← Quay lại trang sách

49. TOMBSTONE

Hatcher biêt rằng phải tiến hành rất thận trọng. Nếu Cody còn sống và ở tại Bangkok, rõ ràng là anh ta không muốn cho ai nhận ra mình vì thế thật hợp lí nếu cho rằng bất cứ người nào biết anh ta đều là những người bảo vệ tông tích của anh ta. Có người nào ở đây biết về cái trại ma Huie-kui không? Hay biết về Wol Pot, Cody, Thai Horse không? Anh hiểu cần phải cẩn thận về những điều anh nói ra và nói với ai.

- Ông uống gì nào? - Người bán rượu hỏi với một giọng trầm gần như giọng hát opera.

- Singha, - Hatcher đáp.

- Vại, chai hay hộp?

- Vại.

Người bán rượu rót đầy một vại bia Thái ướp lạnh trong lúc cặp mắt vẫn nhìn Hatcher nói: “Lần đầu ông uống ở quán này?”. Y đẩy vại bia trượt trên quầy. Hatcher chìa bàn tay ra cầm lấy và cảm thấy cái vại lạnh ướt thấm vào lòng bàn tay. Anh nói:

- Khawp khun.

- Hân hạnh được ông chiếu cố đến.

Gương mặt của người đàn ông da đen thì thân hữu nhưng cặp mắt long lanh có vẻ đáng ngờ.

- Ông trông không có vẻ một người du lịch bình thường mà chúng tôi thường gặp ở đây, - gã nói và vô tình đẩy một cái giẻ lau trên mặt quầy được đánh bóng loáng, - ông có vẻ đã sống một thời gian ở cái xứ này.

- Tình báo quân sự ở Cam Ranh mà, - Hatcher đáp.

- Lực lượng đặc biệt, - gã bán rượu nói. - Tôi không bao giờ biết chắc tôi đã nói cái quái gì rồi. Ông ở đâu đến?

Người đàn ông rũ người trên quầy rượu ngồi thẳng lại, chống hai tay lên quầy, nhìn chằm chằm vào Hatcher qua cặp mắt xám mơ màng - cặp mắt đang đỏ ngầu và thờ thẫn. Râu cạo nhẵn với bộ tóc dài vàng hoe cột về phía sau thành kiểu tóc đuôi ngựa của người lướt sóng, anh ta bận áo khoác đi săn bằng vải ka ki không cài nút, mảnh nách hình bán nguyệt hoen ố mồ hôi, không áo sơ mi, quần shorts đánh tennis trắng và một cái nón kiểu cổ lỗ hiệu Keds. Hatcher khônp thể đoán được tuổi anh ta, có thể khoảng ba lăm cũng có thể đến năm mươi. Người đàn ông này không nói gì cả. Y chỉ nhìn chằm chằm Hatcher một lúc, rồi quay lại li rượu còn phân nửa của y và nhìn vào đó.

- Tôi muốn tiếp tục đi, không bao giờ đậu ở đâu quá lâu - Đó là câu trả lời nhẹ nhàng của Hatcher.

- Cái gì đã đưa anh đến Bangkok?

- Nghỉ hè. Người lái xe của tôi nói rằng đây là nơi phải đến. Ai biết được tôi có thể bất ngờ gặp một người bạn cũ.

- Phải, ai biết được. - Gã bán rượu trả lời bâng quơ.

Hatcher vỗ nhẹ lên quầy rượu, cố làm cho câu chuyện sống động, và nói:

- Tôi đoán rằng quầy rượu này không phải từ một nơi nào đó gần Thái Lan dọn về đây.

- Ông không nhận ra quầy rượu của nước ông à? - Gã bán rượu nói và vuốt cái mũ cũ kĩ của gã một cách trìu mến. - Cái quầy này, cái gương và cái ảnh ông già John Ford ở trên kia (gã vừa nói, vừa hất hất ngón tay cái trên vai gã về phía cái đầu bò rừng một mắt) đã đến đây từ một trong những quán rượu ngon nhất ở Mỹ!

- Thật vậy sao? - Hatcher nói.

