43. NGHI NGỜ
Hatcher trở mình khi chiếc phản lực 747 nghiêng cánh đột ngột và bay lướt qua Bangkok trên đường tiến về thành phố, người phục vụ chuyến bay thông báo rằng máy bay sắp đến phi trường Don Muang. Còn đang nửa tỉnh nửa mơ, Hatcher nhớ lại Bangkok là một thành phố có những đền chùa vàng và bạc, có những tháp hình chóp và lâu đài nguy nga, có những phụ nữ đẹp mảnh mai dễ vỡ như đồ sứ, quấn trong những tấm lụa rực rỡ.
Anh kéo tấm rèm nhìn xuống, cảnh đẹp như trong tranh. Ngay trong ánh sáng xam xám trước bình minh với mặt trời như chốn thiên thai lung linh ở chân trời, Bangkok giống như một viên ngọc lấp lánh trong lòng bàn tay Phật và dòng sông Chao Phraya là đường đời vô tận trải dài từ ngón tay út đến ngón tay cái. Hàng trăm lâu đài nguy nga và những tháp hình chóp bằng vàng vươn qua lớp sương mù ban mai như những đóa hoa tìm đón ánh mặt trời. Đây là những nơi thiêng liêng và những con kênh uốn dòng qua thành phố nói lên đặc điểm và tính cách của Bangkok. Nhiều thế kỉ trước đây Bangkok không có đường xá, phố phường của nó là bao nhiêu kênh rạch được gọi là Klongs chảy quanh co, hai bên bờ phủ đầy hoa và cây cỏ. Sự phát triển đã làm Bangkok thay đổi. Một số sông chính vẫn còn dùng cho thành phố, số còn lại đã được lấp đi trở thành đại lộ và đường cho xe chạy. Nhưng vẫn còn lại những lùm hoa và những đường phố nay được phân ranh giới bởi các loại hoa lan, hoa giấy, những cây cọ cũng như những cống rãnh và vỉa hè. Qua làn sương sớm, Hatcher chốc chốc lại thấy những con kênh đông nghẹt những chiếc thuyền hang yao thanh mảnh đuôi dài chất đầy trái cây tươi, hoa và hàng hóa do những người sống trên sông nước chèo đến những chợ nổi trên hai bên bờ sông chính.
Lúc máy bay bắt đầu hạ cánh, mặt trời đã ló ở chân trời, sương sớm bừng sáng lên vì ánh lửa bình minh, biến thành hơi nước, tan đi và một thành phố vàng lấp lánh hiện ra trong ánh hào quang tuyệt mỹ.
Đây là một mảnh đất xa lạ đối với người phương Tây đến nỗi họ tưởng như đang bay vào một hành tinh nào khác. Những khách du lịch khi nhìn thấy mảnh đất này, ngạc nhiên không ngớt kêu lên “ô”, “a”. Mọi vật phía dưới họ dường như sạch sẽ, màu mỡ và quyến rũ. Tuy nhiên họ cũng biết rằng bên cạnh cái vẻ đẹp ấy còn có nỗi đau khổ của sự nghèo nàn khủng khiếp, những đứa trẻ nhỏ vầy ngay những chất dơ dáy chúng thải ra và bị đem bán trên đường phố, bạch phiến là một phần của hối đoái, có sáu chục đến bảy chục vụ giết người hàng tháng, những tháp cao xây cất bằng thép lạnh và kính bóng loáng của người phương Tây đang dần dần làm hư đi vẻ đẹp thanh tú và cổ xưa của Bangkok, xe cộ đang làm ô nhiễm bầu không khí của thành phố. Hắn nghĩ, có lẽ, rồi đây người Thái sẽ chán ngấy những người ngoại quốc và tống cổ họ đi như tổ tiên của họ đã làm cách đây hai trăm năm về trước khi những người Pháp đến đây cố gắng thay thế lòng từ bi của Phật bằng lòng kiêu ngạo cứng cỏi của đạo Cơ Đốc.
Để sống được như người Pháp ở Bangkok, người phương Tây phải chấp nhận triết lí của nó mặc dầu họ không hiểu nó. Nơi đây Phật là vị thánh nhân từ. Những người Thái giàu có mua những búp lá bằng vàng rồi gắn chúng vào các đền chùa và các bức tượng. Những người nghèo thì gắn lên các bức tượng những mảnh sứ vỡ. Mọi người đều đến dâng lễ và đọc kinh cầu Phật, vì người Thái không nghĩ gì đến việc cầu xin một con cá to trên dây câu của họ, một vé số trúng độc đắc, một người đàn bà xinh đẹp qua đêm hay một người đàn ông đẹp để ôm ấp khi mặt trời lặn. Sự tế nhị không còn có những người phương Tây mà Chúa Trời của họ được nặn lên bởi những kẻ trung gian phách lối, vênh vang, tự xưng là người truyền giáo: đó là vị Chúa Trời hay giận dữ ít lòng trắc ẩn, ít tha thứ và không có tính hài hước. Đối với người Thái họ tin rằng nụ cười được sinh ra trong xứ họ. Đức Phật là vị Chúa Trời tốt bụng và bao dung, có thể chơi những trò ranh mãnh cười đùa và vui mãi, một vị Chúa Trời không đòi hỏi gì cả, không yêu cầu gì cả và mỉm cười với kẻ nào dâng lễ dưới chân người.
