← Quay lại trang sách

48. NHỮNG KẺ CỘC CẰN

Trước hết, cái bóp của Wol Pot dường như cho biết rất ít chi tiết. Ngoài tấm hộ chiếu ra còn có một bằng lái xe với một địa chỉ trên đường Rajwang ở khu phố Tàu, hai vé cá ngựa, chắc chắn là vé thua, và một vé xem trận đấu quyền Anh đã qua. Theo giấy tờ của Wol Pot thì hắn là một nhà buôn.

Không có gì khác đáng chú ý trong cái bóp cả.

Trong bữa ăn sáng, Hatcher trải hai tấm ảnh ra trước mặt Sy, một của Wol Pot, một của Pai và Cody. Hatcher gõ ngón tay lên tấm ảnh của Wol Pot, tâm sự:

- Tôi cũng đang tìm cái gã này.

Sy xem xét kĩ những bức ảnh một lát.

- Tôi nghĩ về cô gái này từ hôm qua, - cậu ta nói, - cô ta đẹp nhất. Có lẽ tôi đã gặp cô ta nhưng... tôi cho rằng mình đã nghĩ về tất cả những người đàn bà đẹp.

- Cậu còn nhớ gặp ở đâu không? - Hatcher hỏi.

Sy lắc đầu, tay chỉ lên bức ảnh của Cody, hỏi:

- Ông này đi với cô ấy hả?

- Có thể đúng, có thể không. Tôi không biết. Anh lính Mỹ này là người tôi đang tìm.

- Được, - Sy nói, - chúng ta đi nơi nào trước?

Hatcher lấy ra bản liệt kê các địa điếm trong sổ nhật kí của Porter. Không may là nhật kí của Porter chỉ chứa những lời ghi về địa danh và thời gian nhưng không có địa chỉ cụ thể và không có chú thích. Anh có địa chỉ ghi trong hộ chiếu của Wol Pot, một địa chủ ở Yawaraj. Anh lấy ra mảnh giấy mà tên Cầy Mongoose đã cho anh, cái trang giấy nhòe nước lấy từ quyển nhật kí của Porter đề ngày cuối cùng của đời Porter và trải nó ra trên bàn. Đó là tất cả những việc mà anh phải làm, còn một tờ giấy ghi tên quán rượu gọi là Longhorn ở một nơi được gọi là Tombstone và một mảnh giấy khác ghi “Thai Horse?”. Anh cẩn thận vuốt lại tờ giấy bạc nhòe nước trên bàn và đọc nó kĩ càng một lần nữa, nhưng điều duy nhất có thể đọc được chỉ là phần bắt đầu:...cố gắng, 4 giờ 15 phút trưa...

Sy nói:

- Địa chỉ trong hộ chiếu là khu phố Tàu. Đường Rajwang. Có lẽ chúng ta bắt đầu từ nơi đó?

- Ý kiến hay đấy! - Hatcher nói.

Nhưng thực tế không phải thế. Địa chỉ đó là địa chỉ giả, một nơi không có số nhà dọc theo con sông ở rìa khu phố Tàu. Cái nhà có số gần nhất với nó là một cao ốc xưa trong tình trạng hư nát báo trước một điều xấu. Những vách gỗ đã bạc phếch và tróc từng mảng vì mưa nắng, những cửa sổ được đóng bít ván lại, và dường như võng xuống ở giữa vì chịu đựng những tầng gác đã mệt mỏi đè xuống. Một di tích cố bỏ hoang bị ép giữa hai di tích cổ khác cũng bỏ hoang, Hatcher thử coi các cánh cửa của ba cửa hàng này, nhưng chúng đã bị đóng đinh chặt cứng. Những cao ốc bỏ hoang. Rõ ràng không có ai ở trong đó. Địa chỉ của Wol Pot là một bến tàu trống rỗng.

Wol Pot đã làm gì ở đó? Chắc chắn Porter đã theo dõi Wol Pot và ghi lại những nơi hắn đã đến. Hai nơi đầu tiên trên bản liệt kê là các cửa hàng ăn ở khu phố Tàu, nhưng chúng không chỉ biết điều gì. Hatcher cho rằng Wol Pot đã ăn ở đó. Những người quản lí của hai nhà hàng ăn đã xem xét ảnh Wol Pot một hồi lâu rồi nhún vai nhất trí với nhau:

- Có lẽ đúng.

