. Nếu những con số này không được đưa vào, máy vi tính chính lập tức mở máy dò nơi lấy tin trộm. Trong vài giây máy vi tính chính ghi lại số điện thoại và căn cước của máy vi tính nơi hỏi rồi cắt ngay liên lạc với hệ thống này.

Đó là hệ thống kép tinh vi được thiết kế để ngăn ngừa việc lấy tin trộm trong các hồ sơ mật. Ngoài ra mỗi loại hồ sơ riêng lại có nhóm mã số thông qua riêng, được thay đổi mỗi tuần để ngăn cản một lần nữa việc lấy tin trộm.

Flitcraft đưa vào chương trình mẫu cho phép anh ta nhập vào với các máy vi tính khác trên đường dây bình thường. Anh đánh máy con số chung dùng gọi hồ sơ vi tính và một câu hỏi hiện lên hỏi số nhập vào của anh. Anh xem lại cái danh sách mà Betz đã cho. Số nhập vào là 52 - 767 - 52116. Một câu thứ hai lập tức hiện lên yêu cầu cho biết tên mã gọi các hồ sơ tổng quát. Flitcraft đưa vào chữ “Sidewinder”, tên mã để gọi các hồ sơ phân loại.

Bây giờ đến phần dễ bị phạm lỗi nhất vì máy vi tính không hỏi số căn cước của mật mã cho qua; nó chỉ hiện lên câu hỏi “Số Hồ Sơ Riêng”. Nếu không am hiểu về hệ thống chống lấy tin trộm, người ăn cắp tin sẽ đưa vào tên mã được yêu cầu và thế là lập tức gửi đi tín hiệu báo động cho máy theo dõi.

Flitcraft đưa vào số căn cước mà Betz đã cung cấp, 9696, tiếp theo bởi chữ mã “Cherry” và qua được máy dò lấy tin trộm. Máy vi tính lặp lại câu hỏi “Mật mã hồ sơ riêng”, để đáp lại anh đưa vào chữ “Monte”, nó lại được hỏi tiếp lần thứ hai. Anh đưa vào chữ “Cristo”.

Rồi! Anh đang nằm trong hồ sơ Tù binh chiến tranh tổng hợp. Lần bấm tiếp theo anh đánh chữ “Zenda”, thế là bảng ghi tất cả các tên và địa chỉ hiện lên, tiếp theo là hai câu hỏi “Phụ hay chính” cho phép anh đi thẳng vào một hồ sơ riêng hoặc tìm một hồ sơ dưới một chủ đề tổng hợp.

Viên Trung sĩ mỉm cười. Bây giờ việc tìm kiếm bắt đầu.

Trong ba tiếng đồng hồ tiếp theo Flitcraft gõ máy đưa vào những câu hỏi, tìm kiếm những câu trả lời mà Sloan đã yêu cầu lúc ba giờ sáng hôm đó. Anh kiểm tra qua miền Bắc Việt Nam, tại trại tù binh chiến tranh, các trại tạm giam, những báo cáo chưa được kiểm lại, những phi vụ quan sát cá nhân, những báo cáo từ các cuộc điều tra về tù binh chiến tranh. Flitcraft là một chuyên gia trong việc làm sáng tỏ những tin tức mập mờ.

Khi làm xong, Flitcraft đã có một danh sách các trại giam tạm thời - mà không một trại nào có vẻ phù hợp với sự mô tả của Sloan - và nhiều trại tù binh chiến tranh lâu dài. Anh đã thu hẹp danh sách nhiều lần qua các trại loại lâu dài.

Nhưng bốn người tù binh trở về đã báo cáo họ bị giam ở một nơi có vẻ như là cùng một trại tạm giam vào những thời điểm khác nhau giữa 1969 và 1972.