Có lẽ vì thế mà đối với người Thái tranh luận là một tội, to tiếng là điều sỉ nhục và tức giận là điều quá quắt. Người ta phải yêu thương một dân tộc mà triết lí sống của họ được tổng kết lại thành phản ứng của họ đối với tất cả mọi điều là: Mai pen rai - không sao đâu. Trong lúc Hatcher còn chưa hiểu những điều phức tạp của đạo Phật theo phái Đại Thừa thì một điều anh biết chắc là: những người Phật giáo tin ra cuộc sống tạm bợ của chúng ta trên thế gian này là không chắc chắn dù ở trong hoàn cảnh tốt nhất cũng là điều đáng xấu hổ, sự khao khát là điều tội lỗi và cuộc sống là một quá trình hỉ xả. Đó là một triết lí mà anh đã thử theo, nhưng có những phản ứng tâm lí đã ăn sâu vào người phương Tây đến nỗi đối với một người Pháp thì khó mà bỏ chúng được. Và trong khi Hatcher đã hiểu và cố thực hành triết lí của người Thái trong quá khứ thì lần này anh lại không làm được. Anh quá lo ngại và điều mà anh sợ nhất là cái anh sẽ biết được về Cody ở Bangkok. Máy bay càng đến gần phi trường sự lo lắng của anh càng tăng lên. Ngay cả việc chấp nhận dạng người bạn cũ xưa kia của anh cũng là một vấn đề lớn. Anh có còn nhận ra Cody nữa không? Đã gần hai chục năm rồi kể từ khi anh gặp Cody lần cuối. Và có thể bạn anh đã đổi tên.
Nhưng nỗi lo sợ lớn nhất của Hatcher lại liên quan đến chính bản thân Cody. Anh ta hiện đang làm gì ở đây, và tại sao anh ta lại giữ bí mật lai lịch của mình trong suốt từng ấy năm? Anh ta có phải là một cộng tác viên không? Một tay bán ma túy? Một tay buôn lậu thuốc phiện? Nếu anh ta buôn lậu phiện thì anh ta có liên kết gì với Tollie Fong và cái băng Tam Kết Chiu Chao không? Hay là có một bí mật nào sâu xa hơn mà Hatcher không thể tưởng nổi?
Cody có thực sự chết không? Dù cho anh ta có thoát được ra khỏi chiếc máy bay rơi mười lăm năm về trước thì có lẽ Cody cũng đã chết trong trại giam hay chết vì nhiều lí do khác. Mười lăm năm quả là một thời gian dài.
Hatcher cũng nhớ lại rằng ở Thái Lan đã không có một sự kiện nào về vấn đề đó cả. Sự thật là một lò thử thách để xem cái gì là thật, cái gì là tưởng tượng, cái gì là đúng thực và cái gì là tâm linh. Tốt nhất là từ một sự kiện ở Bangkok phải rút ra được sự thật, nhận thức của cá nhân. Sự thật thường trái với cái vẻ bên ngoài của nó và sự vật không bao giờ giống như cái nó phô bày ra.
Tuy nhiên cố hết sức mình, Hatcher cũng không thể kết luận chắc chắn là tại sao Cody vẫn còn trốn tránh.
Cuối cùng có một câu hỏi hắc búa nhất: Nếu Cody có dính líu vào một âm mưu đen tối nào, thì Hatcher sẽ làm gì đây? Quên anh ta đi và quay về nhà ư? Dù thế nào cũng cố sắp xếp cho anh ta gặp cha chăng? Có lẽ lời khuyên nhủ của Cohen là tốt nhất - quay lưng lại không đếm xỉa gì đến mọi việc nữa và trở về.
Đó không phải là chọn lựa đứng vững được đối với Hatcher. Anh có bổn phận đối với Buffalo Bill Cody. Anh đã hứa và anh muốn giữ lời. Thật vậy, anh đã mắc cáu, anh phải chơi hết mình, bất chấp kết quả sẽ ra sao.
Anh đã qua được hải quan mà không xảy ra việc gì và tìm được một chiếc taxi. Chuyến đi vào thành phố là một điều kì thú, một cuộc đi chơi kì diệu qua những dải đất trồng trọt xanh tươi làm khách phải lóa mắt, những thanh âm, những quang cảnh có thể thôi miên bất cứ ai. Vẻ đẹp của thành phố luôn luôn quyến rũ Hatcher và giờ đây trở lại sau năm năm xa cách, anh lại ngạc nhiên vì những điều bí ẩn còn giữ kín và những lời hứa hẹn đang che đậy.
