44. MONGOOSE
Khi Hatcher ra khỏi khách sạn Phương Đông, anh đã quan sát các xe taxi và xe hòm đậu trước khách sạn. Thói quen của anh là mướn ngay một chiếc xe ô tô con trong một tuần lễ để luôn luôn có xe dùng với giá rẻ. Anh cũng tìm một tay lái xe ranh ma chuyện đường phố, một tay láu lỉnh biết những chỗ tìm ra được những câu trả lời.
Những chiếc xe hòm Mercedes và Rolls-Royce xếp hàng dài trước tiên, tiếp theo là những kiểu xe thường hơn, Ply-mouths và Toyota. Những người lái xe đều mỉm cười mở sẵn cửa xe và ra ý mời anh lên xe. Tất cả bọn ho đều rất sạch sẽ, rất văn minh và đều mặc đồng phục. Anh nhìn qua hàng xe hòm và taxi đến một người Thái nhỏ con, gầy và dẻo dai đang đứng cạnh chiếc xe tuk-tuk ba bánh ở gần cuối dãy xe này. Người Thái nhỏ bé này hình như đang tập luyện. Anh ta thình lình lùi lại vung tay đấm lia lịa, đấu với một đối thủ tưởng tượng, kế chạy vài bước về phía trước đá mạnh một cú cao đến ngang vai và quay lại chạy về chỗ cũ. Anh ta nhìn Hatcher đang xem mình, mỉm cười.
Người bé nhỏ này chạy qua những chiếc xe đắt tiền đến gần Hatcher cúi đầu chào. Anh ta mặc quần jeans cắt ngắn và một chiếc áo thun trắng với hàng chữ xanh sẫm in ở ngực ‘Harvard Drinking Team’ (Đội nhậu Harvard). Anh ta nói:
- Sawai-dii. - Đó là một lời chào chung chung tiếng Thái, có nghĩa là “Xin chào hoặc tạm biệt” và cúi chào Hatcher lần nữa.
- Sawat-dii khrap, - Hatcher đáp. - Phom maa jaak Muang Saharat.
Người lái xe cao chừng 1,4m, khoảng 25 tuổi, mũi tẹt, mặt rộng. Lai giữa Thái và Tàu, Hatcher nghĩ. Giống như nhiều người đàn ông Thái, anh ta xâm hình ở vai. Hatcher nhận ra hình xâm là Kinnari, một nữ thần nửa người nửa chim, dấu hiệu của may mắn. Chàng lái xe kiêu hãnh nói:
- Tôi biết ông là người Mỹ, tôi nói được tiếng Anh.
- Sabai-dii. Tên anh là gì?
- Tsi Tei Nyk. Mọi người gọi tôi là Sy. - Anh ta phô ra hàm răng hư mọc không đều. - Tên ông là gì?
- Hatcher.
Sy chỉ vào mình rồi vào Hatcher nói:
- Sy, Hatcher.
- Anh nói đúng đấy.
- Tốt lắm.
- Phải, tốt lắm - Hatcher đồng ý. - Anh tập luyện nhiều lắm phải không?
Sy đấm nhứ vài cú để bày tỏ ý mình.
- Tôi là võ sĩ quyền Anh. - Sy hãnh diện nói và ưỡn ngực phô bày thái quá niềm kiêu hãnh của mình. - Tôi lái xe tuk-tuk cho đến khi đủ tiền là tôi bỏ. - Anh ta nhảy về phía sau, vung tay đấm mạnh một hồi, đá một cú mạnh rồi nhảy tại chỗ. - Tôi luyện tập mỗi sớm tinh mơ hai tiếng đồng hồ. Còn mỗi buổi chiều tôi tập luyện chiến thuật ba mươi phút.
- Anh có muốn làm việc với tôi khoảng một tuần lễ không?
- Một tuần? Làm gì?
- Phiên dịch cho tôi.
- Mọi người ở đây đều nói được tiếng Anh. Và ông lại nói được tiếng Thái mà. - Sy nói.
Hatcher gật đầu:
- Ừ, nhưng không phải chỉ nói Sabai-dii. Cậu dẫn tôi đi dạo, kể cho tôi nghe về người Thái, giúp tôi làm một số việc, không có gì khó khăn cả.
- A, không có gì khó khăn, - Sy nói và lập tức anh ta hiểu ngay anh ta được mướn để làm gì. - Mai pen rai.