- Nơi kế tiếp là gì? - Sy hỏi.

- Cậu biết nơi gọi là “Stagecoach Deli” (xe ngựa chở khách Deli) chứ?

- Biết, - Sy nói - rất gần đây.

- Tiếp theo chúng ta thử đến đó.

Họ lái xe qua Patpong ồn ào, tồi tàn với những loa phát thanh om sòm ở bên ngoài những quán rượu lòe loẹt có những bảng hiệu bằng đèn neon chói chang, sáng rực giữa buổi trưa, rồi họ quẹo ở một nơi gọi là “Jack’s American Star and the San Francisco Bar” (Ngôi sao Mỹ của Jack và quán rượu San Francisco), quảng cáo những vũ nữ khỏa thân trình diễn những “màn đặc biệt”.

Thình lình họ đi vào một đường phố khác hẳn với con đường đã qua, xa những ánh sáng chói chang của đèn neon, nhừng ống loa vang rền và những người bán hàng rong. Có thể đó là một đường phố trong bất kì một thành phố miền Tây nước Mỹ nào và ngay giữa ánh sáng ban ngày quanh nó có một bầu không khí mờ ảo. Những tia sáng mặt trời giống như những đèn sân khấu xuyên qua màn sương mù của buổi trưa tàn, dâng lên từ con sông gần đấy. Và nó im lặng một cách kì quái, giống như một thành phố ma.

- Dừng lại đây! - Hatcher ra lệnh lúc họ quẹo vào đường phố ấy. Anh ra khỏi xe, quan sát con đường ngoằn ngoèo kì lạ. Một cái bảng gỗ đóng trên cột tên phố thông thường, ghi: đường Clementine.

- Đây có phải là khu vực người ta gọi là Tombstone không? - Hatcher hỏi Sy.

- Ông đoán đúng.

Hatcher xuống đi bộ trong sương mù, qua cửa hàng Hitching có những đôi giày ống Tây phương lịch sự và những cái nón cao bồi được trưng bày trong cửa kính. Anh xem thực đơn dán ở cửa sổ quán ăn Yosemite Sam, và nhớ tới quê hương: ragu Bunswick, bột ớt, sườn heo và thịt heo thui. “Xe ngựa chở khách Deli” ở cách đó vài nhà phía dưới phố. Nó có những cánh cửa quay và một cửa sổ bắt chước kiểu Tiffany nhưng lại bày các đồ ăn miền Đông New York, bình dân hơn. Xa hơn một chút là phòng hòa nhạc Langtry. Những tấm ảnh trong những cửa sổ hai ô kính là ảnh những vũ nữ khỏa thân người Thái và Tàu, nhưng nó cũng rất phù hợp với những mẫu hình Tây phương đầy đường phố. Nó mở cửa từ 6 giờ chiều.

Anh đi bộ ở một bên phố rồi băng qua đường và quay trở lai trên hè đường bên kia, đi qua những điểm có vẻ ngồ ngộ. Một cửa hàng bán kem có tên là Pike’s Peak (Mũi Giáo), một cửa hiệu bán dăm bông và trứng có tên là Roundup (Họp Mặt), quảng cáo bánh rán Mỹ trong cửa kính. Một rạp hát kiêm chiếu phim, rạp Palace, đang chiếu các phim Mỹ.

Nơi đó chính là quán Longhorn, quán có nóc bằng, trông càng có vẻ thấp vì đứng ngay trước một tháp vòm hình củ hành cao vút.

Bảng hiệu Longhorn là hình một cuộn giấy khổng lồ, uốn lượn trên cổng vào từ bên này sang qua bên kia. Tượng một người Ấn bằng gỗ ăn mặc theo kiểu xưa đứng làm trụ cho các cánh cửa quay, các ghế gỗ dài thường đặt ở các bến xe bus kê ở hai bên cửa và một ban công nhô ra ngoài vỉa hè. Một người nào đó đã chịu khó làm cái khu nhỏ hiu quạnh này giống như quán Longhorn ở bên Mỹ.

Một người đàn ông da đen to lớn ngồi trên một ghế dài trước cửa kính xiên góc của quán rượu đang uống một hộp bia Nhật. Gã dựa vào cửa sổ quán rượu, mắt nhắm lại, để cho ánh nắng ban trưa chiếu một lỗ trên người gã. Chốc chốc gã lại tợp một ngụm bia.