Bốn mươi cây số đường vào thành phố trôi qua nhanh, và những cánh đồng xanh tươi của vùng quê thình lình nhường chỗ cho thành phố ngay khi họ đi ngang qua lâu đài Chitralada nguy nga. Chiếc taxi chạy qua đường đua Royal Turf Club, qua những cánh đồng mà hàng ngày diễn ra những cuộc đấu diều vào lúc hoàng hôn, qua Phadung Klong, con kênh chính của thành phố. Sau hai giờ nữa, đại lộ sẽ đầy những xe ô tô, những xe máy kêu bịch bịch gọi là samlor, và những chiếc xe tuk-tuk ba bánh kì lạ có hai chỗ ngồi chạy luồn lách trong đám xe đông nghịt làm mọi người phát khùng, cái tên của chúng đủ mô tả được tiếng kêu của động cơ nhỏ trong xe. Nhưng trong ánh nắng sớm, thành phố cũng giống như một thế kỉ trước đây. Họ lái xe xuống đường Bamrung Muang hầu như vắng vẻ, nơi đây hoa lan, hoa hồng leo từng lớp trên những hàng rào, họ đi qua những khu đất có những cô gái trẻ trong bộ đồ thêu đang tập dượt những điệu vũ nghi lễ và chờn vờn với những cái bóng dài do ánh nắng ban mai in trên thảm cỏ mịn như nhung màu ngọc bích. Luồng gió mát ban mai thổi qua cửa sổ của xe taxi đưa lại tiếng chuông chùa văng vẳng từ những đền thờ Phật ở khắp mọi nơi, các góc chùa khảm tinh vi, các tháp hình xoáy ốc màu sắc và những mái vòm lát ngói vàng, những mái chìa được trang trí bằng những hình chạm cong màu vàng được gọi là chofas.
Một bà doanh thương người Thái trong bộ đồ phương Tây đậu chiếc xe Mercedes bên lề đường, đặt một vòng hoa lài vào một cái miếu nhỏ làm rất đẹp và chắp tay lại vái, có lẽ đang cầu thần linh ban cho một ngày thành công. Những cái miếu nhỏ có ở mọi nơi, giông như những cái nhà cho búp bê được sơn phết huy hoàng và đặt trên các cột trụ. Những miếu này luôn luôn được bày các lễ vật: những bình sơn thủ công đầy hoa hồng, những cây nhang đang cuộn khói, những vòng hoa lan, những lá sớ khẩn cầu thần linh, những dải lụa màu tươi sáng, và cả thức ăn nữa.
Khoảng nửa chục sư sãi trong bộ áo dài quấn sa rông bước ra từ một ngôi chùa gần đấy mang theo những cái bát bằng đồng để xin đồ bố thí, bắt đầu đi xin bữa ăn đầu tiên trong ngày. Cách đó hai khu phố, một người đàn bà nhà quê, đầu quấn khăn có gắn nữ trang sáng chói và đôi môi sẫm lại vì ăn trầu ngồi ngay giữa hè phố đang xỏ những vòng hoa lài. Ở một khu phố khác xa hơn, một anh bán hoa quả đang bận sắp xếp sạp hàng của mình, với những hàng dãy trông ngon mắt vào dưa, chuối, xoài và sầu riêng - một loại trái to có gai mà hầu hết người ngoại quốc không ưa. Họ đi qua cái đu cao ngất Phatpu nơi đây các nhà lực sĩ đã từng đu thành những vòng cung lớn để mua vui cho nhà vua, cho đến khi trò chơi này bị cấm vì quá nguy hiểm. Những đường phố có trồng hoa ở nơi đây nhường chỗ cho thành phố đông đúc. Những việc phi lí như vậy còn nữa: một cung điện đời Victoria với những tháp nhỏ hào nhoáng sang trọng nhưng bỏ hoang đứng ngay sau một rạp chiếu phim, một bức tượng Phật khổng lồ cao ba tầng lại đặt giữa hai tòa nhà làm việc bằng kính và bê tông, một đám trẻ con cầu bơ cầu bất chạy trên lề đường với điệu bộ duyên dáng như những vũ nữ ba lê đang đá một trái banh mây làm hoảng hốt một đàn én di trú từ xa bay đến, dường như đang tìm nơi đậu giữa những bức tượng và đền chùa. Và có những nét về tính khí bốc đồng của người Thái: một tiệm cắt tóc mang tên Darling (Yêu Dấu), một cửa hàng ăn có tên Puberty (Tuổi Dậy Thì), một khách sạn cho mướn phòng theo giờ có tên là Bungalow Home Fun (Vui Gia Đình Trong Nhà Gỗ Một Tầng).