- Đúng, mai pen rai, - Hatcher đồng ý, - vậy bao nhiêu?
- Mỗi ngày hay suốt cả thời gian?
- Tôi ngủ trễ. - Hatcher nói với một nụ cười.
Sy cười khúc khích và chậm rãi gật đầu:
- Tôi hiểu rồi, ngủ trễ, dậy muộn.
- Chỉ từng ấy thôi.
Sy hai tay chắp sau lưng, bước qua lại trước mặt Hatcher, trán nhăn lại:
- Tối mai tôi có một cuộc đấu, do đó tôi sẽ không làm việc cho ông lúc ấy được.
- Đồng ý.
- Tôi phải luyện các chiến thuật của tôi mỗi buổi trưa.
- Tôi hiểu. - Hatcher nói, - cậu đấu ở đâu?
- Mọi nơi. Ngày mai tại công viên Hoàng gia gần chùa Phat. - Anh ta nói một cách hãnh diện. - Nếu tôi đấu giỏi, một ngày nào đó tôi sẽ là một đội viên đội ngự lâm quân.
- Đó là điều cậu mong muốn hả, trở thành vệ sĩ của nhà vua?
- Vâng, đã mười hai năm nay hàng ngày tôi đều cầu xin Đức Phật cho tôi cái ân huệ đó. Tôi đeo bùa hai-huang và xâm mình để được dẫn dắt đến công việc đó.
Anh ta thọc tay vào trong áo sơ mi, rút ra một món đồ trang sức bằng đồng hình tròn đeo ở cuối sợi dây chuyền bạc, ở giữa có khắc hình phật ngồi. Người Thái rất tin vào thứ bùa mà họ gọi là hai-huang có nghĩa là “bỏ gánh lo đi” và nhiều người có những bùa cho từng việc. Có những sạp và cửa hàng chuyên làm bùa ở cạnh tất cả bốn trăm ngôi chùa ở Bangkok.
- Thật là một cái bùa hai-huang đẹp. - Hatcher nói. - Được, tôi chắc chúng ta có thể dành ra ba mươi phút mỗi ngày cho cậu luyện tập. Có thể tôi còn đi với cậu đến những nơi cậu đấu.
- Tôi sẽ kiếm được vé cho ông. - Người lái xe phấn khởi nói, dùng chân đá mạnh hai cái sang bên.
- Được, vậy bao nhiêu? - Hatcher hỏi lại một lần nữa. Sy dừng lại, chìa tay ra, các ngón tay xòe ra.
- ‘Fi’ dollar, dollar Mỹ ấy.
- Một giờ? - Hatcher hỏi.
- Cả ngày.
- Năm dollar một ngày? - Hatcher ngạc nhiên hỏi.
- Và nuôi ăn nữa.
- Được. Năm dollar một ngày và nuôi ăn luôn.
- Chai, - người Thái nhỏ bé nói.
- Anh xứng đáng được hơn thế.
- Hơn thế?
- Hai mươi dollar một ngày.
- Một ngày! - Sy nói, mắt mở rộng gấp đôi lúc thường. Hatcher gật đầu:
- Tôi là người giàu có.
Anh chàng Sy vui sướng nói:
- Tôi sẽ đi mướn một chiếc xe hơi.
- Anh biết lái xe không?
- Tất nhiên lái được.
- Được, tôi sẽ kiếm một chiếc, - Hatcher nói.
- Mua à?
- Tôi sẽ mướn xe thôi.
- Một chiếc jeep? - Sy nói đầy phấn khởi.
- Không, một chiếc nào tốt hơn cơ.
- Xe jeep chạy tốt.
“Khó hiểu quá đối với anh chàng ngốc này - Hatcher thì thầm - và rắc rối nữa”.
- Xe Merkedes? - Sy nói, xuống giọng một cách khó khăn ở âm c.
- Con xe Chevy thì sao?
- Chevy? À Chevrolet?
- Chai. - Hatcher đáp.
- Được. - Sy nhún vai trả lời.
- Tốt. Đây là việc chúng ta làm. Chúng ta sẽ đi đến đồn cảnh sát. Rồi chúng ta trở về khách sạn của tôi mướn một chiếc xe sau đó tôi sẽ nghiên cứu vài báo cáo khoảng một, hai tiếng đồng hồ. Trong lúc đó anh có thể luyện tập ở một công viên nhỏ gần ngay khách sạn. Kế đó anh và tôi chúng ta sẽ đi xem Bangkok.