Các vị trí mà Flitcraft tìm trên bản đồ đều nằm gần biên giới Lào và nói chung chỉ cách nhau chừng 100 kilômét, còn vị trí chính xác thì khó mà xác định được. Cả bốn tù binh đều ở trại không quá vài tuần lễ. Có báo cáo của một đội bay B-52 nói đã nhìn thấy một nơi mà họ tin là một trại tù binh chiến tranh cũng nằm ở vùng đó. Và một báo cáo khác của một phi vụ thám sát trên vị trí ấy hai tuần lễ sau, nói rằng cái trại ấy không còn thấy nữa.

Tuy thế điều đáng chú ý là cả bốn tù binh chiến tranh đó đều báo cáo rằng khi họ đến nơi thì đã có sáu người đàn ông là tù binh ở trại và còn tiếp tục ở lại đây khi họ rời đi. Một người khẳng định rằng đã nghe nói có một nhân vật quan trọng đang bị giam giữ trong trại, và một người khác đã báo cáo về một tin đồn rằng ít nhất có một tù binh lâu dài ở đây “đang cộng tác với Việt Cộng”.

Flitcraft cho kiểm tra về bốn người tù binh này. Một đã chết, một đang ở trong một viện thần kinh, hai người kia đã giải ngũ. Anh lần theo dấu họ và nắm được địa chỉ hiện tại và số điện thoại của họ.

Vì những lý do khác nhau không một tin tức nào được giới quân sự cho là có thể tin được hoặc đáng chú ý. Điều đó có thể hiểu được vì các báo cáo bị tách riêng ra và không thể kiểm chứng, và cũng vì các vị trí hình như đều là những vị trí của các trại giam tạm thời. Nhưng bốn vị trí này là nơi đội bay B-52 nhìn thấy đều nằm bên kia dãy núi Trường Sơn, và tất cả đều nói đến bản Muang nằm cách Sài Gòn khoảng một nghìn một trăm kilômét về phía Bắc.

Flitcraft cũng cho kiểm tra về Murph Cody. Trong giới hạn mà máy vi tính nắm được thì Cody đã chết.

Flitcraft trả lời ngay hồi chuông reo đầu tiên.

- Đây là Hatcher, N 314602. Anh có cần kiểm tra giọng nói không?

- Ông đã được qua, thưa ông. - Flitcraft trả lời.

- Anh có tìm thấy gì không?

Flitcraft hơi hãnh diện nói với Hatcher rằng tin tức anh ta lấy dược cho thấy rằng cái trại ma có thật, nằm trên một mảnh đất bên kia dãy núi Trường Sơn gần bản Muang. Bốn người tù binh được thẩm vấn đã ở đấy vào những khoảng thời gian khác nhau giữa 1971 và 1973, thời gian dài nhất là năm tuần lễ, và cả bốn người đã báo cáo tên các vị trí khá giống nhau cho thấy đó là một trại di động mà Schwartz đã gọi là Huie-kui.

Flitcraft cũng gọi điện thoại hỏi một cựu tù binh chiến tranh đã ở Hà Nội và đã gặp một người tù đàn ông cùng ở trong trại đó một lần. Flitcraft nói: “Anh ta có cảm giác rằng nhiều tù nhân đang được giữ ở đấy theo kiểu dài hạn.

- Có nói gì đến Murph Cody không? - Hatcher hỏi.

- Không, thưa ông, - Flitcraft nói,- Cái tên ấy chưa bao giờ thấy xuất hiện.

- Có báo cáo nào nói rằng có một nhân vật quan trọng ở trong trại giam không?

- Có, thưa ông. Nhưng điều đáng chú ý nhất là họ nói: có nhiều tù nhân được cách ly với nhóm còn lại. Dường như có thể họ là một nhóm ở đấy dài hạn, đại loại là như thế.

- Có biết lý do tại sao không?

- Tôi chỉ có thể biết được tới đó thôi, - Flitcraft nói, -Anh ta bảo có thể họ là những người đã cộng tác, nhưng anh ta đoán vậy thôi.

Vậy thì, liệu đúng được bao nhiêu phần trăm trong việc này? Flitcraft còn đang suy nghĩ, tuy nhiên khả năng cộng tác chắc không phải bàn cãi gì nữa.

- Tôi tự hỏi tại sao Uỷ ban điều tra của quân đội chẳng bao giờ theo dõi các báo cáo này? - Hatcher thắc mắc nói to.

