37. TS’E K’AM MEN TI
Hatcher và đồng bọn ra đi trước lúc rạng đông hai giờ, len lỏi qua các tàu tuần tra và tàu hải quan của bến cảng nằm trong vịnh ở cửa sông Beijiang nay là hải cảng của Hong Kong, rồi nhằm hướng Tây tiến vào miền Nam Trung Quốc theo một trong nhiều nhánh của con sông Tây Giang (Xijiang) phủ ngợp rừng cây. Đến tờ mờ sáng họ đã đi ngược dòng được khoảng 60 cây số.
Họ đi hai thuyền. Chiếc thứ nhất là một chiếc tắc ráng hẹp, dài, máy đẩy nặng, có một cabin quây bằng phên ở phía sau. Tiếp theo nó là chiếc thuyền như điếu thuốc lá, dài khoảng 10 mét có công suất 600 mã lực, có thể lướt trên mặt nước với tốc độ khoảng 110 km/giờ. Hatcher, Daphne, Cohen và Sing - người lái tàu - cùng một xạ thủ khác là Joey đi trên chiếc đầu. Trên chiếc thứ hai có bốn tay súng người Tàu do một nhóm Tam Kết Chiu Chao thân hữu có tên là Narrow Blade Gang (Lưỡi Dao Hẹp) cho Cohen mướn để yểm trợ trong tình huống Tsu Fi gặp rắc rối. Tất cả bọn họ đều cảm thấy dễ chịu vì nguồn tin tình báo của Daphne cho biết đã ngược sông và chắc không trở về vùng hùng cứ của Ts’e K’am Men Ti trước ngày mốt.
Lúc mới đi chưa vào tới con sông này, mọi người đều lo âu căng thẳng, canh chừng các tàu tuần tra và tàu hải quan của cảng. Bây giờ thì họ đã thấy thư thái trong lúc chiếc thuyền dài lướt êm trên sông, nép theo bờ cho kín đáo và theo sau là chiếc thuyền hình điếu thuốc lá gây ấn tượng mạnh.
Cohen trông thật kì lạ, anh mặc bộ áo xường xám với sợi nịt súng ngang hông, ngồi như một thái tử trên chiếc ghế bố mỏng, nhìn đăm đăm vào bóng tối phía trước, lẩm bẩm liên tục, tự hỏi về sự ôn hòa của mình, của Hatcher, của Daphne - thực tế là về toàn bộ chuyến đi chết tiệt này. Anh ta đã khăng khăng đòi sắp xếp thuyền bè và các tay súng. Cuối cùng Hatcher phải càu nhàu:
- Nghe này Cohen Tàu, chẳng ai dí súng vào tai cậu bắt cậu đi theo đâu. Tự cậu muốn đi lo liệu súng ống, rồi đem theo cái ghế tắm biển của cậu mà tham gia chuyến đi này.
- Đúng, tôi đã không thể khuyên được anh bỏ vụ Cody. - Cohen trả lời.
- Điều đó thì có liên quan gì?
- Anh hiểu tôi muốn nói gì chứ. Quỷ tha ma bắt cái gã Cody quá đặc biệt này đi.
- Tôi đã bảo anh là chúng tôi cùng học với nhau mà.
- Điều ấy chả nghĩa lí gì. - Cohen khinh khỉnh nói.
- Quỷ thần ơi! Có lẽ là tôi muốn làm một việc cuối cùng có tính chất... nhân đạo... hay danh dự.
Cohen nói:
- Để tôi nói cho anh nghe vài điều mà có thể anh không biết về Sam-Sam. Lần đầu tiên tôi gặp hắn là lúc tôi đã gặp anh, khi đó lão Tsu Fi cử tôi lên đây vào đất Chin Chin lần đầu. Lúc ấy Sam-Sam còn là loại non nớt trong vùng này, đúng chứ? Hắn từ Bắc Kinh xuống vì hắn là một thằng tư bản cuồng nhiệt, mà điều đó ở Bắc Kinh thì không hay. Khoảng sáu tháng trước khi tôi gặp hắn, không biết hắn đã làm gì ở Bắc Kinh mà giết người một cách táng tận lương tâm tôi chưa từng thấy bao giờ. Tôi muốn nói hắn có thể bắn ngay một phát đạn vào óc anh cũng y như là dẫm lên một con rệp vậy.
