← Quay lại trang sách

41. ĐÓA HOA QUÍ GIẾT NGƯỜI

Gió tháng tư lồng lộng thổi trên các vùng núi phía Bắc Thái Lan, xua đi những đám mây cuối cùng của mùa mưa và hiu hiu thổi qua những cánh đồng đầy hoa đỏ, hoa trắng, hoa tía. Những bông hoa lay động đung đưa như những bầy vũ nữ ba lê khi nắng chiều đang nhạt dần trên chúng, chúng bừng lên rực rỡ làm những vùng đồi núi ruộng đồng trông như một tấm thảm màu sắc sặc sỡ.

Giống như nhiều loài bướm chỉ sống có một ngày, những bông hoa này tàn héo rất nhanh, mỗi bông rụng đi để lại một đài hoa và bầu nhụy xanh lợt trông như củ hành cắm trên cái que. Những tháng trước tháng tư, những cây này đã cần mẫn hoạt động đêm để tạo ra các chất kiềm alkaloid, chúng được tích vào trong các bầu nhụy. Khi người ta cắt đài hoa, chất nhựa trắng như sữa này tiết ra và khô đi rất nhanh, sẫm lại.

Khi những cánh hoa rụng xuống, dân vùng núi đội những chiếc nón rơm vành rộng bắt đầu xuất hiện trên các sườn đồi dốc, nơi hoa mọc, và len lỏi vào các luống cắt các đài hoa xung quanh, lấy muỗng sắt hứng lấy nhựa đặc trước khi nó rắn lại.

Tướng Dao, tộc trưởng của bộ lạc trên núi Hsong đã theo dõi từ mùa xuân để chỉ đạo dân làng cắt đài hoa. Là tộc trưởng của nàng, ông có thói quen ngồi trên lưng con ngựa đen như một vị thần trên đỉnh đồi, đôi vai ông quàng chiếc dây da mang khẩu súng M-14 trông như cái súng cao su. Hai tay ông đặt trên báng súng và nòng súng, ông đang quan sát vụ thu hoạch trong khi hai tên cận vệ mang súng ngắn ngồi gần đấy. Hai tên cận vệ này quay bên nọ, bên kia chăm chú quan sát bầu trời và thung lũng bằng những ống nhòm mạnh xem có dấu hiệu gì của quân đội liên bang hoặc các trực thăng không. Trong khi đó thì ở bên dưới, trên các phía của ngọn đồi được gọi là Powder này, những công nhân nông nghiệp đang cắt đài hoa.

Dân làng đã bầu Dao làm tộc trưởng. Cũng giống như cha ông, ông dàn xếp các vụ bất hòa về đủ các loại, lắng nghe các vấn đề của dân làng và thay mặt cho bộ lạc Hsong giao dịch với xã hội bên ngoài. Bộ lạc Hsong là một trong các bộ lạc của phái Phui Thong Loang, những Thần linh của Những Chiếc Lá Vàng, một nhóm nhỏ sống ẩn náu mà sự sống biệt lập của họ đã làm cho họ duy trì được các phong tục và truyền thống đã có từ những thế kỉ xa xưa.

Dao là một người chắc nịch, cứng rắn như tất cả những người Hsong khác, do cuộc sống khắc khổ ở miền núi. Ông ba mươi bảy tuổi, nhưng trông có vẻ tới năm mươi lăm, mặc dầu còn bảnh trai, có bộ mặt vuông vắn như đồng đúc, cái miệng rộng và cái mũi tẹt. Ông thích bộ quân phục màu xanh lá cây sẫm hơn là bộ quần áo truyền thống, những người dưới quyền ông cũng thế. Mái tóc đen của ông được trùm một chiếc khăn đỏ. Lâu lâu ông lại cầm ống nhòm lên dõi nhìn những nữ công nhân mặc áo khoác sặc sỡ có lá sen, quần màu bó sát vào háng dài đến nửa ống chân, và giống như những người đẩy xe ngày xưa họ quấn những khăn to đỏ chói bằng vải có màu tươi dệt với những hạt bạc nổi.

Chất nhựa mà họ đang thu hoạch là nhựa thuốc phiện.

Chất alkaloid thiên nhiên ấy là morphine.

Những đóa hoa nhỏ xinh xắn có màu tím, trắng và đỏ là hoa Papaver somniferum, mọc đầy rẫy như cỏ dại ở Đông Nam Châu Á. Không phải là những đóa hoa vườn vô hại, cây thuốc phiện Somniferum tiềm tàng cả điều tốt nhất và xấu nhất trong con người, tượng trưng cho cả việc lành và việc dữ. Cả thiên đàng và địa ngục chứa trong cái hoa trắng không lớn hơn ngón tay cái của con người. Giống như tiếng hát thần thoại của nàng tiên cá, lời hứa hẹn thì thật quyến rũ nhưng sự thật là gây chết chóc, vì trong khi thuốc phiện có chất morphine để làm giảm đau thì nó cũng có chất heroin gây nghiện.