Phố này chấm dứt thình lình ở đường Yawaraj, đánh dấu sự bắt đầu của khu Yawaraj hay là phố Tàu. Vì xe cộ đông nên những chú lính cảnh sát giao thông mặc đồ ka ki với nón sắt trắng bóng loáng bắt đầu xuất hiện và người lái xe tin vào còi xe hơn là tài khéo léo của mình để chạy qua những con đường nhỏ đông nghẹt người. Những con đường như hình phễu, trở nên hẹp lại và quạnh hiu đáng sợ quanh co qua những ngôi nhà cũ bằng cây xiêu vẹo chen chúc nhau. Chốc chốc lại thấy một nóc chùa Tàu thanh tao vượt lên cao hơn những dãy cửa hàng giông giống nhau bán các thức ăn hiếm, thuốc kích dục, thuốc bổ Quảng Đông và những dược thảo thần diệu. Đường phố trở nên hẹp lại, quanh co qua Nakorn Kasem, chợ tàu, quen gọi là chợ Kẻ Cắp (Thieves’ Market), một sự dùng từ sai vì từ lâu hầu hết các cửa hàng đều bán những thứ hàng tầm thường như bồn tiêu, bơm nước và những đồ điện. Miếng mồi hấp dẫn thực sự của Yawaraj là những cửa hàng đồ cổ đầy bụi được chiếu ánh sáng lờ mờ. Những chủ tiệm đang bận rộn những vật quí giá của mình ra phía ngoài để bày chúng ngay trên vỉa hè: đồ sứ, đồ gỗ téc nạm ốc xà cừ, những bình phong bằng gỗ hồng đào, những cây đèn bằng thau và đồng.
Người lái xe rẽ vào Đường Mới (New Road), và chạy thẳng xuống vài khu nhà cuối để đi đến dòng sông ở cuối đường Yawaraj và ngừng trước khách sạn Nhà Mương (Muang House), một khách sạn trung bình, mà Hatcher thích hơn là những khách sạn sang trọng ở Bangkok. Khách sạn được trang bị máy điều hòa không khí, vì thế muỗi không còn là vấn đề đáng sợ nữa. Chiếc taxi kế đó chạy qua chợ đặc sản để đến khu vực phía Đông.
Nhà hàng ăn ở phía ngoài ngay sau khách sạn, trên một sân hiên trồng đầy hoa bên dòng sông Chao Pharaya rộng đang cuồn cuộn chảy. Phía dưới là những con thuyền dài vội vã lướt qua làn sương sớm đi đến chợ nổi, còn ở đằng xa là những tháp hình chóp của nhiều ngôi chùa xuyên thủng bức màn sương xà thấp. Chưa tới bảy giờ sáng. Nhà hàng ăn vắng tanh, chỉ có mình Sloan đứng gần rào sắt nhâm nhi li cà phê và ngắm dòng sông. Ngọn gió nhẹ ban mai thổi phần phật tà áo vét bộ đồ lụa trắng hắn mặc. Với cái áo sơ mi màu xanh nhạt người ta có thể dễ nhầm hắn là một người bán hàng hoặc một ủy viên quản trị hãng buôn. Cuối cùng hắn ngồi xuống một cái bàn gần rào sắt, với cặp kính Ben Fraklin đeo trễ xuống giữa mũi, mở tờ báo Bangkok Post, một trong ba tờ báo tiếng Anh của xứ này, rồi lại cuộn nó theo chiều dài như những người đi xe điện ngầm ở New York thường làm.
Có một lí do khác làm cho Hatcher bồn chồn lo lắng khi đến Bangkok. Đó là Harry Sloan. Thủ đoạn là tên đêm của Harry.
Trước khi nhiệm vụ này chấm dứt, Hatcher lo sợ có thể anh phải đứng giữa Murph Cody và Harry Sloan.
Ta sẽ phải nói những gì cho hắn biết? - Hatcher tự hỏi. - Hắn có cần biết điều gì không?
- Sawat-dii. - Người bồi bàn chính nói và cúi chào. -Xin mời ông xơi điểm tâm?
Hatcher chỉ về phía Sloan và theo người thanh niên ăn mặc chải chuốt đến cái bàn đó. Sloan ngước nhìn lên qua phía trên cặp kính rồi nhìn xuống chiếc đồng hồ đeo tay. Hắn nói:
- Thật đúng giờ. Sự đúng giờ, dấu hiệu của con người đáng tin cậy.
Hatcher kêu nước cam tươi, cà phê và một cái bánh nướng xốp Anh. Khi người phục vụ rời khỏi bàn, Sloan bỏ kính ra, đặt cẩn thận xuống một góc bàn.
Thiếu một nụ cười trên mặt Sloan, mặc dù giọng nói của hắn vẫn nhàng như thường lệ.
- Anh đã từng ở thuộc địa lâu ngày.
- Anh định nói gì?
Sloan hạ cố mỉm cười:
- Chỉ cốt để anh hiểu thôi, tôi đã bị tấn công vì một thằng ngu của tôi ở Madrago. Tôi không muốn có một cuộc đấu súng trên đỉnh đồi Victoria, tụi cớm vênh váo lên, một trận đấu đôi chết tiệt giữa Cohen và Tollie Fong một cuộc đấu súng trên thượng nguồn sông làm một nửa bọn Ts’e K’am Men Ti ngã gục. Cái mà tôi đang nói là hoàn toàn đột ngột, những cái được ưu tiên đã thay đổi Madrago chính là điều quan trọng ngay lúc này.