Lúc ấy tôi chủ yếu đang buôn bán với Joe Cockroach ( Joe Con Gián), anh ta gần như là đại lí mọi thứ hàng. Người ta thương lượng với Joe và hắn gom tất cả - một giá cả, một kẻ nhận tiền giả. Đây là một lối làm ăn tiện lợi. Tôi cũng tin tưởng ở Joe. Tôi biết Joe ở Hong Kong trước đó, lúc anh ta làm về nhập khẩu. Vì thế, có lẽ là vào lần thứ ba tôi lên đây, Sam-Sam đến tìm tôi vào bảo rằng kể từ giờ trở đi chính hắn và tôi sẽ làm ăn với nhau. Hắn nói sẽ đưa ra giá hời hơn. Nhưng tôi đã nói với hắn “Sam-Sam, tôi không thể làm thế được vì tôi đã buôn bán với Joe nhiều năm rồi, vả lại công việc chả giống như trên này ở vùng Ts’e K’ am Men Ti đâu”.
Thế là Sam-Sam bước ra ngoài boong, chúng tôi đang ở trên thuyền - tôi ở trong phòng làm việc của Joe, còn Joe thì đang ở ngoài làm gì đấy - tôi nghe thấy hai phát súng: Bụp! Bụp! Chỉ có thế, tôi phóng ra cửa vừa kịp nhìn thấy Sam-Sam cầm khẩu súng còn bốc khói, túm lấy áo của Joe, nhấc nó lên bằng một tay và ném nó xuống sông.
Sam-Sam quay sang nhìn tôi mỉm cười nói có ý nhấn mạnh: “Bây giờ thì chả còn gì rắc rối nữa”. Rồi hắn cười vang. Sáu tháng sau hắn kiểm soát toàn bộ con sông chết tiệt ấy.
- Tôi biết hết tất cả chuyện ấy, Cohen ạ! - Hatcher nói với tiếng thở dài.
- Ừ, nhưng đây là điều anh chưa biết. Joe Cockroach từ Trung Quốc đến Hong Kong. Hắn làm chuyện này chuyện nọ, chả có gì thành công lắm, rồi hắn đi lên đất Chin Chin và vào nghề buôn lậu. Hắn cho gọi em hắn xuống. Em hắn chính là Sam-Sam.
Hatcher nói cộc lốc:
- Sam-Sam sẽ chẳng có mặt gần đây đâu.
- Ừ, đúng, đấy là điều mà tất cả chúng ta đang hi vọng. - Cohen dài giọng nói. - Sam-Sam sẽ chẳng có mặt quanh đây.
Họ lại rơi vào yên lặng và Cohen bắt đầu ngủ lơ mơ, đầu gật gà gật gù, thình lình tỉnh giấc nhưng lại rơi ngay vào trong mơ.
Trong ánh sáng huyền ảo trước lúc rạng đông anh ta trông giống như một triết gia Tàu thời xưa.
Daphne và Hatcher ngồi cạnh anh ta trên những chiếc băng gỗ của thuyền. Hatcher đang ngả lưng ra sau, đôi chân dài duỗi ra phía trước. Daphne với sang đặt bàn tay vào tay anh. Anh bóp nhè nhẹ và giữ lấy nó trong lúc họ nhìn chằm chằm vào bóng tối đang rạng dần phía trước.
Nàng nghiêng người sang và ngọt ngào nói vào tai anh:
- Đã bao giờ anh lấy vợ chưa, Hatcher?
- Chưa bao giờ.
- Có phải vì anh luôn luôn bị đe dọa không biết sống chết lúc nào phải không?