Thiếu tá Tan Ngy đứng sau bàn viết, tay chắp sau lưng vẻ mặt như đeo mặt nạ, đang nhìn đăm đăm vào quyển sổ biên bản đặt trước mặt. Ông đang bực tức, bực tức vì thủ trưởng đã ra lệnh cho ông phải hợp tác với những người Mỹ, bực tức vì người Mỹ thậm chí đã yêu cầu can thiệp cả vào công việc của cảnh sát Bangkok. Và chắc đó là lí do người Mỹ này đến.
Tại sao người Mỹ luôn luôn cảm thấy rằng họ có thể can thiệp và tiếp quản công việc? Dù không có gì là quan trọng cả, hễ cứ nơi nào trên thế giới mà họ có mặt là họ đều trông mong có báo cáo, báo cáo đáng tin cậy, đem đến tận tay họ, giống như trường hợp này. Cái chết của tên sĩ quan tình báo Mỹ Porter là việc của cảnh sát địa phương, một vụ giết người trên đường phố Bangkok. Đó không phải là việc của quân đội Mỹ, của tình báo quân đội hay của tên Hatcher này. Đó là việc của ông. Ngy là trưởng ban hình sự của sở cảnh sát Bangkok, nói chung ông không có điều kiện gì chống đối người Mỹ nhưng ông không thích họ can thiệp vào công việc của ông.
Ngy là một sĩ quan cảnh sát xuất sắc, cứng rắn, có sức bật, cương quyết và trung thực, tất cả những đức tính ấy đã đem lại cho ông cái biệt hiệu là cầy Mongoose. Mongoose không cần những người Mỹ chõ mõm vào, ám chỉ rằng việc điều tra của ông là tồi tệ và chưa đầy đủ.
Cái tệ nhất của việc này là ông ta chẳng có gì để báo cáo cả. Cuộc điều tra của ông bị tắc. Các dấu vết đã mờ đi nhiều và Ngy biết rằng cứ mỗi giờ trôi qua thì những tên giết người lại chạy xa hơn khỏi tầm tay. Giờ đây tên Mỹ này tới giúp giải quyết vấn đề, như vậy đó. Ông đã quan hệ với người Mỹ trước đây. Kiêu ngạo, tự phụ, tự cao, tự đại, trịnh thượng, vậy mà ông sẽ phải gần như khúm núm với họ. Trí nhớ của ông trưởng ban hoàn toàn rõ ràng về việc đó. Người ta nói nên thân thiện, không phải chỉ nhã nhặn mà còn thân thiện!
Hôm nay sẽ không phải là một ngày dễ chịu đâu.
Ông nhìn đồng hồ đeo tay. Còn mười lăm phút nữa tên Mỹ này sẽ đến. Ồ, ông phải sẵn sàng chứ. Lạy Chúa, những người này sẽ không bao giờ trễ sao? Ông sẽ chào hỏi như thường lệ. Ông sẽ đối xử ra vẻ kẻ cả. Ông sẽ luôn luôn mỉm cười. Rồi ông tỏ ý đã giúp đỡ cảnh sát địa phương. Luôn luôn giúp đỡ.
Hai phút trước giờ hẹn, người trợ lí của Ngy gõ cửa và cung kính báo tin Hatcher đến. Ngy bước đến rất gần Trung sĩ cảnh sát rít lên:
- Nó là một sĩ quan Mỹ, chứ không phải là Tổng thống Mỹ.
- V..â â...n...g, thưa ông. - Người Trung sĩ lắp bắp nói, ngạc nhiên về cơn giận mãnh liệt nhưng kiềm chế được của thiếu tá.
Ngy bước về bàn mình, nói:
- Đưa hắn vào.
Hatcher bước vào cuộc gặp gỡ với cùng những nỗi lo lắng như Ngy. Anh không muốn khuấy lên bất cứ việc gì. Anh muốn người Mỹ đứng ngoài cuộc, nhưng anh muốn có những bản sao báo cáo của cảnh sát và hướng hành động của ho. Anh không tin rằng có thể thực hiện được việc ấy mà không làm cho Ngy ngờ vực. Nhưng anh chắc rằng Ngy sẽ không nói đến Wol Pot, Cody, Thai Horse hay bất kì khía cạnh nào khác của trường hợp này. Hatcher ngạc nhiên thấy văn phòng sao to thế.