- Tôi chắp nối lại sự việc từ một đống báo cáo rải rác. - Flitcraft nói,- Có nhiều trại chuyển tiếp như vậy và chẳng có cái gì đối chứng để xác định chúng. Sau chiến tranh chúng đột nhiên biến mất.

Có thể không phải thế, Hatcher nghĩ, và nói với Flitcraft:

- Xin cảm ơn. Anh nhảy sang vấn đề khác mất rồi, hãy cung cấp tin đó cho đại tá ở Bangkok. Có lẽ tôi khó có thể đến đó trong vài ngày tới.

- Vâng, thưa ông.

- Việc làm tốt lắm, Trung sĩ ạ.

- Cám ơn, thưa ông. Xin chúc ông may mắn.

Hatcher gác điện thoại. Chả được bao nhiêu tin, anh nghĩ. Nhưng đủ để làm cho chuyến đi lên mạn thượng nguồn sông thành cần thiết.

Chắc phải có người nào đó ở trên ấy đã giao dịch với trại Huie-kui hoặc ít ra cũng đã nghe nói về nó. Hiện tại anh đã có được một cái tên... hay ba cái tên để hỏi.

Anh báo cho Cohen tin mới này và nói:

- Có ai đó ở thượng nguồn sông đã buôn bán với cái trại này không. Tôi sẽ đi tìm họ.

- Quái quỉ! Tôi chả bao giờ nghe nói về nó. - Cohen nói.

- Quỉ ơi, Cohen Tàu, bọn Ts’e K’am Men Ti biết rằng cảm tình của anh là dành cho nước Mỹ. Bọn chúng làm ăn với Tàu, Việt Cộng, bọn lính Mẽo ở Sài Gòn, Khmer đỏ, nhưng chúng không bao giờ nói chuyện đó với một tên Mỹ.

- Anh cũng nằm trong sổ đen của Sam-Sam. Có một điều gì đó không ổn đã xảy ra trong vụ buôn súng hồi trước. - Hatcher uống một ngụm và không trả lời. Cohen lại nói. - Đây, anh chỉ cần trả lời cho câu hỏi đó thôi.

- Hắn đã buôn bán với Khmer Đỏ. Nhiệm vụ tôi là phải chấm dứt hoạt động của cái thằng cha bé nhỏ đó.

- Hắn đã thề cắt lưỡi anh để ăn trưa.

- Cái gã ngoại quốc Hatcher năm xưa sẽ giúp tôi xoay xở được.

- Phải. - Cohen Tàu nói.- Tôi nói với anh cái này... Nếu vận may của gã Hatcher năm xưa hết, thì có lẽ thành phố New York sẽ động đất mất.

- Sẽ thành công mà.- Hatcher nói.- Hãy tin tôi đi.

- Hừm! - Cohen lại lầm bầm. Hatcher đang dấn thân vào rắc rối và sẽ trơ trọi một mình, nhưng vẫn cứng cỏi như mọi khi. Anh ta chẳng thay đổi mảy may. Sing đột nhiên xuất hiện ở lối cửa chấm dứt nỗi lo âu của Cohen. Sing nói:

- Chiếc xe hơi thuộc Island Catering Service (Dịch vụ cung ứng trên đảo) tới.

Cohen quay sang Hatcher:

- Công ty đó là sở hữu của bọn Bạch Thủ. Đến rồi đấy. Đám thủ hạ của Fong đang lùng anh.

- Thế thì tôi nên ra khỏi đây. - Hatcher nói.

- Nói bậy. - Cohen bảo. Anh an toàn ở đây. Thằng Fong chả dám tấn công nhà tôi đâu.

Và sau một lát suy nghĩ, anh nói thêm:

- Chúng ta sẽ tăng cường bảo vệ và mọi việc sẽ tốt đẹp. Đừng lo chuyện đó. Tôi xin lỗi một lát. - Hatcher đứng dậy nhìn qua hàng bao lơn bên cạnh. Nơi ấy cách mặt đất khoảng chín mét, bờ dốc thẳng đứng phủ đầy dây leo và cây dương xỉ.