- Anh nói lầm đấy, Harry, - giọng nói khàn khàn của Hatcher đáp lại cũng rất nhẹ hàng. - Tôi không vẽ một đường trên mặt đất và thách chúng bước lên. Chúng đang cố tìm cách giết tôi. Tôi có nhiệm vụ phải làm gì, đóng vai một người đã ở thế bị tấn công chăng?
- Không ai nghĩ rằng lại như thế.
- Vậy hãy để tôi làm việc của tôi.
- Anh biết là quan trọng như thế nào việc giữ cho cả đội im lặng, đặc biệt là lúc này. Có quá nhiều điều đang lâm nguy, ở đây, ở Trung Mỹ, ở Trung Đông. Đồ quỷ, ván bài đã lật ngửa hết rồi đấy.
Hatcher nhìn chằm chằm Sloan ngồi bên kia bàn. Anh giũ khăn ăn và để rơi nó lên lòng khi người bồi bàn mang cà phê vào. Anh nói:
- Anh biết cái nguy hiểm khi anh mang tôi đến đây, - Hatcher pha nhiều kem và đường vào cà phê của anh, - và cả hai chúng ta biết rằng tôi đã gặp khó khăn ngay từ cái phút mà con chó đẻ Varney hiện ra trước cửa nhà anh. Như anh luôn luôn nói, nếu một người đã biết thì mọi người đều biết. Tất nhiên là không tránh được việc thằng con hoang ấy ở trong danh sách ăn lương của Fong.
- Thằng con hoang đó, tôi biết. - Nụ cười trở lại, giọng nói dễ thương trở lại. - Anh hãy nhớ rằng trong tương lai những điều này có thể dàn xếp được.
- Không có thì giờ cho việc ấy. Chúng không bấm chuông ở cửa nhà Cohen để đề nghị một cuộc thương lượng nhỏ trước đâu... - Những lời nói của Sloan thình lình thấm vào, và Hatcher dừng lại một lát, ngó chằm chằm vào hắn. - Anh muốn nói gì, những điều đó có thể thương lượng được à? Anh không thể thương lượng bất cứ điều gì với bọn Chiu Chao đâu.
Sloan chồm người qua bàn, nói một cách chán nản:
- Tôi có thể lo việc đó.
- Bằng cách nào?
- Chúng ta buôn bán với những xứ này. Khi chúng ta cần làm áp lực với Fong, thì có những cách để làm việc ấy.
- Harry, không có ai làm áp lực được với Fong đâu.
Người phục vụ mang bữa điểm tâm đến. Sloan đã gọi trứng, thịt muối chiên, bánh mì nướng, trái cây. Những người khách khác bắt đầu vào nhà hàng ăn.
- Cái quỉ gì đã xảy ra ở vùng thượng nguồn? - Sloan hỏi trong lúc rắc muối tiêu vào trứng.
- Tôi đang tìm tin tức.
- Tôi hi vọng rằng cái mà anh đạt được bõ với chừng ấy xác chết.
- Anh bắt đầu lo đến việc đếm các xác chết từ bao giờ đây? - Hatcher nói một cách mỉa mai.
Sloan chồm người lên bàn, nói:
- Anh có tìm được cái gì hay không?
- Tôi tìm được một vài dấu chỉ dẫn.
- Ra thế đấy? Tất cả những gì tôi rút ra được qua bữa điểm tâm này: anh tìm được vài dấu chỉ dẫn.
- Chúng ta sẽ nói về điều ấy nếu chúng có kết quả.
Sloan ngả người ra và thở dài, hắn quay nhìn dòng sông, sắp xếp lại ý nghĩ của mình.
Hatcher nói một cách rất cụ thể:
- Harry, tôi đến đây để tìm Murph Cody và đó là việc tôi sẽ làm. Tôi sẽ làm việc ấy theo ý tôi, không có chuyện phải báo cáo cho anh tiến độ từng ba mươi giây một. Tôi biết tôi còn sống để ăn bữa sáng hôm nay và giờ thì tôi ở đây. Anh có quan tâm quái quỉ gì đến việc lao vào công việc ấy tôi phải đụng với Ts’e K’am hay Fong hay bất cứ người nào khác? Đó là chuyện của tôi. Tôi không làm việc cho đội đâu, tôi chỉ là một dân thường đang đi tìm một người bạn cũ.
- Tôi khâm phục cái tài đơn giản hóa quá mức của anh - Sloan nói và cười khúc khích. - Ờ, tôi có một vài tin tức không được tốt cho anh và nhiều tin tức còn tệ hơn nữa. Anh thích nghe tin nào trước?
Hatcher thở dài hỏi:
- Tại sao anh lại cười khi nói đến việc đó?
- Có thể là tôi cũng ương ngạnh như anh, - Sloan nói. - Cái tin xấu nhất là người ta đã tìm thấy những cái thẻ ghi tên tuổi của thằng cha Cody tại nơi máy bay rơi.
Hatcher gắt với Sloan làm cho lời thông tin chìm đi.
- Anh biết chuyện ấy khi nào?