Anh suy nghĩ một lát rồi đáp:
- Có thể.
- Có bao giờ anh nghĩ đến việc đó không? - Nàng hỏi.
- Không, - anh đáp ngay tức khắc và ngạc nhiên về câu trả lời của anh. - Ý nghĩ đó chưa bao giờ đến với anh.
- Tại sao không?
Hatcher không trả lời ngay. Anh suy nghĩ về tất cả những lí do khách quan, cuối cùng anh mới nói:
- Anh sống cho qua ngày. Hôn nhân là cả quá khứ và tương lai. - Anh quay lại nhìn nàng nói tiếp. - Hoặc có lẽ anh quá ích kỉ, suốt đời cứ nghĩ về một cái gì khác. Nhưng tại sao em lại hỏi? Đây là lời cầu hôn à?
Cả hai cùng cười khẽ trong bóng đêm.
Nàng lắc đầu, nói:
- Không, - Nàng dừng lại một lát rồi hỏi: - Anh có bao giờ lo lắng về cái chết?
- Không, - anh nói nhanh, - anh đã từ bỏ điều đó lâu rồi.
Con sông tỏa ra thành nhiều dòng nước chảy ngoằn ngoèo xuyên qua cánh đồng rậm rạp. Đây là bìa cực Bắc của vùng rừng Đông Nam Á mưa nhiều. Vài cây số về phía Bắc rừng cây nhường chỗ cho các vùng đồi thấp rồi đến núi đá, nhưng ở đây rừng già vẫn còn xinh tươi.
Các tàu tuần tra Trung Quốc, số lượng hạn chế, bỏ qua vùng này một vừng dường như là sào huyệt của tên cướp biển Jean Lafitte vào đầu thế kỉ 18, một vương quốc xanh tươi của bọn sát nhân, ơ đây một chủ tàu có thể vụt mất tăm dạng vào một trong nhiều nhánh sông hoặc biến vào những nơi trú ẩn trong rừng già được phòng thủ mìn và bẫy ngầm. Đó là một khu chợ đen chằng chịt các thuyền bè buôn lậu được bảo vệ bởi thiên nhiên và bởi các tên cướp tự là Đảng Ts’e K’am Men Ti, băng Secret Gate Keepers (Những Người Giữ Cửa Bí Mật), dưới quyền thống trị hung ác của tên Sam-Sam tàn nhẫn, và các tên tay sai của hắn - tên giết người Batal và tên ám sát Billy Tử Thần.
Khi mặt trời lên, các sinh vật của rừng cây ở giải rừng mưa ven sông này thức dậy và thế giới dưới các tàn cây sống lại với những âm thanh buổi sáng. Những con cò kêu quang quác, những con ếch trượt xuống ưỡn bụng ộp oạp và phóng từ cây này sang cây khác, những con mỏ vẹt với chiếc mỏ cứng sục sạo xuyên qua tàn lá tranh ăn với những con dơi ăn trái. Trên cao, những con ó lờ lững bay lượn trên bầu trời đỏ như máu tìm kiếm bữa ăn sáng.
Vào buổi trưa họ đã ở gần các làng nhỏ Jiangmen và Shunde. Họ lướt qua. Giữa trưa họ đã ở sâu trong rừng già. Daphne nói:
- Chúng ta đang đến ranh giới vùng của bọn Ts’e K’am Men Ti.
Hatcher nghiên cứu tấm bản đồ mà nàng đã phác họa trước khi họ ra đi. Nó vạch ra một đường giới hạn ngoằn ngoèo từ con sông cái về hướng Nam. Tám cây số phía trên đường giới hạn là một nhánh sông khác chảy lượn về hướng Đông xuyên qua rừng già rồi quay ngoắt về hướng Tây làm thành một bán đảo hẹp, một khúc quanh trên dòng nước, giống như cái bẫy trong vùng nước, rất dễ làm điểm chặn trong sự cố có kẻ nào đó muốn rút lui nhanh về phía sông chính. Điểm Leatherneck John’s nằm ở phía bên kia khúc quanh. Hatcher chỉ vào cái bán đáo nhỏ xíu và dùng ngón tay vạch một đường thẳng ngang qua góc đảo phía xa điểm Leatherneck John’s và nói nhỏ:
- Chúng ta đang ở đây à?