Dao không biết gì về con số thống kê những người dùng ma túy, không biết những kiện hàng của ông ta được đem đi đâu, ai mua chúng, ai thực sự dùng sản phẩm ông ta đã thu hoạch này. Ông ta không bao giờ nghe nói về một kỉ lục thể thao thể dục do việc dùng ma túy, do việc bơm morphine vào mạch máu chính gây nên. Ông ta không biết rằng vụ thu hoạch của ông ta có thể giết chết phân nửa số người nghiện ma túy thảm thương của thế giới hoặc làm cho những tên cướp trẻ tuổi (từ 13-19 tuổi) có thể chết vì đánh nhau trên đường phố để dành một phần tư gờ-ram bạch phiến được chiết ra từ chất nhựa của những bông hoa nhỏ bé này. Ông ta chưa bao giờ nhìn thấy chiếc kim tiêm dưới da. Đây là thứ bán ra tiền của làng trong nhiều năm và đối với Dao và cả bộ lạc Hsong thì không có gì là xấu khi bán nó.

Nhưng chính phủ đã nói đó là điều tai hại và đã bắt đầu một chương trình bắt buộc các nông dân phải trồng cà phê, nấm và bắp thay cho thuốc phiện. Đã xảy ra nhiều rắc rối trên những ngọn đồi này. Những bộ lạc Leums, Lius và những bộ lạc khác ở trên đồi đã bị quân đội tấn công và vụ thu hoạch của họ đã bị tịch thu và đốt trụi. Nhưng chính phủ chưa bao giờ với tới Dao. Bộ lạc của ông ta rộng lớn, kiểm soát một khu vực núi non hiểm trở, đi lại khó khăn. Ông ta là một thủ lĩnh cương quyết và độc lập, mà lại cũng là một đối thủ nguy hiểm. Dao chỉ kiểm soát 250 hécta cánh đồng trồng thuốc phiện chả bõ để khơi lên một cuộc chiến.

Nhưng tướng Dao vẫn cẩn thận đề phòng. Khi bầu trời đã chuyển sang màu đỏ và dòng sông lấp lánh ánh vàng. Dao cưỡi ngựa xuống một quán rượu nhỏ ở giữa đồng, bước vào. Nơi đây sực nức mùi cỏ mới cắt ngọt lịm. Mủ thuốc phiện được mang đến đó và gói lại thành những gói nặng một ki lô rưỡi được gọi là joi. Như vậy giữ được hương vị của nó mãi mãi nếu không đem tinh chế.

Những gói nhựa thuốc phiện trông giống như những cái bánh nâu sậm ướp lạnh được đóng vào các túi đeo sau yên ngựa. Một gói mười ki lô nhựa thuốc phiện và một gói khác chứa một ki lô cùng thứ nhựa ấy đang đặt trên bàn để gói. Dao lấy mũi dao nhọn xoáy vào một gói, chích ra một cục nhỏ dẻo như keo, viên cục nhựa thuốc phiện chảy giữa các ngón tay thành một hòn bi nhỏ. Ông ta đặt nó lên lưỡi, nhắm nghiền mắt lại, mút và xoay tròn nó trong miệng. Rồi ông mỉm cười. Tuyệt hảo.

Đêm hôm đó, những gói này được chất lên lưng lừa và trước bình minh, Dao cùng bốn người đáng tin cậy nhất của ông dắt những con lừa đi băng qua cánh rừng tiến về House of the Golden Lady (ngôi nhà của Kim phu nhân). Họ cưỡi lừa hai tiếng đồng hồ đi qua những bụi cây rậm, những lùm tre cứng cao như những cây thông, những cây gỗ tếch khổng lồ chằng chịt dây leo. Họ đi theo những con đường mòn mà chỉ những cặp mắt được huấn luyện thuần thục nhất mới phát hiện ra được, những con đường mòn đầy rắn độc, báo đen và hổ thường qua lại tìm mồi.

Họ dừng lại khi nghe tiếng gầm sâu thẳm, quen thuộc xuyên qua tầng bóng lá cao nhất trên đầu. Họ cột ngựa lại, và đi bộ dặm đường cuối cùng dường như bị quyến rũ bởi tiếng rống ì ầm mà cuối cùng trở thành tiếng gầm thét dữ dội. Sau cùng họ ra khỏi cánh rừng rậm, đến một cửa hang sương mù phủ kín. Sương mù cuồn cuộn dâng lên quanh hang, tràn về từ thác nước đang chảy ầm ầm có tên là Golden Lady, ở phía trên thung lũng. Chật vật trên những mỏm đá trơn trượt ở bờ sông cho đến khi cảm thấy đất rung động dưới chân họ, cuối cùng họ đã tìm được cửa vào hang mà họ gọi là Ngôi nhà của Kim phu nhân.

Những thủ lĩnh của bộ lạc Hsong dấu nhựa thuốc phiện của họ ở đây đã nhiều thế kỉ qua. Giờ đây nơi này an toàn hơn bao giờ hết, bởi vì đi bộ đến đây là điều tự sát mà máy bay lên thẳng của chính phủ cũng không hạ cánh ở đây được. Họ chất những gói thuốc phiện vào sâu trong hang, phủ giấy rơm lên và chúng được giữ như vậy cho đến khi đem bán.

Trời đã sang thu và hôm trước thủ lĩnh nhóm Chiu Chao đã cho người đem tin đến làng Hsong đề nghị một cuộc gặp gỡ. Dao đã gởi một chiếc giày rơm cho chủ anh ta cùng với một ki lô nhựa á phiện để biểu lộ sự tín nhiệm của người bán, và như thế họ có thể kiểm tra lại chất lượng hàng.