Dẫu sao đây cũng là văn phòng của cảnh sát hình sự chớ đâu phải của thủ tướng. Đó là một phòng cao, âm thanh dội lại ồm ồm, sàn lát gạch vuông không một vết dơ, đồ gỗ bóng loáng, sạch bong. Mấy tờ báo rung mình hờ hững trên bàn, lay động dưới cánh quạt trần. Những tiếng động của xe cộ, tiếng chuông reo và tiếng người đi lại lao xao sau những cánh cửa chớp đóng.
Ông thiếu tá thấp, và gọn gàng, bận đồ làm việc bằng vải kaki giản dị và trang nhã, áo sơ mi màu xanh nhạt với chiếc cà vạt màu vàng. Râu tóc ông được cắt tỉa rất cẩn thận, móng tay được chăm sóc, đôi bốt da trâu đánh xi bóng loáng. Ông ta đóng kịch, không vui chẳng buồn, không ngạc nhiên chẳng chán chường, không thân thiện cũng chẳng chống đối.
Hatcher thầm nghĩ: Thật đúng là một vụ giết người ngay trên bàn chơi bài. Hatcher biết rất rõ về ông ta. Ông ta đã làm việc rất tốt để được thăng cấp, đã học tại học viện huấn luyện tình báo Mỹ Cục Điều Tra Liên Bang (American FBI training academy), đã làm việc sáu tháng với cảnh sát ở thành phố New York, có lần đã tham gia theo dõi hoạt động buôn ma túy từ Tam Giác Vàng vào Malaysia, toán theo dõi phần lớn là những nhân viên chống ma túy của Mỹ. Kỉ lục ngăn chặn tội phạm của ông làm cho hầu hết các vị chỉ huy cấp vụ, sở phải ghen tức.
Ngy là con người chính xác đến khó mà nói được. Mọi điều về ông ta đều chính xác. Cái cách ông ta ăn mặc. Phòng làm việc của ông. Bàn làm việc của ông! Mọi thứ ở trên ấy được sắp xếp theo những kiểu mẫu hình học hoàn hảo, thứ tự, bút, giấy thấm, điện thoại tất cả đều đặt trong những hình vuông nhỏ vừa vặn. Chính xác, chính xác và chính xác. Một người có cái tôi to lớn, một người dễ bị chạm tự ái. Hatcher sẽ phải rất cẩn thận trong việc đối xử với tay cớm này, người mà những thuộc hạ đằng sau lưng đều gọi ông là cầy Mongoose.
- Thưa thiếu tá, - Hatcher nói với giọng hết sức chân thành. - Tôi là Hatcher. Không thể thưa với ông là tôi quí trọng thời gian của ông biết bao.
Nụ cười của Ngy cố gắng để không tỏ ra giễu cợt. Ông sốt sắng nói:
- Rất hân hạnh, thưa đại tá. Tôi bối rối thấy một điều như thế lại có thể xảy ra ở nơi đây. Tôi hi vọng rằng Bangkok văn minh hơn.
Hatcher nghĩ thầm: A ha, ông ta gặp khó khăn trong việc này rồi. Anh nói:
- Về những điều đã xảy ra, ông có nghĩ rằng trộm cướp là một lí do không?
A ha, cá đang cắn câu, - Ngy thầm nghĩ, - gã này ma lanh đây. Nào, chẳng hại gì nếu cho gã biết một ít tin tức. Ngy đáp:
- Không, không có gì bị cướp bóc cả. Hình như hắn ta đánh nhau và bị giết vì đuối sức. Có những nhân chứng đã nhìn thấy toàn bộ sự việc.
Hatcher nghĩ, đây là một cớm tinh ranh. Nếu có những nhân chứng, ông ta sẽ chọn những người trong sạch, không cần thiết cho mình phải quan tâm. Điều đó sẽ làm mình chệch hướng đi một chút. Hatcher quyết định đến phiên mình hở ra cho ông ta một chút để bù lại.
- Điều đó nghe ra có vẻ thích hợp với Windy, đó là đặc điểm của hắn, Windy dầu sao vẫn là loại người luôn luôn sẵn sàng giúp kẻ gặp khó khăn.