Hatcher đi trở lại địa điểm “Xe ngựa chở khách Deli” và thăm dò đường phố ngắn ngủi này. Có tiếng nhạc văng vẳng và tiếng nói chuyện trong những ngôi nhà đóng kín của khu Tombstone, nhưng không phải là tiếng những người bán hàng rong và tiếng loa phát nhạc như ở Patpong cách đó một khu phố.

Những lời ghi chú trong mảnh giấy của Porter ghi, “Xe ngựa chở khách Deli, taxi, 10 giờ sáng, 1 giờ”, ngày kế tiếp ghi “Xe ngựa chở khách Deli, 12 giờ trưa, 45 phút” và ngày sau đó “Rạp Palace, 2 giờ rưỡi trưa, 35 phút”. Có phải điều đó có nghĩa là Wol Pot đã đi đến những nơi này bằng xe taxi và đã theo dõi những nơi này từ trên một chiếc xe taxi không? Porter có thể ăn tại “Xe ngựa chở khách Deli” trong 45 phút nhưng chỉ ở rạp Palace có 35 phút, không đủ thời giờ để xem một bộ phim.

Hai nơi này và điểm Longhorn lập thành một tam giác tuyệt đẹp. Anh rút ra tấm giấy nhòe nước mà Mongoose đã cho anh và nghiên cứu những chữ có thể đọc được ở phần đầu.

“... Cố thử, 4 giờ 15 trưa...” đó là tất cả những gì để anh có thể giải đoán.

Những chữ đầu câu có thể nói về Phòng hòa nhạc Langtry: “Langtry.. 4 giờ 15 trưa”. Nó phù hợp. Có thể Wol Pot đã quan sát quán Longhorn bốn ngày liền chăng, mỗi ngày trễ hơn ngày trước một ít? Hatcher nhớ lại điều mà anh lính giải ngũ ở thượng nguồn sông đã nói cho Daphne: “Hãy đến quán Longhorn ở khu Tombstone, nhiều người Mỹ sống ở Bangkok hay lảng vảng ở đó”. Một tấn kịch mỉa mai thình lình nảy ra trong trí Hatcher. Có lẽ Wol Pot đã mất dấu của Cody. Wol Pot đang tìm Cody còn Porter đang theo dõi Wol Pot. Hatcher bảo Sy:

- Tôi sẽ vào thăm quán Longhorn.

Trước khi Hatcher băng qua đường, thì một người đàn ông từ lề đường bước xuống đi về phía quán rượu. Gã mặc quần shorts đi săn màu nâu, cái áo rộng thùng thình đỏ đã bạc và mang đôi giày ba màu xanh trắng đỏ. Một khăn rằn đỏ giữ mái tóc đỏ hoe đầy gầu của gã, xõa xuống mắt.

Gã có một con chó buộc vào đầu một sợi dây da dài. Đó là một con chó to, xấu xí, không biết sủa, trông giống như một con chó lai giữa giống chó to Dane và giống chó spaniel thêm với một giống chó săn nào đó. Đôi mắt nó vàng khè trông như buồn ngủ, cái mõm dài ướt nhe dãi nhớt, cái đuôi dài trơ cả da cụp xuống đến gần cuối đuôi mới vểnh lên. Bộ lông nó màu nâu sẫm bóng mượt. Có một đốm trắng to dường như có người nào đã quét sơn lên vai nó. Không có cái gì đối xứng chung quanh cái đốm này, cái đốm phủ nửa mặt con chó và kế đó chạy dài xuống tận dưới ngực, nơi có những lốm đốm nâu. Con chó không đi, nó nhảy và nó không có vẻ sáng mắt khi gãi một chỗ ngứa.

Người đàn ông da đen mở một mắt ra, nhìn con chó và bắt đầu cười khúc khích một mình. Cái cười khúc khích bắt đầu từ một đôi vai to vạm vỡ lan xuống tới cái bụng béo phệ của gã. Gã mím miệng lại cố nín cười nhưng cuối cùng tiếng cười vẫn bật ra vang lên hô hố và kèm theo là một dòng rượu bia chảy xuống.

- Xin các ngài hãy nhìn con chó to, lười biếng, xấu xí câm như lừa, ẻo lả, có cái đuôi ngờ nghệch kia kìa.

- Xin lỗi, anh đang nói về con chó của tôi, con Otis? - Người đàn ông đi đôi giày xanh trắng đỏ nói với giọng cau có giận dữ.