Phần lớn những bộ lạc của vùng cao nguyên này vẫn còn bán nhựa á phiện tươi, nhưng bộ lạc Hsong có xưởng tinh chế riêng, một xưởng nhỏ thô sơ nhưng có hiệu quả đặt trong một căn phòng không rộng hơn một phòng ngủ. Những người Chiu Chao thích tự chưng cất ra chất heroin của riêng họ, nhưng người Hsong thì luôn luôn tự sản xuất ra chất bột này. Đó là vấn đề tự hào của Dao và đồng thời lại rất kinh tế. Phải cần đến hai ngàn cây thuốc phiện mới làm ra được một ki lô nhựa á phiện. Một kí nhựa trong vùng cao nguyên này bán được bảy mươi dollar, một kí bạch phiến Trung Hoa (đã làm thành bột) bán được chín trăm dollar. Đối với Dao sự chênh lệch này đáng để nỗ lực. Nó có nghĩa là sẽ có nhiều súng ống cho đàn ông, nhiều heo, trâu và thậm chí cả một chiếc xe tải mới cho làng, những súc tơ lụa Thái cho đàn bà, và một radio có băng sóng ngắn cho chính Dao nữa. Dao không biết rằng nửa kí heroin ấy đáng giá nửa triệu dollar ở New York, sau đó sẽ tăng lên gấp sáu hay bảy lần làm cho giá bán ngoài đường phố là gần bốn triệu dollar.

Đêm đó bộ lạc Hsong quay một lò nấu nhỏ. Họ hòa mười kí nhựa á phiện với nước rồi đem nấu trong một cái nồi đồng cho đến khi nó trở thành một khối đặc màu thẫm giống như mật mía đặc. Tiếp đó họ rót nó vào một cái máng ép cổ lỗ bằng gỗ và ép ra. Cái còn lại là một ki lô morphine. Hòa chung với nước và acetic anhydride trong một cái máy chưng cất nhỏ rồi được sấy khô dưới những bóng đèn sáng chói và được ép lần nữa, nó trở thành một cục bột thuốc phiện trắng tinh khiết mà họ in lên đó nhãn: 999. Nhãn hiệu này của Hsong bảo đảm là cục bạch phiến Trung Hoa nặng một ki lô có 99,9 phần trăm heroin nguyên chất.

Ngay sau khi mặt trời mọc, một máy bay lên thẳng cất cánh từ Chang Mai bay về hướng làng Hsong, cách đó một trăm ba mươi cây số. Ngày hôm trước, Tollie Fong đã gởi chiếc Giày Rơm của hắn cho tướng Đao để sắp xếp cuộc gặp gỡ. Nghi thức buôn bán chỉ là một thủ tục, họ đã thực hiện nó ở những làng giống như thế này khắp trên miền Bắc nước Thái Lan trong mấy tháng qua. Những ngọn núi màu ngọc bích mờ đi rồi lại hiện ra lởm chởm hơn. Những con đường núi quanh co bò lên những đỉnh núi um tùm và đột nhiên mất hút ở những chỗ núi bị sụt lở hoặc đơn giản chỉ là bị các hàng cây nuốt chửng. Từ trên không mới dễ dàng thấy tại sao quân đội đã thất bại dù đã nỗ lực nhằm ngăn cản hay triệt phá việc trồng cây thuốc phiện ở đây.

Fong ngồi ở chỗ người lái phụ trong chiếc máy bay lên thẳng với ba người phụ tá ngồi ở phía sau - White Fan lo về lễ nghi và trong chuyến đi này làm thư kí và cố vấn tài chánh cho Fong, hai tay súng Billy Kot và Soon. Người đưa tin đã hoàn thành nhiệm vụ và trở về Bangkok.

White Fan là một nhà tiên tri già đã tám mươi tuổi mà còn hăng hái, mớ tóc trắng và những sợi râu dê bạc trắng còn sót lại, mặc chiếc áo xường xám truyền thống của Trung Quốc bằng lụa. Ông ta đã hiến cuộc đời mình để duy trì truyền thống và nghi lễ. Ông ta không thích bay, đặc biệt là trong chuyến bay hỗn tạp này, nhưng bộ mặt bí hiểm của ông ta không để lộ ra vẻ gì khó chịu cả. Ông ta ngồi đây, mắt nhắm lại và cái túi nhỏ đen đầy mánh khóe kẹp giữa hai chân. Soon, một tên đao phủ, ngủ gà ngủ gật cạnh ông ta, chẳng quan tâm gì đến chuyến bay này.

Kinh tế, cũng như giết chóc là công việc làm ăn của Tollie Fong. Đánh lộn từ đồi núi đến chợ búa, dù ở Singapore hay Marseilles, New York hay Grand Rapids đều là công việc của hắn. Cha hắn đã đưa hắn vào công việc buôn bán lần đầu tiên khi hắn còn ở tuổi thiếu niên. Cha hắn đã học đại học ở Mỹ và hiểu người Mỹ. Fong nhớ cái đêm ấy rất rõ.

Năm 1962. Trước ngày tết Trung Quốc, năm Nhâm Dần.