Ngy gật đầu, vẫn mỉm cười nói:
- Tôi hiểu - Người cảnh sát Thái nghĩ bụng, dường như gã này đang định dẫn mình vào ngõ cụt, một vụ giết người tình cờ. Bộ gã không biết rằng Ngy biết Porter là một sĩ quan tình báo chăng? Các sĩ quan tình báo chẳng thể bị giết một cách ngẫu nhiên.
- Thật mỉa mai, phải không! - Hatcher tiếp tục nói. - Một sĩ quan tình báo lại bị giết như thế. Hắn... đáng... tôi không biết, một cái chết kì lạ… nhiều hơn.
Ngy nghĩ thầm: hay thật, việc đó làm sáng tỏ công việc của Porter. Gã này nêu vấn đề rồi lại trả lời luôn. Cái trò gì ở đây thế này?
- Này, chúng ta không loại trừ những nhận xét khác. - Ngy nói. - Đó mới chỉ là những biểu hiện bên ngoài, hình như hắn ta là một người làm phúc bất hạnh.
Ngy suy nghĩ: có phải Porter đến đây vì hắn biết một điều gì đó mà chúng ta không biết? Có lẽ Porter làm một công tác tình báo đáng ngờ và Hatcher đến đây để xem chúng ta biết được bao nhiêu. Ngy quyết định thả câu sâu hơn, ông hỏi:
- Hắn ta... ờ... có dính dấp với điều gì có thể liên quan đến trường hợp này không?
Hatcher lắc đầu. “Tốt, - Hatcher nghĩ, - ông ta không biết một tí nào cả. Ông ta thật sự đang câu đây”.
- Không, thật sự công tác của Windy chỉ hạn chế trong việc giữ an ninh cho sứ quán. Hắn không phải là nhân viên làm công tác bên ngoài. Windy đã gần về hưu. Việc của hắn được xem là một loại công tác dễ để chuẩn bị về hưu.
Nghi nghĩ: ta có tin được gã này không? Nếu điều gã nói là đúng thì trường hợp của Porter có thể là một cuộc đọ sức tình cờ và đã đưa đến cái chết. Điều đó sẽ làm giảm việc bắt bớ, có phần dễ chịu hơn cho các thượng cấp của ông. Ngy nói:
- Vậy thì tin chắc là chúng ta đang làm mọi việc trong quyền hạn của chúng ta để tìm ra những kẻ sát nhân. Chúng ta có đầy đủ hình dạng của hai người bọn chúng và của cả người đàn ông ở trong một chiếc thuyền khác nữa.
- Thuyền khác?
Ngy nghĩ bụng: rõ ràng là gã này không để nhiều thì giờ vào việc này. Mặc dù báo chí đã đăng tin rằng có một người đàn ông ở trong một chiếc thuyền khác. Ta sẽ cho gã thêm một vài thông tin vô thưởng vô phạt để xem gã phản ứng thế nào.
- Cái người mà dường như chúng định giết đã nhảy xuống sông khi mọi việc bắt đầu. Rất có thể đó là một loại đánh nhau do thù hận giữa những tay anh chị trên đường phố và thiếu tá Porter của ông đã tình cờ gặp. Cùng có một gái điếm dính dáng vào vụ này nhưng không có chứng cứ nào tỏ ra là viên thiếu tá này quen biết cô ta. Tôi bảo đảm với ông rằng chúng tôi không hề nghi ngờ họ có một quan hệ nào với nhau cả.
- Cám ơn Chúa về điều đó. Riêng việc này cùng đã đủ làm khổ vợ hắn rồi.
Ngy nghĩ rằng có lẽ mảnh giấy Ngy chép tay còn giữ được có thể giúp ích cho gã này. Ông với cặp bìa cứng và rút ra một tờ giấy xé ở sổ tay ra cỡ 13 x 18cm có ba vòng tròn đã mờ nhạt. Tờ giấy đã nhàu và phai màu, nét mực xanh hoen ố.
- Chúng tôi đã tìm thấy cái này, - Ngy đưa cho Hatcher tờ giấy - nhưng ngay cả những chuyên viên xem chữ viết của chúng tôi cũng không thể đọc được mật mã viết trên giấy.
Hatcher nhìn kĩ mảnh giấy, lật xem phía sau. Đó là một trang nhật kí của Porter vào ngày hắn ta chết. Hatcher đặt tờ giấy lên bàn Ngy, không muốn để lộ vẻ háo hức.
- Có lẽ đó là bản danh sách mua thực phẩm của hắn. - Hatcher nói và cười khúc khích.