- Khoảng đó. - Daphne gật đầu.
- Vì thế nếu chúng ta gặp rắc rối ở quán rượu, chúng ta có thể bỏ thuyền lên bộ, rút lui thẳng về đây, đúng không?
Nàng gật đầu. Anh hỏi:
- Bao xa?
- Khoảng hai cây số, có thể ngắn hơn. - Nàng nói.
- Được rồi, - giọng Hatcher khàn khàn, - đấy là vị trí rút của chúng ta. Chúng ta để chiếc thuyền Điếu Thuốc Lá đợi ở đây và chúng ta đi vòng qua khúc quanh trên chiếc tắc ráng. Nếu gặp rắc rối, chúng ta sẽ nhảy lên bờ như thỏ ấy, trở lại đây, bỏ luôn chiếc thuyền kia.
Cohen hỏi:
- Chúng ta mang theo bao nhiêu người?
Hatcher đáp:
- Sing đi vào quán rượu cùng chúng ta, bảo vệ mặt hậu. Có lẽ để một tay súng khác ở trên chiếc tắc ráng coi chừng lỡ Sam-Sam xuất hiện, ba người kia ở lại trên chiếc Điếu Thuốc Lá. Nếu chúng ta phải chạy về thì họ có thể yểm trợ cho đường rút lui của ta. Nếu mọi việc êm xuôi họ chỉ việc theo ta trở về.
- Sam-Sam sẽ không trở về trước ngày mai đâu. - Daphne nhắc lại.
- Ừ hứ. Thế nhưng bao giờ cũng có sự bất ngờ, - Hatcher nói vừa đủ to, - Anh chỉ hết lo âu về Sam-Sam khi chúng ta trở về đến Hong Kong.
- Anh rất cẩn thận. - Daphne mỉm cười nói.
- Và vẫn còn sống. - Hatcher trả lời.- Hãy cùng nhau gánh trách nhiệm và lên đây.
Khi họ vào đến giang sơn của bọn Ts’e K’am Men Ti tiếng rừng hòa lẫn với những tiếng động khác. Tiếng người. Mặt trời bắt đầu lặn sau các rặng cây thì một điệu hát lạ lùng xuyên qua cành lá vọng từ phía trước.
- Gì đó? - Cohen hỏi.
Daphne nói:
- Bọn đàn bà đang hát một bài hanchi, một loại bài ca chúc may mắn.
- Tôi chưa bao giờ được nghe cái đó. - Cohen bảo.
- Em nghĩ đấy là tiếng Cambodia. - Daphne nói.
- Họ là Khmer Đỏ à? - Hatcher hỏi.
Nàng nhún vai:
- Có thể là Khmer Đỏ, du kích tự do Lào, bọn giang hồ sông nước. Chả biết được. Nhớ nhé, bọn đàn bà cũng cừ như bọn đàn ông và có lẽ nhanh nhẹn hơn một chút.
Mặt nước chỉ còn rộng không quá 30 mét. Lúc vòng qua khúc quanh họ nhìn thấy những dấu hiệu đầu tiên của bọn Ts’e K’am Men Ti. Ba chiếc thuyền to cột chắc chắn vào thân cây ở bờ bên phải của họ, thân nhô ra ngoài dòng sông nhỏ. Sing phải cho thuyền lách ra ngoài để vòng qua chúng. Trên chiếc thứ nhất có hai túp lều đứng cạnh nhau ở phía sau thuyền, giống như những vọng gác.