Bên ngoài cửa sổ có những người múa rồng trên đường phố. Pháo nổ giòn trong những máng xối và những vì sao trên thành phố Hong Kong bị mờ đi sau màn pháo thăng thiên chóa mắt. Chú bé Fong, chưa đầy mười bốn tuổi muốn đi ra ngoài chơi với bạn bè, nhưng cha cậu thì nhất định không cho. Y đã gọi những người lính của y đến họp và tên đao phủ của băng Bạch Thủ này đã đặt bàn tay của y lên trên đầu gối con y và nghiêng người về phía năm người lính nói:

- Tôi đã làm việc với San Vương nhiều giờ và điều quan trọng là các anh hiểu được những kế hoạch mới của chúng tôi. Trước tiên các anh phải hiểu người Mỹ. Họ rất đam mê lạc thú. Họ háo hức thử những của lạ. Họ thích kết bạn và họ chịu mất công để gây ấn tượng cho bạn bè họ. Họ có khuynh hướng làm những việc lớn. Họ sống bằng tiền gửi nhà băng và mục đích cuộc đời của họ là yên ổn và sung sướng. Bây giờ họ đã bị rối loạn trầm trọng vì cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Thanh niên đang phản đối và, - mắt ông ta sáng hẳn lên, - họ đã khám phá ra thuốc phiện, cần sa, peyote, chất hóa học này được gọi là acid. Đó mới chỉ là bước đầu. Ngài San Vương tin rằng những thanh niên này dễ bị những loại thuốc khác quyến rũ. Đến bây giờ, những khách hàng bột á phiện phần lớn là những kẻ ăn mày, những kẻ sống lang thang ngoài đường phố, những tên trộm cắp và bọn giết người. Có một vài cuộc buôn bán với những người rất giàu, nhưng trong số này có rất ít kẻ dùng thuốc phiện. Người đảo Sicilia kiểm soát việc buôn bán này.

Vì vậy chúng ta có ba kế hoạch.

Thứ nhất, đây là lúc mà ta phải đến gặp người Sicilia. Việc này không dễ gì thực hiện, nhưng chúng ta có thể cung cấp thuốc phiện cho họ và sử dụng người của họ để bán thuốc cho chúng ta.

- Chúng ta có thể tin họ không? - Một người lính hỏi.

- Không bao giờ! Phải luôn luôn coi chừng chúng. Khi có thời cơ chúng ta sê đánh và tiêu diệt chúng, nhưng việc đó cũng còn lâu. Ngay bây giờ, chúng ta phải tạo ra nhu cầu và giao dịch buôn bán, vì thế chúng ta cần người Sicilia.

Thứ hai, những người lính Mỹ ở Việt Nam và Thái Lan ở ngay cửa ngõ của chúng ta, và chiến tranh đang bành trướng. Sẽ có thêm nhiều lính đến. Cuộc chiến tranh này sẽ kéo dài như đã từng xảy ra với người Pháp. Chúng ta sẽ bán bột á phiện cho họ với giá cao hơn mười phần trăm.

- Với giá ấy à? - Một người lính ngạc nhiên nói.

- Cao hơn mười phần trăm, để tạo ra tình hình thiếu hàng, - Fong nói tiếp, và họ sẽ mang bệnh ghiền này về Mỹ và truyền nó cho các bạn của họ. Tất cả bọn họ sẽ già đi cùng với cái ma túy quỷ quái này. Họ sẽ là khách hàng của chúng ta. Họ sẽ quen với bạch phiến Trung Quốc nguyên chất và sẽ không thỏa mãn với cục phân nâu Thổ Nhĩ Kì hoặc Mexico mà người Sicilia đang bán.

Cuối cùng chúng ta phải khuyến khích dân miền núi trồng thêm cây thuốc phiện, vì nhu cầu sẽ lớn hơn là ta nghĩ rất nhiều. Tất cả mọi kinh doanh khác mà băng Bạch Thủ dính vào đều là thứ yếu sau việc này.

Đó là cái đêm mà cha Fong giao công tác cho năm đầu lĩnh mà họ tự xưng là Dragon’s Breath (Hơi Thở Của Rồng), để mở thị trường ở Sài Gòn và cung cấp thuốc phiện cho nó. Y nói:

- Chúng ta phải trù tính hoạt động này thật cẩn thận và phải chờ đợi bởi vì phải hai hay ba năm nữa chúng ta mới đẩy nó hoạt động mạnh, nhưng đó là một phương án hay và việc sẽ chạy.

Khi các đầu lĩnh đi khỏi, cha Fong quay lại bảo con mình:

- Con phải hiểu kinh tế của việc làm này, - y nói một cách dịu dàng nhưng quả quyết, - có hàng triệu, có lẽ hàng tỉ dollar đang bị đe dọa. Ngay bây giờ số mệnh của con là theo cha coi như là Cây Sào Đỏ của băng Bạch Thủ Chiu Chao ấy. Vụ này sẽ mở ra nhiều việc cho con. Con càng biết nhiều thì con càng trở nên quan trọng hơn. Ai mà biết được con có thể đi xa đến chừng nào...

Cây Sào Đỏ (Red Pole) đã chuẩn bị tốt cho Fong - con y. Cố vấn của Fong là Joe Lung, sau này là thành viên duy nhất của nhóm Hơi Thở Của Rồng còn sống sót trong cuộc chém giết tàn nhẫn của Hatcher trên dòng sông Mekong. Lung hướng dẫn cho Fong một chương trình huấn luyện khắt khe. Một năm với Ninja ở Tokyo, sáu tháng với SAVAK ở Iran, thêm sáu tháng nữa với những tên sát nhân người Sikhs ở Bombay. Rồi một năm học với sư môn Taichi và Karate trên đảo Okinawa.

Nhưng luôn luôn có những vấn đề về thương mại phải học và Fong đã học nó qua các chuyên viên bằng cách ở nội trú trong những văn phòng thương mại của Chiu Chao ở Hong Kong, Bangkok, Singapore và Seattle. Trước khi Fong đủ hai mươi tuổi, Fong đã ở New York học cách giao dịch ngoài phố và đã giết người ba lần, vì vai trò chính của Fong trong hệ thống cấp bực của băng Bạch Thủ vẫn là thay vị trí của cha, là một tay đao phủ giống như Cây Sào Đỏ.