- Có lẽ thế. - Nghi nói với một nụ cười gượng.
Hatcher nói:
- Có lẽ tôi sẽ đưa cái này cho một vài người bạn của hắn xem. Có thể tôi sẽ phát hiện ra điều gì giúp ích cho ông chăng.
Ngy lập tức lại nghi ngờ nữa. Nhưng ông ta thấy sự lo sợ của mình là không có cơ sở. Hatcher có vẻ không quan tâm đến trường hợp này mà chỉ cốt để báo cáo chính thức là gã đã xem xét vấn đề. Như vậy cho đến nay gã không có ý định gì can thiệp. Ngy quyết định nhượng bộ đôi điều cho vui vẻ cả. Ông mỉm cười nói:
- Tôi thấy không có vấn đề gì ở đây cả.
“Được, - Hatcher thầm nghĩ, - đã đến lúc chọc thủng trận tuyến đấy”. Anh nói:
- Tốt, vâng, tôi biết ông đang bận. Thực tế tôi đến đây chỉ cốt để thấy các di vật được đưa trở về an toàn. Để gia đình biết được cảnh sát vẫn đang theo dõi việc ấy. Ông biết việc ấy là thế nào, họ ở phía bên kia của địa cầu mà...
Ngy gật đầu một cách mạnh mẽ. Tại sao lại không để cho gã này được thoải mái - ông thầm nghĩ - rồi tống cổ gã đi cho rồi. Ngy nói:
- Có lẽ ông nên mang một bản sao biên bản điều tra về cho gia đình. Hãy cho họ biết rằng chúng tôi đang làm tất cả mọi điều có thể.
Hatcher khó có thể kiềm chế được nỗi vui mừng của mình. Vấn đề, mưu đồ, trận đấu, kết quả. Anh nói:
- Ý kiến ngài rất hay, thưa thiếu tá. Tôi tin rằng điều đó có ích lắm.
Không hại gì, Ngy nghĩ thầm sau khi Hatcher đi khỏi, dường như những người Mỹ đã tin tưởng vào cách giải quyết trường hợp này của Ngy.
Sy và Hatcher trở về khách sạn, ở đây Hatcher đã mướn một chiếc xe Chevrolet mui kín hai cửa màu xanh đậm. Kế đó anh lên phòng, kêu một chai rượu Jack Daniel và một bình trà Thái. Anh cho máy điều hòa không khí chạy, vặn quạt trần, cởi áo sơ mi, rót một tách trà và pha thêm rượu whiskey vào, rồi ngồi xuống ghế mây dài đem tất cả các hồ sơ bày ra trên bàn cà phê.
Biên bản này ngắn, đơn giản chỉ cho anh biết rất ít. Những nhân chứng khai rằng một người đàn ông đã hẹn hò với một ả gái điếm tên là Sukhaii, hoạt động trên dòng sông Phadung Klong gần chợ Đường Mới. Họ đang ở trong khoang thuyền của ả thì một chiếc thuyền hang-yao tiến đến gần, hai người đàn ông chui ra và bắt đầu leo lên sàn chiếc thuyền kế với thuyền của Sukhaii. Người Mỹ tên là Porter hình như đến giúp cô gái điếm và đã bị một trong hai người đàn ông này đâm. Hắn ngã lăn xuống sông và thi thể hắn đã được nhiều người đi thuyền vớt lên nhanh chóng. Người đàn ông đi với Sukhaii nhảy tùm xuống sông trốn thoát khỏi nơi xảy ra đánh nhau này. Những kẻ giết người dùng chiếc hang-yao chạy trốn, sau này người ta đã tìm ra chủ nhân chiếc hang-yao, người này cũng đã bị đâm chết. Cuộc mổ xác khám nghiệm cho thấy có hai vết đâm, một ở phía dưới ngực phải, còn vết kia đâm đúng vào cổ bằng một con dao lưỡi mỏng xuyên sâu đến mười tám centimet và thấu tới tim.
Có thể là một sự trùng hợp, - Hatcher suy nghĩ, - những kẻ sát nhân đã đâm một nhát đâm chết người, mà đó là kiểu đâm của những người Chiu Chao.