- Tối hôm qua. Người ta tìm thấy chúng khi kiểm tra lại vào năm 76 địa điểm máy bay rơi. Nó không có trong báo cáo vì người ta đã tuyên bố anh ta chết rồi và hồ sơ chính thức cũng đã đóng lại khi tìm thấy chúng.
- Làm sao anh biết được?
- Anh biết Flitcraft chứ, hắn không bỏ qua một chứng cứ nào. Hắn thường xuyên hỏi tin ủy ban tù binh và Công ty bảo hiểm sau khi chúng ta nhận được báo cáo của Windy. Tài liệu về những thẻ đó được bỏ quên trong một gói giấy báo hiểm và không bao giờ được bổ sung vào hồ sơ chính thức cả. Chúng đã không được người ta lưu ý đến ngay lúc ấy.
Hatcher ngẫm nghĩ một lát. Thật ra thì đó là nguồn tin tốt cho anh. Nó giải quyết một vấn đề liên quan đến lí lịch của Cody trong trại tù binh. Anh nói:
- Điều đó có thể giải thích vì sao mà Việt Cộng đã không khai thác hắn.
- Tôi chưa hiểu ý anh, - Sloan nói.
- Ngay trước giờ phút này, sự việc thực sự làm tôi phát cáu, - Hatcher nói. - Nó không ra nghĩa lí gì cả. Nếu Việt Cộng tóm được đứa con của đại tướng tư lệnh trưởng thì họ có thế mạnh để giải quyết những thương lượng khó khăn, nhưng họ chưa bao giờ làm cả. Bây giờ thì chúng ta biết được là tại sao. Anh ấy đã giấu họ, Harry, do đó họ không biết anh ấy là ai.
Sloan nhướng đôi mày lên. Rõ ràng là hắn đã không nghĩ ra điều đó. Hắn nói:
- Anh thực sự có tài khai thác những điều có lợi cho anh.
- Tôi cũng đã biết chính xác cái trại lưu động gọi là Huie-kui. Trại đóng ở rìa dãy núi Trường Sơn thuộc phía Lào gần thành phố Muang. Đó là trại chuyển tiếp dành cho những lính ngụy.
- Hừ, cứt, - Sloan khịt mũi căm phẫn.
- Để tôi nói hết đã, - Hatcher nói nhỏ. - Cũng có tám đến mười tù binh Mỹ ở trại này, họ phải lao động thường xuyên. Tôi đã gặp một người, ông ta nghĩ rằng đã nhìn thấy Cody ở đó.
- Nghĩ à?
- Chúng ta đang nói chuyện mười, mười một năm về trước mà.
Sloan cà cà cườm tay vào cằm, hỏi:
- Cái gì đã xảy ra cho cái trại này sau chiến tranh?
Hatcher lắc đầu.
- Tôi không biết nhưng tôi biết rõ là anh ấy đã không trở về Hà Nội. Anh ấy đã chạy trốn.
Cái tôi của Sloan có thể đã quỵ. Hắn nhìn chằm chằm vào Hatcher qua cái bàn một lúc lâu rồi nói:
- Tất cả đều vẫn là có lẽ và có thể.
- Vâng.
- Như thế chúng ta vẫn không có gì chắc chắn ngoại trừ Wol Pot.
- Đúng vậy. - Hatcher nói.
- Thật là cứt, Hatcher. - Sloan nói. - Tôi sẽ nói với anh cái gì mà tôi không tin. Tôi không tin rằng có hai nghìn bốn trăm người Mỹ mất tích đang ở Hà Nội. Có thể một số đang đi lạc đường quanh vùng Lào hay Bắc Việt. Có lẽ một vài kẻ đã phản bội. Số còn lại có lẽ đã bị bắn, hay chết vì thiếu dinh dưỡng, vì bệnh tật. Đó là những kẻ không bị giết tại chỗ. Quỉ thần ơi, bao nhiêu con người tốt đã bị đem đi hủy hoại ở Việt Nam, Hatcher. Ngoài ra, trở lại cái thế giới thực tế, anh có thể bị trúng độc vì liều thuốc mua ở hiệu thuốc bên đường, bị một anh chàng say rượu nào đó, đụng xe trên xa lộ. Còn nhiều cách chết tồi hơn là chết để phục vụ tổ quốc.
- Tại sao anh không đề cập đến vấn đề đó ở Georgia khi anh lừa gạt tôi vào chuyến đi này?
- Tôi không bao giờ nói là Cody còn sống.
- Anh đã có ngụ ý cái đó đủ để đưa tôi đến đây.
- Này, tôi nói thẳng rằng thái độ của anh thật quái quỉ, còn khó chịu hơn là lúc ở Georgia thậm chí cả ở Hong Kong nữa.
- Chúng ta hãy nói thẳng ra chúng ta đã đưa ra một câu chuyện ngông cuồng để làm tiền đề.
- Cứt bò! Tôi biết anh. Tôi có thể nói rằng mũi anh đã bắt đầu hoạt động và anh đang lao vào một điều gì đó.
- Đúng như thế! - Hatcher gật đầu nói.
- Anh tin rằng Cody còn sống hả?