Bây giờ là một San Vương mới của băng Bạch Thủ, Fong sẽ làm cho cha hãnh diện, vì Fong đã trở thành một chuyên gia kinh tế về thương mại. Bây giờ các món lời đã khổng lổ đến mức có thể mua chuộc cả cảnh sát, và cả xứ này có thể bị mua chuộc hết. Buôn lâu thuốc phiện đã trở thành nghề làm ăn có lời nhất trên thế giới và một phần năm số thuốc phiện bán ở Mỹ là đem từ vùng Tam Giác Vàng thuộc miền Bắc Thái Lan đến. Mặc dầu Fong đã có lời thề đẫm máu là giết cho được Hatcher - người đã giết cha hắn - nhưng việc kinh doanh thuốc phiện phải làm trước, bởi vì Fong đã bành trướng quyền lực bằng cách lập quan hệ thương mại với các bộ lạc sản xuất thuốc phiện nhiều nhất ở miền đồi núi vùng Tam Giác Vàng.

Mỗi năm Fong lại mở rộng thêm quyền hạn, tiến sâu hơn vào trong Tam Giác Vàng, chịu mọi hiểm nguy với những tướng cướp rừng đa nghi và tính khí thất thường. Mỗi lần chính phủ đốt trụi một cánh đồng hay ngăn chặn một bộ lạc vùng đồi núi trồng cà phê hoặc nấm thì Fong lại đi vào sâu hơn, tìm ra những bộ lạc mới thích trồng cây thuốc phiện đế thu được nhiều lời.

Mưu đồ lớn của Fong đã đạt kết quả một cách tốt đẹp. Hiện nay Fong đã kiểm soát luồng bạch phiến Thái cung cấp cho tất cả các gia đình Chiu Chao, và số lượng đó chiếm năm phần trăm tổng lượng bạch phiến chở từ Thái lan ra. Trong buổi họp kín, những người Chiu Chao có mặt đã công nhận Fong là San Vương, là thủ lĩnh của tất cả các gia đình này.

Fong cần một người nào đó thay thế mình để thi hành luật lệ giang hồ, một người có thể tin tưởng được. Fong quyết định rằng người đó sẽ là Billy Kot.

Sàng lọc trong đám những tên ám sát đã phục vụ băng Bạch Thủ, Kot là kẻ sáng sủa, lanh lợi, tàn nhẫn kinh khủng và trong mắt Fong, Kot là kẻ giết người có bản lĩnh nhất, sau hắn. Kot mới hai mươi sáu, nhưng đã tốt nghiệp đại học và bây giờ là lúc cần được nâng đỡ.

Dựa vào lưng ghế, Fong bắt đầu nói chuyện với Billy Kot, Kot chồm người về phía trước ghé tai gần miệng Fong.

- Anh cần phải học phần công việc làm ăn này vì anh sắp trở thành Cây Sào Đỏ.

Kot ngạc nhiên lùi lại vì cái tin hoàn toàn bất ngờ này.

Fong nói:

- Công việc này còn hơn cả công việc của Cây Sào Đỏ nữa. Anh không phải chỉ thi hành những luật lệ của Hội, mà anh còn phải điều khiển các cuộc thương lượng ở đây nữa.

- Tôi hiểu, - Billy Kot nói, cố gắng kiềm chế niềm phấn khởi về cái tin này, - Tôi hứa sẽ xứng đáng với lòng tin cậy của ông.

- Anh phải học hỏi thái độ cư xử của các thủ lĩnh vùng cao nguyên. Đối với chúng ta họ giống như những động mạch của tim. Phải làm cho họ tin cậy anh. Và nên nhớ họ rất khác nhau.

- Còn tướng Dao thì sao?

- Tướng Dao đã là thủ lãnh của bộ lạc Hsong trong mười bốn năm qua từ khi ông ta mới hai mươi hai tuổi, - Fong bắt đầu nói, - trong vòng ba trăm dặm lân cận, các bộ lạc đều sợ Hsong.

- Ông ta có phải là một võ tướng không?

- Ông ta không gây sự, nhưng cũng không chịu quỵ lụy ai. Ít nhất là đã mười năm nay, họ không gây chiến với bất kì ai.

- Vậy ông ta là một tay cứng cỏi đấy, - Billy nói.

- Rất cứng. Quân đội sợ ông ta. Trước đây hai năm, ông ta đã thải hồi trưởng làng do chính quyền bổ nhiệm, và Bangkok chưa bao giờ có ý thay thế người ấy. Ông ta không giống như một vài người khác, luôn luôn kêu khóc là bị lính liên bang đốt những cánh đồng để cố nài thêm một vài dollar cho mỗi joi thuốc.

- Ông ta có thân thiện không? - Kot hổi.

- Ông ta bày tỏ ý kiến bằng nụ cười, - Fong nhún vai trả lời, - nhưng ông ta thận trọng. Bí quyết là phải biết đối xử với ông ta: luôn luôn kính trọng và đừng bao giờ đe dọa ông ta. Một lời lăng mạ hoặc dọa dẫm, thậm chí một lời nói đùa, có thể bị hiểu lầm là một hành động gây chiến. Lính của ông ta sẽ đánh ngã chúng ta ngay tại trận. Ít nhất cũng là ông ta sẽ không giao dịch với chúng ta nữa. Vì thế phải cẩn thận.