- Ông già Skoohanie là một tay chăn bò Texas - một tay Ireland may mắn. Một đêm ông ta đi lang thang vào lều của một tay đánh bài ở Abilene và từ bốn mươi dollar ông già ăn lên đến sáu nghìn. Cuối cùng ông ta được cả lều, những cái bàn, vốn liếng cái nhà, tất tật. Đó là bước đầu của Galway Roost. - Gã ngưng khá lâu để uống hết nửa li bia của gã.

- Điều đó không giải thích làm sao quán rượu lại đến nơi đây, - Hatcher nói.

- Cái tên Edgar Skoohanie ăn nói ngọt xớt... trong đơn vị của tôi trước đây ở Việt Nam luôn luôn khoe khoang về cái quán rượu này của gã. - Gã bán rượu tiếp tục nói. - Vì thế tôi đã nói với hắn nếu có khi nào hắn muốn bán nó thì cho tôi hay. Y như rằng một ngày kia tôi nhận được một cú điện thoại và tiếng ở đầu dây bên kia nói: “Đây là Edgar Skoohanie, ông còn nhớ tôi không?” Ai mà có thể quên được cái tên như Edgar Skoohanie, đúng vậy, tôi nói còn nhớ và ông ta cho biết công việc ở quán cũ Roost không trôi chảy, ông ta định biến nó thành một phòng hòa nhạc! Một phòng hòa nhạc cứt, trời ơi! Chúng tôi thay đổi nó năm lần bảy lượt và cuối cùng tôi có quán rượu này, với cái gương mà Edgar quăng vào đó cái ảnh của lão John Ford một mắt. Tiếp theo đó như ông biết đấy, tôi đang có việc đây. Mười hai ngàn tờ giấy bạc tím cho tất cả các cái ấy và bốn chục ngàn để chuyên chở đến đây.

Gã bán rượu không bao giờ nói bằng tiếng Mỹ, gã nói theo tiền baht, một baht khoảng năm xu Mỹ, giấy bạc tím là giấy bạc năm trăm baht, giấy bạc nâu mười baht, giấy bạc xanh lá cây hai mươi baht, giấy bạc đỏ một trăm baht. Gã ngừng lại lần nữa, lần này để rót cho Hatcher một vại bia khác, rồi nói:

- Còn cái gì nữa để làm ngoài việc mở quán rượu Longhorn này.

- Cá rằng có một câu chuyện hay liên quan với cái lỗ đạn ở cái gương kia, - Hatcher nói.

- Không có gì hay ho như ông nói đâu. - Gã bán rượu trả lời.

- Cứ nói đi tôi vẫn lắng nghe đây, - Hatcher càu nhàu.

Gã bán rượu trả lời với một tiếng cười lính tráng.

Hai cái răng vàng lấp lánh ở khóe miệng gã. Một hạt kim cương cao giá lấp lánh ở giữa một cái răng gã.

- Tôi hình như là người có thể đùa giỡn cả với những lỗi lầm của mình,- gã nói, chìa ra bàn tay to lớn có thể bóp bẹp một trái bóng rổ. - Tôi tên Sweets Wilkie. Tôi là chủ nơi này.

- Hatcher, - Hatcher đáp.

Khi Wilkie và Hatcher đang trò chuyện thì hai cô gái Thái từ một cửa phía sau đi vào. Đó là những cô gái trẻ đẹp với mái tóc đen dài chảy như suối xuống lưng họ, gần như đến tận eo. Họ mặc váy ngắn mini kiểu gái chăn bò mang giày ống cao bồi da rắn và áo khoác da ngựa vá giả, bộ ngực dậy thì của các cô làm áo khoác phanh ra. Không cô nào trước mười lăm tuổi. Các cô đánh vào hai bên hông Wilkie và cười khúc khích, quàng những cánh tay quanh gã và hôn vào hai bên má gã.

- Đây là Jasmine, tôi gọi tắt là Jazz, và đây Orchid, - Wilkie nói, rõ ràng là rất vui vì được chú ý, - chúng tôi đã cưới nhau khoảng một năm nay.

- Ông và Orchid? - Hatcher hỏi.

Wilkie lộ vẻ ngạc nhiên nói:

- Đồ quỷ, cả hai.

- Cả hai.

- Tôi đã cưới và li dị sáu lần từ khi tôi đến đây và tôi vẫn phải chi một baht về tiền cấp dưỡng cho vợ sau khi li hôn. Tôi nghĩ rằng lần này tôi sẽ chi tăng lên gấp đôi. Có lẽ tôi sẽ may mắn hơn một chút.