Những sĩ quan lập biên bản cho rằng hai kẻ xâm nhập định ăn cướp của ả gái điếm và người khách mua tình, rồi Porter tình cờ đã can thiệp vào, những điều mô tả không được rõ ràng. Một trong hai kẻ sát nhân là người Tàu có vết sẹo dài trên mặt và chột mắt.
Cảnh sát không tìm ra chỗ ở của người mua tình đã nhảy xuống sông và bơi thoát. Sukhaii đã mô tả cho họ của cách chung chung về người khách mua tình này: cao khoảng 1,7 mét, nặng chừng 70 kí, mắt sâu, tóc đen, mặt dài. Không biết tên. Theo biên bản thì những kẻ sát nhân không nói gì với ả gái điếm cả.
Đó có phải là Wol Pot không? Nếu phải, thì tại sao Porter lại đánh lộn với hai người đàn ông rõ ràng là đang theo đuổi tay này. Có lẽ chỉ là vì tác phong hào hoa phong nhã. Có thể còn hơn thế, Porter biết rằng nếu họ mất Wol Pot họ cũng sẽ mất dấu Cody. Vì thế Porter cố gắng cứu thoát Wol Pot.
Hatcher mải mê nghiên cứu từng mảnh giấy nhỏ viết bất kì điều gì có ý nghĩa. Có rất nhiều địa điểm được nói đến trong nhật kí hình như Porter chỉ thực hiện việc theo dõi thôi chứ không điều tra gì hết về Wol Pot hoặc bất kì cái tên họ quỷ quái nào mà Wol Pot lấy.
Hatcher ghi thêm vào bản danh sách của mình tất cả những nơi đã được nói đến nhiều lần trong tập nhật kí, kể cả American Deli. Porter đã đến đó ba lần, một lần có ghi chú: “Ăn trưa trong lúc quan sát sự vật trên đường phố”. Porter cũng đã tham dự nhiều trận thi đấu thể thao, gồm có đua ngựa và đấu quyền Anh.
Hatcher cũng ghi thêm vào bản danh sách này: Tombstone và Longhorn, hai vị trí mà người lính Mỹ giải ngũ đã kể lại cho Daphne ở trận đánh bọn Ts’e K’am Men Ti. Làm xong, Hatcher đã có một danh sách từ mười lăm đến hai mươi địa điểm. Anh sẽ bắt đầu kiểm tra lại chúng một cách cẩn thận hơn, cố gắng lập ra một tiểu sử sơ lược của Wol Pot trong đầu mình.
Ngay khi Hatcher đi khỏi, Sloan rời khách sạn lấy chiếc xe hòm có điều hoà không khí đi đến sứ quán. Hắn kí những giấy tờ cần thiết và sắp đặt mọi việc để đưa thi hài của thiếu tá Porter về San Francisco trên chuyến tàu quân sự ngày mai. Tất cả công việc về Porter mất khoảng hai giờ. Hắn ăn trưa với Harvey Kendall, một nhà ngoại giao quen thuộc với những hoạt động của Bộ Ngoại Giao và Cục An Ninh quốc gia trong vùng này, và nói chuyện ngắn gọn với Kendall trong một giờ.
Sau đó hắn đi xe tuk-tuk đến Yawaraj. Xe đi vào Phố Tàu như đi vào đầu rộng của một cái phễu. Họ đi xuống một đường phố ngoằn ngoèo, qua một con đường nữa rồi mới đến một ngõ hẻm nghẹt thở với những cửa hàng xếp thành dãy rồi lại qua một ngõ hẻm nữa, vắng như chùa Bà Đanh và từ đây đi đến một ngõ cụt ăn ra sông.
Ông lão đưa Sloan qua cánh cửa trông tẻ ngắt, vừa già nua vừa yếu đau, giống như người mới thức gác cổng đêm trước. Mắt ông già đỏ như than hồng, mắt hóp và nhăn nheo như quả mận héo, gầy giơ xương.
Những vì kèo, xà gồ mạng nhện giăng đầy. Ngôi nhà cổ rên rỉ cót két vì tuổi tác. Ở bên dưới, Sloan có thể nhìn thấy cái bàn viết và đằng sau nó là những phòng nhỏ tiếp nối nhau. Loáng thoáng, Sloan có thể nghe thấy đôi tiếng ho nhỏ và ở cuối góc phòng một giọng nam cao mơ màng đang hát một bài ru con Irish êm ái. Ông già dẫn Sloan xuống một thang gỗ ọp ẹp để vào một động thuốc phiện, vào một đám khói đang cuồn cuộn bốc lên từng luồng xoáy tròn dưới cái quạt trần lớn treo ở đầu cái cần dài thanh mảnh mờ đi trong bóng tối. Mùi thuốc phiện thơm ngọt như cỏ mới cắt bốc lên thang làm miệng Hatcher khô đi vì thèm thuốc.