- Lần này tôi sẽ chỉ lắng nghe.

- Không, hãy làm cái gì đầu anh nghĩ. Nếu anh có sơ xuất White Fan sẽ báo cho anh biết. Ông ta sẽ đứng hay ngồi bên cạnh, giữa chúng ta và Dao, phần nào trông về phía chúng ta. Nếu ông ta lắc đầu, thì thôi nói và để ông ta giải quyết vấn đề.

- Người Hsong sản xuất bao nhiêu nhựa?

- Dao không phải là nhà sản xuất lớn, nhưng thuốc phiện thì rất tinh khiết và ông ta làm từ đầu đến cuối kể cả việc chưng cất nữa. Mỗi năm ông ta đều mở rộng sản xuất. Tôi không biết sản lượng năm nay sẽ ra sao.

Họ đã thấy bên dưới một làng không lớn, có lẽ chừng một trăm lều gồm những kiểu nhà đơn giản nhưng trang nhã trên đỉnh núi bằng phẳng và xanh tươi. Ở xa hơn là Powder Mountain (Núi Bột) với những cánh đồng trồng thuốc phiện trơ trụi sau kì thu hoạch. Người phi công lái trực thăng bay vòng và hạ cánh bên một con đường đầy bụi dưới chân núi.

- Đây là ngôi làng chính, - Fong nói lúc họ bò ra khỏi máy bay - có ba hay bốn ngôi làng nhỏ hơn ở chung quanh. Còn đám lính người Hsong sống trong rừng rậm. Họ ở khắp mọi nơi, chớ có đánh giá thấp họ.

- Có bao nhiêu lính? - Billy Kot hỏi.

- Tôi không biết, - Fong trả lời. - Có lẽ ba trăm.

- Vũ khí?

- Đủ thứ: Súng tiểu liên, súng M-14, súng phóng lựu, nhiều loại súng nhỏ. Trang bị rất đầy đủ.

Một chiếc xe tải quân đội cũ nát đang đợi họ. Họ bò vào thùng sau xe, ngồi đối mặt nhau trong lúc chiếc xe chạy rầm rầm trên con đường xấu đi đến ngôi làng ở cao trên đáy thung lũng chừng một cây số.

- Ông ta có thể dùng một hay hai chiếc xe tải mới, - Fong vừa nói vừa gật đầu với White Fan. Ông già ghi nhận điều ấy trong đầu, không bao giờ ông ghi chép điều gì trên giấy.

Kot quan sát trong lúc chiếc xe tải leo lên con đường đầy bụi. Hắn thoáng thấy ánh mặt trời phản chiếu trên thép sau một lùm cây, nhìn thấy những cái bóng di động sau một cây khác. Hắn nói:

- Lính của Dao ở khắp mọi nơi.

- Hây. Khỉ thật. - Fong trả lời với cái gật đầu.

Khi họ lên tới đỉnh đồi, chiếc xe tải ngừng trước một căn lều nhỏ, một kiểu nhà trông như cái hộp có một cửa ra vào và một cửa sổ, đứng rách rời hẳn những căn nhà khác trong làng. Một người lính vũ trang đứng ở một bên cửa. Fong nói:

- Ông hãy quan sát xem sự việc tiến hành như thế nào. Những nghi thức này có từ thời chiến tranh nha phiến ở Trung Quốc, gần một trăm năm chục năm về trước.

Fong bố trí Soon đứng ở bên cửa đối diện với người lính và đi vào nhà cùng với Fan và Billy Kot.

Đó là một căn phòng nhỏ có bốn chiếc chiếu trải thành một hình vuông ở giữa phòng. Dao đứng trước một chiếc chiếu có hai người lính của ông ta đứng ở hai góc phòng phía sau. Đứng cạnh Dao là Fai Thaan, một người đàn ông có gương mặt đầy những nếp nhăn của thời gian và răng đã nhuốm màu nâu sậm vì ăn trầu. Fai Thaan là người nấu là lọc thuốc phiện chính của bộ lạc Hsong. Dưới chân ông ta là một gói những chiếc lá xanh phẳng phiu. Fong đi bình thường vào giữa phòng đến trên mặt Dao, ép hai lòng bàn tay vào nhau và nghiêng mình vái để tỏ lòng kính trọng đối với vị thủ lĩnh người Hsong, người làm ra chất bột thần kì. Dao vái đáp lễ, kế đó Fan đến trước ông già nấu thuốc và đặt cái túi đen của mình dưới chân. Kot đứng phía sau Fong.

- Tôi muốn giới thiệu với tướng quân trợ thủ của tôi, Billy Kot, - Fong nói, - anh ấy sẽ thay tôi giữ chức Cây Sào Đỏ của băng Bạch Thủ.

Vẻ lo ngại thoáng qua mặt Dao, ông ta hỏi.

- Có vẻ gì không tốt sao?

- Không, không, - Fong nhanh nhẹn trả lời. - Tỏi sắp trở thành San Vương của người Chiu Chao. Từ ngày hôm nay trở đi, Billy Kot sẽ là mắt, là tai, là tiếng nói của tôi. Anh ấy sẽ thay tôi nói chuyện và thương lượng tốt đẹp với tất cả các bộ lạc cung cấp cho chúng tôi thuốc phiện.

Dao nhìn Kot vài giây, quan sát những nét thân thiện trên mặt gã trẻ tuổi. Gã có cặp mắt giống chủ, cứng rắn và léo sáng với vẻ đe dọa khó hiểu.