Nhiều phụ nữ, tất cả đều để ngực trần, đội khăn đỏ cột chặt quanh đuôi tóc đen, đang hát vang trong khi cọ rửa sàn thuyền. Trên một góc thuyền hai chiếc nồi to đang bốc khói. Một người đàn bà đang đổ rau và nấu bữa chiều. Một người đàn ông ngồi ở góc khác câu cá.
- Một cảnh nội trợ ấm cúng. - Hatcher lẩm bẩm.
- Ngọt ngào quá, - Cohen nói, - như một buổi đi cắm trại nhân ngày 4 tháng 7 ấy (1).
Có năm hay sáu thùng đựng thiết bị điện tử chất đống ở giữa sàn chiếc thuyền thứ hai, được che đậy cẩu thả bằng một tấm vải dầu. Bên cạnh nó, chiếc thuyền thứ ba chỉ mang mươi, mười lăm thùng đạn. Hatcher xem xét số đạn được qua ống nhòm: loại 9 ly, loại nòng 30, nòng 38, một thùng loại nòng 45. Hatcher nói:
- Rất nhiều đạn và rất ít hàng hóa.
Cohen nói:
- Chắc Sam-Sam cất giấu số hàng lớn của hắn xa hẳn một chút phía trên sông. Hắn không chờ có khách hàng ngày.
- Tốt. - Hatcher nói.
Vượt qua các chiếc thuyền, ngược nhánh sông khoảng 100 mét là điểm Leatherneck John’s, một mảnh đất vuông ruộng, xấu xí với các vách phên và một mái nhà mấp mô. Nó nhô ra mặt sông trên những cột chống và hai mặt là các cầu tàu tạm thời, giống như một bến tàu tồi tàn, nông cạn. Nhiều chiếc thuyền đủ các loại được cột vào cầu tàu. Một chiếc Chris Craft trông tàn tạ, ít nhất cùng đã 20 năm tuổi mang lá cờ Đức rách tả tơi đang phất phơ bay trên cột ăng ten.
Daphne nói:
- Chiếc thuyền câu cũ kĩ màu trắng của tay người Hà Lan đây.
- Tốt, - Cohen thì thầm, - chắc chúng ta có thể rút khỏi nơi đây nhanh. Anh ta quét ống nhòm nhìn xa hơn về phía thượng nguồn. Một chiếc thuyền to chở đầy hàng nặng, che kín bằng vải dầu không thấm nước, nép sát vào bờ cách quán rượu khoảng 100 mét.
- Lạy chúa.- Cohen thở ra:
- Gì đấy? - Hatcher hỏi.
- Hãy quan sát chiếc thuyền to ở xa trên kia xem. - Cohen nói xong Hatcher nhấc ngay ống nhòm lên. - Trung tâm của sự giàu có đấy. Đó là kho hàng.
Trong lúc họ nhìn, một gã đàn ông bước ra phía trước thuyền dạng chân rồi bắt đầu đái xuống sông. Gã là người da đen, cao, rất ốm với mái tóc bóng nhoáng được tết lại thành đuôi heo buộc chặt bằng một dải băng màu đỏ. Chiếc áo sơ mi màu xanh phanh ra, gã đeo một khẩu AK-47 trên vai và giắt ở thắt lưng một khẩu súng lục H&K 9 ly. Gã đeo cặp kính mát gọng vàng hiệu Porsche. Cohen nói:
- Ồ! Đấy là tên người Haiti, mà chúng gọi là Billy Death (Billy Tử Thần) đây. Hắn là tên thích chặt chân người ta. Hãy nhìn xuống mũi thuyền xem.
Hatcher chúc ống nhòm xuống quan sát phía trước thuyền. Ở đấy, có một vật gì trông giống như một đôi giầy treo lơ lửng bằng một sợi dây. Hatcher điều chỉnh ống nhòm, tăng độ dài tiêu điểm, nhìn cho rõ đôi giày. Anh có thể nhìn thấy rõ mảnh da đã thối rữa xám ngoét của một cổ chân rũ xuống qua miệng một trong hai chiếc giầy. Ruồi nhặng bay vù vù quanh nó. Hatcher há hốc miệng:
- Trời ơi!