- Chúng ta nên nói là: Tôi tin điều đó hơn là lúc tôi còn ở Hong Kong.
- Tại sao?
- Chả có gì. Trực giác thôi.
- Nhưng anh chẳng có gì để dẫn chứng tại tòa án.
- Không.
- Ừ hứ. Được.
Hatcher đã giấu một số điều quan trọng của vấn đề rắc rối này: Wol Pot đã chạy trốn sang Bangkok, người Hà Lan đã nghĩ rằng kẻ có thể là Cody hiện giờ đang buôn thuốc phiện. Anh cũng không nói với Sloan về cô gái tên Pai và cũng chưa đề cập đến Thai Horse. Tại sao? Anh tự hỏi. Bởi vì anh không tin Sloan, đó là câu trả lời.
Sloan nói:
- Vấn đề là Murph Cody còn sống không? Nêu còn sống thì bây giờ hắn ta đang ở trong hoàn cảnh nào.
- Lúc ở Georgia, anh đã nói với tôi rằng nếu tôi tìm được Cody thì anh sẽ không còn đòi hỏi gì thêm nữa - Hatcher nói - Anh đã nói ông già chỉ muốn gặp mặt để từ giã con thôi. Đó là vấn đề duy nhất.
Sloan đốt một điếu thuốc xì gà, gạt tàn thuốc và nhìn ngọn gió nhẹ đưa làn khói thuốc đi xa. Hắn đăm đăm nhìn ra ngoài sông.
Cả hai người đang nghĩ về thuở xưa, thời gian họ trông cậy vào nhau, tin tưởng nhau, khi đó có một mối liên kết giữa họ với nhau không nói ra lời, không viết chữ mà nó cao hơn cả nhiệm vụ và mệnh lệnh và gần như một lợi dây liên lạc tinh thần giữa ý nghĩ và hành động. Nhà tù Los Boxes đã đánh vào mối liên hệ này và làm nó tan vỡ.
Giờ đây họ đang đi vòng vo quanh vấn đề, không người nào muốn phơi bày nó ra để trực tiếp đương đầu với vấn đề này. Sloan không muốn hứa hẹn ra miệng, không bao giờ hắn làm thế. Trong quá khứ, hắn luôn luôn giữ những lời nhơ nhuốc không để lộ ra.
- Tôi muốn anh phát hiện xem anh ta còn sống không, và nếu còn tại sao anh ta không xuất hiện. - Sloan nói chậm và rành mạch. - Và nếu anh ta đã dính líu vào một việc gì... ghê tởm... - Sloan để cho câu nói chìm đi.
- Ghê tởm ư? Ghê tởm ư? Thế chúng ta không đạt được một cái gì đẹp đẽ ở đây sao? - Hatcher ngắt lời.
- Chúng ta không bao giờ nói về loại việc như thế này trước đây. - Sloan nói và cặp mắt hắn dim lại. Cái cảm giác ngứa ngáy trong lòng Sloan trở nên chua chát. Hắn tự hỏi, cái gì đã xảy ra cho Hatcher?
Hatcher nói:
- Tại sao anh không phơi bày tất cả sự việc ra cho tôi biết?
Sloan vẫn không hứa hẹn gì. Hắn nhìn chằm chằm vào khoảng không rít từng hơi ngắn điếu xì gà.
- Anh nói với tôi là anh muốn tìm ra Cody, - Hatcher nói với giọng thực sự ngạc nhiên. Anh càu nhàu tiếp. -Tôi nói với anh rằng anh có nhiều cách lựa chọn như anh đã thường làm, nhưng tôi không muốn sự lựa chọn này. Tôi không đến đây đế giết bất cứ người nào. Tôi đến để tìm coi Murph Cody đã chết hay còn sống, chấm hết. Bây giờ anh lại quăng cho tôi nhiều nhiệm vụ mới.
- Không có nhiệm vụ nào cả.
- Tôi sẽ không thực hiện loại quyết định này - Hatcher nói nhỏ nhẹ.
- Vậy hãy bảo tôi, - Sloan nói một cách dứt khoát. -Tôi sẽ làm việc đó cho anh.
- Anh ấy là một anh hùng, Harry ạ.
- Được, thế kết luận của anh là quỉ quái gì? - Sloan nài nỉ. - Chính anh đã tự đánh giá Cody một phút trước đay mà. Hắn ta đã biệt tích mười lăm năm nay. Rồi có vẻ như hắn xuất hiện, sống ở Bangkok và không muốn cho ai biết đến, bây giờ thì Windy Porter chết và tên Wol Pot cao chạy xa bay. Giả dụ rằng hai gã Tàu đã khử Porter bây giờ đang đuổi theo dấu Won Pot. Giả dụ hắn và Cody liên kết với nhau làm một việc gì đó.
- Giả dụ, giả dụ, giả dụ. - Hatcher nói một cách giận dữ. - Quỉ tha ma bắt đi, thậm chí chúng ta còn chưa tin chắc rằng Cody còn sống. Wol Pot có thể đang lừa tất cả chúng ta một cú đểu giả đây.