- Anh đang học à? - Dao hỏi.

- Hai, Fong trả lời.

Tướng Dao đánh giá Kot một lần nữa rồi mỉm cười khẽ gật đầu.

- Ho - Dao trả lời, đập nắm tay mặt vào lòng bàn tay trái của mình, đó là dấu hiệu chấp nhận. Họ không bắt tay nhau, vì ở Thái Lan đụng tay vào một người khác được xem như là một sự lăng nhục. Dao ngồi xếp chân vòng tròn trên chiếu trước mặt Fong. Fong cũng ngồi như thế, tiếp theo là Fan, Cây Sao Đỏ mới và Fai Thaan. Chỉ sau khi họ đã ngồi xuống Dao mới nhận ra Fan.

- Ông có khỏe không ông bạn? - Dao hỏi.

Ông già gật đầu và hơi mỉm cười, mở túi lấy ra một bàn tính gảy. Ông đặt bàn tính trước mặt.

- Hai, hai, - Dao gật đầu vui vẻ nói. Rồi hai người vỗ tay vào nhau và cười khoáng đạt. Vậy bây giờ đã đến lúc mua bán. Dao gật đầu với Fai Thaan đang cẩn thận mở những chiếc lá gói ra. Viên gạch trắng mang nhãn hiệu 999 óng ánh trên chiếu trước mặt họ.

Fai Thaan cầm thỏi vuông trắng như tuyết bằng hai tay và đưa cho Fan. Fan nhận lấy, cầm nó bằng một tay để ước lượng, đầu tiên đặt sấp vào lòng bàn tay kế đó lật ngửa lên, ông gật đầu ngay lập tức ra ý rằng cân đúng. Ông đứng dậy ra cửa sổ, cầm thỏi gạch ra cho ánh sáng mặt trời quan sát trong vài phút, thổi nhẹ lên bề mặt nó. Ông lấy móng tay cào một chút đưa lên mũi thư thả ngửi. Ông đợi một hai phút để thấy rõ mùi, rồi lại cào một móng tay nữa đưa vào miệng nếm. Cuối cùng ông trở về chỗ ngồi, đặt thỏi gạch trước mặt tướng Dao.

Ông chìa ba ngón tay về phía Fong:

- Khuna-phaap di thi soot - chất lượng loại một.

- Luôn luôn là thượng hạng, - Fong nói, - năm nay ông làm được bao nhiêu?

- Chín ngàn ba mươi lăm joi - Dao trả lời, hãnh diện rõ ràng về số thu hoạch. Fong cũng sung sướng nữa. Gần một ngàn rưỡi ki lô nhựa á phiện, một trăm năm mươi ki lô bạch phiến.

- Như vậy nhiều hơn năm ngoái năm chục ki lô, - Fong nói.

- Một năm được mùa, - Tướng Dao trả lời.

Lần mua trước Fong đã trả chín trăm dollar một ki lô. Fong nhìn Fan đang gảy những viên tròn màu của bàn tính. Fan giơ lên hai ngón tay, rồi ba ngón, rồi một ngón, kế đó một nắm tay. Đó là mật mã chỉ có Fong và Fan hiểu thôi.

Mặc dù Kot không hiểu mật mã này, anh cũng nhẩm tính nhanh trong đầu. Không tồi, anh nghĩ. Chỉ có 135.000 dollar cho 150 cục bạch phiến nguyên chất.

Fong quay sang Kot hỏi hắn cho giá là bao nhiêu. Đó là một thử thách bất ngờ. Thực tế thì giá cả không quan trọng lắm. Xét đến món lời của Chiu Chao, họ có thể dễ dàng chịu trả cho Dao gấp bốn hay năm lần giá bình thường chả khó khăn gì. Nhưng buôn bán là buôn bán và một dollar là một dollar.

Kot cố gắng suy nghĩ như Cây Sao Đỏ. Hắn phải cân nhắc hai điều: thứ nhất là có nên tăng giá lên không, và thứ nhì nếu tăng thì tăng lên bao nhiêu để không làm hại đến cái chung. Tăng giá thêm lên năm mươi dollar một joi thì cũng không làm thiệt hại cho họ bao nhiêu. Nhưng điều đó có ý nghĩa đủ để gây ấn tượng cho thủ lĩnh vùng đồi núi này mà vẫn không tỏ ra quá rộng rãi.

- Thêm năm mươi dollar một joi, - Kot trả lời.

Kot hiểu qua cái nheo mắt nhẹ nhàng của Fong đó là một câu trả lời tốt. Fong quay lại tướng Dao.

- Tôi thì chỉ trả thêm hai mươi lăm dollar thôi, - Hắn mỉm cười nói thêm. - Cây Sao Đỏ mới này còn rộng rãi hơn tôi.

Tướng Dao rõ ràng vui lòng. Fan không biểu lộ gì hết. Các ngón tay ông ta đang còn bận gảy những viên tròn màu của bàn tính. Ông ta giơ các ngón tay ngoặc với nhau theo một kiểu khác. Cả kiện hàng đáng giá 142.500 dollar hay 2.850.000 baht.

- Hai triệu tám baht nghe thế nào? - Fong hỏj.

- Tôi rất vui mừng. - Dao nói, đập nắm tay này vào lòng bàn tay kia. Việc mua bán đã kết thúc.