- Tôi đang nói về cái con chó to, lười biếng, xấu xí, câm như lừa, ẻo lả, có cái đuôi ngờ nghệch ngay đằng kia kìa. Tên nó có lẽ là Otis hả?

- Anh muốn nói “có lẽ” là thế nào? Tên nó là Otis.

- Vậy thì đó là con vật tôi đang nói đến.

- Rõ ràng anh đang đái vào tôi, anh bạn ạ, tôi nói với anh, đó là con chó của tôi.

- Nếu ông đừng nói gì cả thì không ai biết được.

- Tôi rất hãnh diện về con chó mẹ kiếp này, anh bạn ạ.

- Vậy thì ông ngu xuẩn hơn nó rồi.

- Có lẽ anh muốn trộn tro vào bữa tối của anh hẳn. Hay anh muốn nhặt răng rơi dưới sàn nhà bỏ túi mang về.

- Ừa, có lẽ ông thì muốn tôi kéo lưỡi ông ra và cột nó lại với con quỉ của ông.

- Trời ơi, chắc hẳn là anh không gặp may rồi. Anh phải biết rằng đây là cái ngày, mẹ kiếp, may mắn nhất trong cái đời đê tiện, không giá trị của anh. Mẹ kiếp!

- Tôi cóc cần cái may nghiền nát ông ra trên đường phố và chứng tỏ ông chỉ là một vết nhơ lớn.

- Tôi hi vọng rằng anh đã làm lành với Chúa. Tôi hi vọng rằng anh đã hôn cái con đĩ già, mặt có đầy mụn cóc, mập ú, hôi thối của anh bởi vì anh sắp trở thành một khúc xúc xích rồi.

- Đồ cứt đái, không biết ông sống làm gì dai thế. Chắc một người nào đó đã đậu một chiếc xe tải chết tiệt có mười sáu bánh trong cái miệng đéo xấu xí của ông.

- Tôi sẽ đá cái ngu ngốc của anh cho về chầu trời. Tôi sẽ đá anh ra khỏi cái “thới kỉ” này.

- Nào, tại sao không làm đi, cái miệng nói như máy kia.

- Hãy hôn từ giã mảnh đất ngọt ngào này, cái thằng khốn kiếp kia.

- Chuyện đó không bao giờ có đâu, cái đồ cứt, lùn, bắp thịt cao su kia.

Sy nói riêng với Hatcher:

- Này, thế mà họ luôn luôn là bạn bè đấy. Tôi đưa khách du lịch Mỹ đến đây luôn, họ thường rất thân nhau.

- Thân nhau à! - Hatcher ngạc nhiên đáp.

- Thường là như thế.

Người đàn ông da trắng buộc con chó to vào một cây cột trước quán Longhorn và đứng theo thế quyền Anh cổ điển, để một nắm tay gần mặt, búng ngón tay vào cái mũi và cánh tay kia đấm ra với vẻ khiêu khích.

- Nên nghiêm chỉnh, Potter - người đàn ông da đen mỉm cười nói. - Tôi sẽ đánh anh văng ra vỉa hè, anh sẽ không còn thấy gì hết ngoại trừ cái sọ khốn khổ của anh.

- Nào đánh đi, Corkscrew, đánh đi. - Người đàn ông có tên Potter nói và nháy quanh.

Môt người đàn ông to con vai u như bò rừng bước ra khỏi quán Longhorn và đứng chống nạnh như kiểu đứng của người múa ba lê. Gã có mái tóc bạc trắng như tuyết và một bộ râu ghi đông ở mép cũng bạc trắng, đi giày ông mặc quần jeans cao bồi và đeo một bao súng đựng khẩu Python.357.

Hatcher nhìn quang cảnh này, sợ há hốc miệng. Cái ta gặp ở nơi đây là sự suy đốn do thời gian, anh nghĩ thầm.

Người đàn ông tóc bạc trắng bước vào giữa Potter và Corkscrew đặt nhẹ tay lên vai họ, hỏi:

- Cái quỷ quái gì xảy ra đấy?

Potter búng ngón tay đánh tách một cái nói:

- Hắn cười con chó của tôi.

Người đàn ông tóc bạc trắng nhìn con chó và cố giấu một tiếng cười.

- Ông có biết tên con chó này không? - Người đàn ông da đen hỏi, vẫn cố nín cười, - Otis, lạy Chúa. Cái tên nó đủ để làm một người lớn phải kêu thét lên.