Ngọn của cây đa cao trên chân móng của ban công khoảng ba, bôn mươi thước và thấp dưới mặt phẳng của ban công khoảng ba thước. Có bốn cây vững chắc đỡ ban công. Những ngọn đèn pha cực mạnh được gắn ở các góc ban công. Vách núi cao tiếp tục đổ xuống hai bên cơ ngơi của Cohen cho tới lúc tán lá chặn ngang tầm nhìn của anh.

- Phía sau trông có vẻ khá an toàn. - Hatcher thì thầm. Tiếng chuông điện thoại cắt ngang cuộc bàn luận về an ninh.

Sing nghe điện thoại và ngẩng lên với vẻ ngạc nhiên. Anh ta che tay lên ống nói, thưa: “Điện thoại gọi cho Người Có Cặp mắt Đá”. “Trung sĩ Varney gọi”.

Mặt Cohen sầm lại:

- Đồ chó đẻ, cái gì bây giờ đây? - Anh ta nhìn Hatcher hỏi, - Anh có muốn nói chuyện với nó không?

- Cứ tìm hiểu xem nó định làm gì.- Hatcher thì thầm.

Sing trao ống nghe cho anh. Anh nói khẽ:

- Hatcher đây.

- Trung sĩ Varney ở cảnh sát Hong Kong đây, - anh nghe giọng nói lắp bắp trả lời. - Ông còn nhớ tôi chứ, thưa ông?

- Dĩ nhiên.

- Sáng nay ông đã khéo léo cho nhân viên của tôi rơi - Varney vui vẻ nói. - Nhưng tôi nghĩ nên báo động cho ông, Joe Lung đã đến phòng ông ở khách sạn. Hiện hắn đang có mặt trên đảo và có nhiều đàn em đi theo.

- Làm cách nào anh tìm ra tôi? - Hatcher hỏi.

- Đoán thôi, thưa ông,- Varney trả lời. - Tôi đoán liều là ông đang ở thăm người bạn của ông, tay Tsu Fi. Điểm muốn nói là chúng tôi có một căn nhà an toàn gần sân bay. Chúng tôi muốn đưa ông về đây ở.

- Tôi sẽ ổn thôi. - Hatcher trả lời.

- Chúng tôi nghĩ có lẽ ông muốn tránh một cuộc chạm trán ở nhà bạn ông. Gã Lung này gớm lắm, thưa ông Hatcher.

- Tôi biết rõ hắn là như thế. - Hatcher đáp. - Anh thấy sao?

- Sau đây một giờ chúng tôi sẽ lẻn vào đấy và đưa ông ra. Tôi sẽ có một đơn vị hỗ trợ đi cùng, chúng tôi đang canh chừng Lung. Tôi nghĩ mọi việc sẽ suôn sẻ.

- Hãy gọi khi anh đến cổng. - Hatcher nói và gác máy.

- Còn thằng ở trên đồi thì sao? - Conhen hỏi Sing.

- Vẫn ở đây.

- Hắn có nghi ngờ là chúng ta đang theo dõi hắn không?

- Tôi nghĩ là không.- Sing nói.

- Anh có bao nhiêu người? - Hatcher hỏi.

- Ba người ở phía trước, một người ở phía sau, ba chúng ta bên trong. - Cohen trả lời.

- Nếu Varney có nhúng tay vào chuyện ấy, chúng sẽ tổ chức trận đánh tại đây, Cohen Tàu ạ! Lung và thủ hạ của hắn chắc sẽ theo sau Varney. Chúng tưởng rằng chúng sẽ tóm được ta một cách bất ngờ.

Hatcher chưa bao giờ thấy Cohen nổi giận như lúc này.

- Chúng sẽ chẳng dám tấn công căn nhà này. - Cohen lạnh lùng nói, nhưng giọng nói đã kém phần cả quyết. Rồi anh nói thêm. - Nếu chúng dám, chúng sẽ được xuống địa ngục.