Fong thò tay vào chiếc túi đen lấy ra nhiều gói giấy bạc tiền Thái Lan màu tía và chồng gọn gẽ trước mặt Dao. Khi Fong đã đặt đủ số tiền hơn hai triệu bạt, hắn vái một cái, nói:

- Tôi đã chồng đủ số tiền như đã thỏa thuận. Khi nào Kot có thể nhận hàng?

- Ba ngày sẽ đầy đủ, được không, bắt đầu từ sáng nay? - Dao hỏi.

- Tuyệt vời! - Fong cũng vỗ nắm tay vào lòng bàn tay. - Và nếu tướng quân vui lòng, tôi xin tặng bộ lạc Hsong hai xe tải mới để ăn mừng Cây Sào Đỏ mới.

Dao vừa ngạc nhiên vừa vui sướng. Thêm hai xe tải mới nữa, ngoài điều đã thương lượng. Dao nói:

- Ông rất rộng rãi ông bạn ạ. Bộ lạc Hsong sẽ rất sung sướng được làm việc với ông Kot.

- Mai, - Fong gật đầu nói và đứng dậy.

Họ rời khỏi lều và Soon đi theo họ khi họ trở lại chiếc xe vận tải.

Fong vui mừng về việc chọn Billy Kot và hắn vỗ vào cánh tay Cây Sào Đỏ mới, nói với vẻ yên tâm:

- Anh đã hành động rất đẹp ở đó. Tôi nghĩ rằng anh sẽ không gặp rắc rối chi cả.

- Mm goi, - Billy Kot nói và vái một cái.

- Một trăm năm mươi ki lô bạch phiến nguyên chất đổi lấy một trăm bốn mươi nghìn dollar và hai xe vận tải, - Fong nói, - tất cả điều đó đi đến cái gì, White Fan?

Fan đã tính được lợi nhuận, căn cứ trên giá cả thị trường buổi sáng ở Manhattan. Ông ta bật nhanh những ngón tay theo mật mã “Ba triệu bẩy trăm ngàn dollar”. Fong tươi cười nói:

- Công việc xong xuôi trong có một ngày.

Bất cứ nơi nào có người ở là có con buôn thuốc phiện sẵn sàng giăng lưới bắt mồi. Tại khách sạn Victosha ở Sofia hay khách sạn Pique ở Marseilles hay khách sạn Vườn Hoa ở Amsterdam, những người Syri, Thổ Nhĩ Kì và Lebanon gặp những tay cướp Trung Hoa, Sicilia và Mỹ để mua bán bạch phiến, cocaine và cần sa. Họ là những chủ nhân có thế lực trong việc buôn bán thuốc phiện.

Họ đã mở những tuyến đường thủy từ phương Đông đến Amsterdam, London, Rome, và từ đó chở đến những cảng chính ở Bắc Mỹ, nơi đây một ngàn ki lô bạch phiến bán được với giá hơn một tỉ dollar, rồi nó lại được phân chia đi bán lẻ trên các đường phố.

Đồng bọn của chúng là những người Sicilia vì trong những năm từ khi cuộc chiến tranh ở Việt Nam kết thúc, chúng đã thỏa thuận với bọn du đãng Mỹ và mở rộng việc bán thứ bạch phiến chết người của chúng đến những thành phố chính của Mỹ.

Những tên trùm thuốc phiện đã biến việc buôn lậu thành một nghệ thuật lạ lùng, một trò chơi ú tim chết chóc giữa những kẻ cứng đầu cứng cổ, những tên giao liên chuyên chở lậu bạch phiến và những nhân viên hải quan chống buôn thuốc phiện lậu. Thuốc phiện chở lậu được giấu trong đá quí, tượng rồng, trong đệm trong các hộp bao cao su, trong búp bê, sách vở, túi hồ sơ ngoại giao và trong những chuyến tàu biển chở cà phê, đậu nành và tre nứa. Thuốc phiện còn được hòa tan vào nước, rồi thấm vào những vali, những bức tranh, những tấm thảm và quần áo để mang theo người hoặc gửi tàu biển sang Mỹ. Những tay buôn lậu chôn thuốc phiện trong sa mạc đợi thương lượng giá cả, sau đó chuyển nó qua biên giới bằng cách cho lạc đà ăn thức ăn pha thuốc phiện, làm cho chúng nghiện và huấn luyện cho chúng biết đi theo những tuyến đường đặc biệt để được ăn nhiều thuốc phiện hơn.

Cứ mỗi chuyến thuốc bị đổ bể thì lại có một phương án mới. Cứ mỗi cân thuốc phiện bị tịch thu thì mười cân thuốc phiện đã đi lọt.

Ở Bangkok và Hong Kong, Tollie Fong với những băng Bạch Thủ của hắn đã phát triển những kĩ thuật buôn lậu ghê tởm và kinh khủng nhất. Giờ đây chúng phải đưa một số lượng thuốc phiện vào Mỹ. Chúng đã có gần ba tấn bạch phiến Trung Hoa nguyên chất loại 99,9 phần trăm giấu bí mật ở Bangkok sẵn sàng để chuyển vận sang Mỹ.

Lời tiên đoán của cha Tollie Fong hai mươi năm về trước cuối cùng đã thành sự thật. Những năm trước đây việc làm ăn của chúng đều tốt. Fong đã có một kế hoạch hoàn hảo. Vị San Vương già đã tán thành kế hoạch đó.

Tollie Fong có nhiệm vụ gây chiến tranh với kẻ thù bất cộng đái thiên của Chiu Chao là Mafia.