- Này, tôi xin chịu. Được rồi, - Sloan đồng ý rồi nói bình thản như không, - nếu đúng như vậy, thì anh cũng cho tiêu luôn cái thằng con hoang ấy đi.
- Đối với anh, điều đó dễ dàng đến thế ư, Harry? - Hatcher hỏi. - Cho tiêu Cody, cho tiêu luôn gã người Thái.
Sloan thở dài. Hai vai hắn trùng xuống và bỗng nhiên dường như già đi đến mười tuổi. Hắn nói một cách yếu ớt:
- Chúng ta đã thực hiện những cuộc chiến tranh trong bóng tối quá nhiều năm nên bây giờ không thay đổi được.
- Thế nếu Murph trong sạch thì sao?
- Vậy thì hãy sắp xếp cho hắn gặp Buffalo Bill. Nghe đây, - hắn thở dài. - Anh làm cái anh phải làm, tôi làm cái tôi phải làm. Anh bắt đầu đi tìm những lời đáp cho nhiều câu hỏi, anh sẽ đi đến cái chết thôi, Hatcher. Điều đó là cơ bản và anh biết đấy. Anh không có thời giờ cho việc đó đâu. Tất cả những gì chúng ta có là những tiếng lách cách và âm phản xạ dội lại. Bất cứ lúc nào anh đều có hai cách chọn lựa: làm hoặc không làm. Nếu anh không biết lựa chọn để làm, nếu anh không quyết định, họ sẽ bắt buộc anh. Xưa nay, tôi có nói với anh điều gì khác thế không? Đã có câu hỏi nào trong đầu anh về việc đó không?
- Trước đây thì không. - Hatcher nói và không nhìn Sloan.
- Vậy có lẽ tôi đã chọn người không đúng.
- Có lẽ thế.
- Anh muốn rút lui?
Hatcher suy nghĩ về điều đó. Anh bối rối bởi những cảm xúc về Murph Cody. Một người nghĩ rằng anh ta là kẻ anh hùng, một người khác lại cho rằng anh ta là một thằng điên. Giờ đây nhiệm vụ lại có thêm những phức tạp mới. Không chỉ còn là vấn đề anh ta còn sống hay không mà là có nên để anh ta sống hay không. Hatcher biết rằng nếu anh gật đầu rút lui, Sloan sẽ đưa một người khác vào, một người làm việc không suy nghĩ, một tay giết người chỉ vì tiền. Hatcher tự nghĩ: “thế mi là gì, Hatcher, một tay giết người không vì tiền ư?”
Trong ý nghĩ của Hatcher, Sloan là kẻ đứng ra kêu gọi phán xét. Anh ghét việc ấy biết bao, nhưng Sloan lại đã làm việc ấy. Hắn đặt Hatcher ở giữa hai con đường. Đối với Hatcher thì chỉ có một cách độc nhất. Anh gật đầu chậm chạp nói:
- Tôi vẫn còn tham gia. Nếu anh ấy còn sống, tôi sẽ tìm ra anh ấy.
- Kế đó thì sao?
- Kế đó tôi sẽ làm như không biết đến việc đó.
Sloan nhìn đăm đăm Hatcher ngang qua bàn một lát, rồi nói:
- Khá tốt. - Hắn đẩy một cái bao bằng sợi chuồi qua bàn cho Hatcher.
- Cái gì đây? - Hatcher hỏi.
- Đó là mọi cái mà sứ quán có được về Windy Porter, nó giá trị đấy. Quyển nhật kí của hắn có ghi vài địa điểm có thể giúp anh.
- Về những báo cáo của cảnh sát thì sao?
Sloan lại cười khúc khích dường như hắn đang thích thú nhét các tin tức xấu cho Hatcher. Hắn uống hết cà phê và lau miệng bằng cái khăn ăn.
- Nào, lại một tin xấu nữa. Chúng ta gặp chút ít khó khăn với các tên cớm địa phương.
- Khó khăn gì?
- Chúng chơi hết sức để được việc. Chúng đã điểm cứng huyệt một cậu bé chạy việc cho tòa đại sứ có lỗ mũi dài, bảo cậu ta rằng chúng đang giữ mọi hồ sơ về Windy và sẽ không nói về chuyện ấy chừng nào chưa hoàn thành cuộc điều tra.
- Chắc chúng cũng không có nhiều tin về chuyện này đâu.
- Anh sẽ liên hệ với một thiếu tá tên Ngy. Tôi sẽ lo sắp xếp để đưa xác Windy về Mỹ. Nếu anh cần tôi, hãy gọi điện thoại cho Flitcraft, hắn luôn luôn có thể liên lạc được với tôi.
- Tên Ngy này có làm mất thời giờ của tôi không? - Hatcher hỏi.
Sloan đáp:
- Không phải ngẫu nhiên mà họ gọi hắn là Mongoose [1] đâu.
Chú thích:
[1] Một loại động vật nhỏ ở Bắc Mỹ rất thông minh trong cách tiêu diệt rắn độc.