Cái cười toe toét của gã làm sáng lên quầy rượu tối sẫm. Gã vỗ vào những cái mông đầy đặn của hai cô gái và các cô đi khỏi quầy rượu.

- Chào mừng quý khách đến khu Tombstone này. - Người đàn ông tóc vàng hoe thình lình nói lầm bầm, gật gù như sắp ngủ gục và tiếp tục nhìn đăm đăm vào li rượu của gã.

Wilkie nói:

- Đây là Johnny Prophett, người được giải thưởng chính thức về thơ của khu Tombstone.

- Rất hân hạnh. - Hatcher nói.

Prophett nhìn Hatcher qua mũi, y mỉm cười mệt mỏi và chìa bàn tay lạnh lùng không có sức sống về phía Hatcher.

- Có bao nhiêu người Mỹ sống ở Bangkok? - Hatcher nói.

Prophett loạng choạng đứng dậy, nhảy lò cò hai, ba bước bằng chân phải. Y ứa nước mắt, nhún vai và gãi tay. Khi đó Hatcher mới nhận ra rằng Prophett gầy như que củi, gần như hốc hác. Prophett dang hai cánh tay ra hai bên như một người truyền giáo đang giảng đạo nói:

- Bốn, có thể năm trăm người. Mọi dạng và mọi cỡ. Kĩ sư, người bán hàng, kẻ vô công rồi nghề chơi quần vợt, kẻ cướp kho, tay cờ bạc, người tàn phế lê gót đi, kẻ yếu thế, kẻ vô lại, kẻ trốn ra nước ngoài, kẻ phản bội xã hội. Ông cứ đặt tên đi, chúng tôi là như thế đó.

Được, Hatcher nghĩ, như thế việc tìm Cody trong số năm triệu người nay thu hẹp lại chỉ trong số năm trăm người thôi.

Wilkie nói một cách bâng quơ:

- Chỉ là một bọn Mỹ được xếp đặt lại vị trí thôi. Đù mẹ nó, - Prophett chửi vu vơ. - Đã nghĩ là chết ở phía bên kia sông. Tên chèo đò chết tiệt đã không hiểu được cái gì đã xảy ra. Thậm chí đến một thi sĩ cũng khó mà có cảm giác gì về điều đó.

- Đúng vậy. - Wilkie đồng ý và Hatcher gật đầu, mặc dù cả hai đều không hiểu Prophett đang nói gì. Wilkie nháy mắt và nói như để giải thích:

- Johnny đang làm một quyển sách.

- Bombay và nước bổ, - Hatcher nói với Wilkie.

Wilkie lấy một cái li, bỏ vào một nắm đá cục, rồi rót đầy nước soda vào.

Lúc Prophett tiếp tục nói huyên thuyên thì một người đàn ông từ phía sau bức rèm kết bằng các chuỗi hạt đi vào, tay ông run rẩy như mắc chứng co gân. Ông có dáng điệu kì lạ, cao chừng mét tám, đi với một cây nạng nhỏ, vai lắc qua lắc lại. Ông mặc quần jeans và áo thun trắng cộc tay. Cái sọ người in ở vạt ngực áo, miệng sọ cắn một đóa hoa hồng và ở phía đuôi áo có in chữ Grateful Dead (Chết khoan khoái). Cánh tay mập, gân guốc và bàn tay mặc dù to lại có những ngón tay thon thả, có vẻ thanh tú. Tóc đen rậm uốn quăn quanh vai và xõa xuống trán. Cái kì lạ là có một nét thanh màu đỏ chạy dài từ trán ông qua sống mũi đến tận cằm, chia bộ mặt làm đôi, một bên bôi đen, một bên bôi trắng. Prophett giới thiệu:

- Đó là Wonderboy, ca sĩ tại chỗ của chúng tôi.

Wonderboy đi đến quầy rượu và chìa tay về phía Wilkie, nói:

- May mắn của tôi đi nghỉ mát rồi. Cho tôi cái hộp nhạc trưởng đại tài, - Wilkie trao cho gã một cây đàn guitar bốn dây, đánh bóng và mòn nhiều, một nhạc cụ rõ ràng là được chăm sóc một cách trìu mến. Người đàn ông trông kì lạ này đi đến bên cái máy hát Wurlitzer dùng chân đi giày ống kéo cái dây cắm và ngồi xuống gần đấy.