Sloan trả tiền cho hộp thuốc của mình rồi đi theo ông già có bộ mặt nhăn nheo đến một buồng nhỏ có hai chiếc giường hẹp. Sloan nằm xuống. Trong phòng nóng bức, hắn cởi cà vạt ra, phanh áo sơ mi đến tận thắt lưng. Hắn chóng mặt vì khói thuốc phiện buông xuống như sương mù buổi sáng trên sàn của gian phòng rộng lớn. Mắt hắn sáng rực lên vì hào hứng khi thấy ông già vê một viên thuốc phiện to có màu nâu đen giữa những ngón tay, nhồi vào nõ tẩu và đốt lên.
Trong lúc chờ đợi, Sloan thoáng nghĩ đến Hatcher, đến việc Hatcher bỏ đội. Thằng chết tiệt Hatcher, đồ chết tiệt, Sloan tự nghĩ. Mi không thể gạt bỏ tất cả những tay cự phách mà chúng ta có trong đội. Chúa ơi, hãy nhìn xem cái gì đã xảy ra cho chúng. Conlan chết ở Libya. Greenbaum bị chết thiêu trong cuộc chọi nhau ở Chile. Dick Mazetti kinh doanh về bảo hiểm ở Florida và uống quá nhiều rượu đến nỗi chết trong một chiếc ghế có bánh xe. Jack Burbank bị những kẻ khủng bố làm mù mắt trong vụ nổ tòa đại sứ ở Lebanon. Molly McGuire chân thọt, phần cuối đời đang làm ở Immigration Service (Sở Nhập Cư). Vì Chúa, đã bao nhiêu lần hắn cứu thằng ngốc Hatcher? Và cả thằng ngốc mình nữa? Tất cả bọn họ đều ẩn mình, Hatcher cũng thế. Có người nào trong họ kém anh hùng bởi vì họ không mặc đồng phục không? Ai có thể nói rằng họ không phải là những anh hùng?
Ông già kéo một hơi thuốc dài và đưa chiếc tẩu cho Sloan. Hắn rít một hơi sâu, cảm thấy khói thuốc nóng đốt cháy cổ họng và tràn đầy hai lá phổi. Hắn quên ngay Hatcher và đội. Hắn không còn nghĩ đến quá khứ và hầu như ngay tức khắc thấy phởn phơ, tâm trí hắn lao vào một thời gian và không gian khác; những nỗi lo âu phiền não biến mất. Hắn nhắm mắt lại và thấy những cánh đồng xanh lướt theo chiều gió. Hắn không nghe thấy tiếng người bước vào căn phòng nhỏ, cũng không nghe tiếng kêu cót két của cái giường bên cạnh.
- Ông có gặp Hatcher không? - Tiếng một người hỏi.
Sloan đáp và mắt vẫn nhắm tít.
- Có.
- Thế sao?
- Hắn đã tiến đến gần đích hơn. Tôi đã nói với ông là hắn có thể tìm ra thằng kia. Chỉ còn là vấn đề thời gian thôi.
- Hắn đã tìm ra Wol Pot chưa?
- Chưa.
- Hắn có biết Wol Pot thực sự là ai không?
- Hắn không nói.
- Còn Thai Horse?
Sloan đã mệt vì nói chuyện, mệt vì phải suy nghĩ về những câu hỏi và lựa câu trả lời. Hắn đã buồn ngủ nhíp cả mắt và lúc hắn bắt đầu ngủ hắn nói trong mơ.
- Không nói đến Thai Horse. Không nói đến Wol Pot. Không nói đến vòng đeo, đồ chơi hay chuỗi hột hay ánh trăng hay hoa hồng. Những con sơn ca ở quảng trường Berkeley. Những con bồ câu trên các bức tường và những dải ru băng vàng lấp lánh. Không nói đến bất cứ điều gì. Này, Hatcher đã tìm ra Cody. Tôi có thể nói là hắn nắm được tất cả mọi việc. Tôi biết hắn như biết chính tôi vậy. Hắn là người giỏi nhất ta có.