- Việc sẽ tốt đẹp thôi - Daphne nói. - Hắn không biết anh đến. Chắc hắn chẳng để ý đến ta đâu.
- Ừ, - Cohen nói, - Chỉ là chuyệnlàm ăn thường lệ.
Chiếc thuyền của Sam-Sam là một chiếc bè nổi rộng chất đầy hàng lậu và đạn dược. Hắn để nhiều thủ hạ giỏi nhất ở cạnh và bảy người đàn bà, trong số đó vài người là hầu thiếp, vài người còn cứng rắn hơn cả đàn ông. Batal đi theo nhưng Billy thì không. Gã người Haiti này không thích sông nước.
- Thằng Billy Tử Thần có chuyện gì thế? - Sam-Sam hỏi Batal.
Gã người Iran này đáp:
- Hắn không biết bơi.
Sam-Sam nghĩ điều đó thật buồn cười. Hắn nói:
- Gã sợ không dám đi thuyền vì không biết bơi à?
Gã Iran gật đầu.
- Quỷ thần ơi, tao cũng không biết bơi này. - Sam -Sam vừa nói vừa xoè tay vỗ ngực.
- Tôi cũng không biết bơi. - Batal nổi và cũng cười vang.
Một tiếng huyên náo từ phía sau chiếc thuyền phá vỡ sự vui vẻ của chúng. Tay lái thuyền chạy đến. Sam-Sam hỏi:
- Chuyện gì thế?
Tay lái thuyền chỉ ra phía sau thuyền lắp bắp nói:
- Máy phát điện hỏng rồi.
- Thế thì thay nó đi. Vứt cái đó xuống sông và đem cái khác lên.
Tay lái thuyền lắc đầu nói:
- Không có.
- Chúng ta không có máy điện dự phòng à?
Tay lái tàu lắc đầu, gằm mặt nhìn xuống sàn thuyền. Sam-Sam nổi giận:
- Chỉ có một máy thôi à? Cái con mẹ gì khác chúng ta cũng có trên chiếc thuyền chết tiệt này. Chúng ta có ti vi, máy casét âm thanh nổi, có lụa Thái, vải bông Ấn Độ. Chúng ta có thuốc lá Mỹ, Pháp, Anh, Thổ Nhĩ Kì, Ai Cập. Thế thì tại sao lại chỉ có một máy phát điện! Rồi sao? Có ai trả lời được điều này không?
Hắn điên tiết đi quanh sàn thuyền, đá tung đồ đạc và chửi rủa một mình, đôi mắt rắn của hắn phóng từ người này sang người khác. Thình lình hắn rút khẩu súng ra. Bọn đàn ông và đàn bà trên boong lùi dồn lại thành một đám. Sam-Sam hung dữ bước trên boong thuyền như một người điên, xoay người trên gót chân, nhìn chằm chằm vào mặt người này sang người khác.
Hắn rít lên:
- Ai chịu trách nhiệm?
Đám thủ hạ nhìn hắn trân trân, sợ hãi không dám nói. Hắn rống lên:
- Ai muốn ăn đạn? - Giọng của hắn vang vào rừng và dội trở lại - có ai không?
Hắn đợi thêm một lát nữa, thích thú với nỗi sợ hãi in trên khuôn mặt của đám thủ hạ. Rồi bất thình lình hắn quay người, xả hết băng đạn vào rừng. Chim chóc bay tán loạn, kêu rít lên đau đớn.
Sam-Sam quay lại đám thủ hạ của hắn và cười to. Bọn thủ hạ thở ra nhẹ nhõm. Một tràng cười kích động nổi lên. Sam-Sam nhún vai nói:
- Thế thì chúng ta quay về. Hấp tấp thì dù đi đâu nào có ích gì?
Chú thích:
(1) Ngày độc lập của Mỹ.