Potter cố xông vào anh da đen và người đàn ông to con đẩy nhẹ y về phía sau, nói:

- Cứ từ từ, Benny. Vào đi, tôi sẽ mua rượu cho cả hai anh. Anh có thể buộc Otis vào cây cột đó.

Benny có vẻ lo sợ, hoang mang nói:

- Người ta sẽ đánh cắp nó mất.

Corkscrew bật cười to, nhưng người đàn ông tóc bạc cố tỏ vẻ ngoại giao bình tĩnh nói:

- Tôi không nghĩ thế. Tôi không nghĩ là có ai lại dám đánh cắp con chó của anh đâu.

- Trừ phi họ thật sự, thật sự đói, - Corkscrew nói qua tiếng cười nấc lên như khóc.

- Đồ chết tiệt, Corkscrew, đủ lắm rồi! - Benny gầm lên.

- A, đồ quỉ vật, - Corkscrew nói. - Tôi sẽ mua rượu chết tiệt.

Người đàn ông tóc bạc đẩy cả hai người vào quán. Con chó Otis nhìn họ đi, ngồi phịch xuống vỉa hè, thở khịt khịt rồi nằm xuống ngủ khì.

- Cái anh chàng to con kia là ai thế? - Hatcher nói, tay vân vê ria mép.

- Ông có râu mép hả? Đó là Earp, - Sy đáp.

- Earp à?

Sy gật đầu ngay một cách dứt khoát.

- Có phải Wyatt Earp không? - Hatcher hỏi hầu như châm biếm.

Sy ngạc nhiên hỏi:

- Ông biết gã ư?

- Không, tôi chỉ đoán thôi, - Hatcher thở ra.

- Thế thì rất tốt. - Sy trả lời, rõ rệt là cảm động.

- Tôi nghĩ là sẽ kiểm tra lại nơi ấy. - Hatcher nói và băng qua đường đến cửa quán Longhorn.

- Tôi đợi ngoài này, - Sy nói rồi bắt đầu dượt vài đường quyền trên vỉa hè.

- Cậu cứ tự nhiên.

Khi Hatcher bước vào trong, vụ va chạm đã xong, anh đợi vài giây cho mắt quen với bóng tối bên trong. Kế đó anh ghi nhận vào trong đầu những chi tiết của nơi này để khỏi quên. Nó có vẻ giống nơi ấy một cách lạ lùng, một căn phòng lớn với những chụp đèn xanh lá cây trên các bàn và mạt cưa trên sàn nhà, những quạt trần quay một cách lười biếng làm bốc lên mùi rượu và bánh mì nhồi thịt của quán, một quầy rượu cổ lỗ kéo dài suốt bề rộng căn phòng và rõ ràng là đem từ Mỹ qua. Ở một bên của phòng này có một căn phòng nhỏ hơn và cao trên sàn nhà vài bậc, đằng sau một bức rèm kết bằng các chuỗi hột.

Người đàn ông có tên là Wyatt Earp ngồi ở đầu quầy rượu đang nói chuyện với Corkscrew và Benny, hai người này dường như đã quên hẳn cuộc xô xát của họ.

Người bán rượu là một người đàn ông da đen cao, bảnh bao trong cái áo sơ mi thun đen, ngoài khoác áo ghi lê, mặc quần jeans xanh, đi giày ống cao bồi. Gã đội một cái nón cao bồi to đủ để tắm trong đó được, có dải băng gắn một lông chim két màu đỏ, vàng, và xanh lá cây. Còn một người nữa trong gian phòng chính, y có bộ tóc dài màu vàng hoe và ngồi cúi khom xuống quầy rượu.

Không ai để ý đến Hatcher khi anh đi đến quầy rượu, lúc này anh cảm thấy ớn lạnh đột ngột như có một cơn gió lạnh thổi qua sau ót và lông ở phía sau cánh tay anh dựng lên. Anh cảm thấy không thoải mái, dường như anh là khách không mời mà đến một câu lạc bộ riêng. Tại sao Wol Pot đã đến khu Tombstone này hết ngày này sang ngày nọ trong những khoảng thời gian ngắn? Thật sự có phải hắn quan sát quán Longhorn không? Hắn có đang theo dõi Cody không? Theo dõi Thai Horse không?

Câu trả lời cho điều bí ẩn của Murph Cody có phải ở nơi nào đó trong gian phòng kia không?