Gã nhắm mắt lại dựa đầu vào tường và bắt đầu ca: “Ôi, Jude đừng để nàng đi...”

Đó là một giọng ca hay. Trong trẻo, sâu lắng, có hơi rượu whiskey, trong các âm cao, và gã đã đưa vào bài hát lời than vãn não nùng đến nỗi người ta muốn tóm ngay Jude và làm lay chuyển ý nghĩ trong đầu gã.

Prophett nghiêng qua và thì thầm “Cách súng phun lửa một mét rưỡi khi nó nhặt khẩu súng cối... Thực chẳng ai muốn thấy cảnh đã xảy ra ấy”.

Buổi trưa qua đi, quán rượu bắt đầu đầy người. Wilkie bảo Benny Potter giúp đỡ vì quán rượu đông khách gấp đôi. Cặp mắt chảy nước, Prophett bắt đầu khom vai xuống và gãi các cánh tay một cách lơ đãng. Một người đàn ông vào quán Longhorn nhảy từng bước ngắn trông thật buồn cười, dường như gã vừa mới té từ lầu cao hai tầng rơi chân xuống trước. Gã có tấm thân và đôi tay của một cần cẩu hạng nặng, nhưng đôi chân lại gầy khẳng gầy khiu, gã nhảy thẳng ngay đến Earp và thì thầm điều gì đó với Earp. Earp đứng dậy đi vòng sau quầy rượu qua cánh cửa, vào phía sau nhà. Người đàn ông có bước đi buồn cười bước lên mấy bậc thang, chui qua cái màn kết bằng các chuỗi hột vào một phòng nhỏ xây thụt vào trong tường.

- Đó là Gallagher, - Prophett nói. - Gerald Gallagher từ thành phố Hobart, tiểu bang Indiana đến đây, làm chủ một hộp đêm có tên là Langtry ở phía bên kia đường. Gái khỏa thân. Không phải các bà, các cô đâu mà là các gái nhỏ. Gallagher không mướn đứa nào trên mười hai tuổi. Trong sổ của Gallagher, bất kì người đàn bà nào trên mười hai tuổi đều là đã mãn kinh, ở Mỹ thì hắn sẽ bị ném đá đến chết ở quảng trường công cộng.

- Làm sao mà hắn đi một cách buồn cười như vậy? - Hatcher hỏi.

- Xe jeep của hắn đụng phải mìn. Sàn xe tông hắn bắn ra ngoài, - Prophett nói - Chân hắn không bao giờ hồi lại được nữa.

- Tôi nghĩ rằng ông cũng đã ở Việt Nam. - Hatcher nói với Prophett.

Prophett nhìn trở lại li rượu của mình.

- Chết tiệt, tôi đã đi cùng với Gallagher vào cái hôm hắn bị mìn nổ. Tôi đã để lại một chân trong chiếc xe jeep ấy.

Prophett chìa chân mặt ra và gõ vào nó bằng khớp ngón tay. Nó vang lên một âm thanh của kim loại “ping” giống như gõ vào một ống nước rỗng.

Prophett, - Hatcher tự nhủ thầm. - Cái tên này nghe có vẻ quen.

Earp trở lại quầy rượu và đi lên qua bức rèm kết bằng các chuỗi hạt để vào phòng “Lỗ Trong Tường” Gá ngồi xuống cạnh ngài Tướng Công đang xem hai người chơi banh tám. Gã nói:

- Hatcher đang ở dưới nói chuyện với Johnny.

- A, vậy là anh đã theo lời chỉ dẫn của tôi.

- Sy không mách nước cho hắn đến đây, hắn tự ý đến đây.

- Như tôi đã đoán trước mà.

- Đừng có tự mãn. Tôi không quá tin rằng việc hợp tác với cái anh chàng này là một ý kiến hay đâu.

- Tôi đã biết là cuối cùng hắn sẽ đến đây không sớm thì muộn - Tướng công nói, hãnh diện vì cái trực giác của ông đã đánh giá đúng. Earp móc trong túi áo khoác ra một điếu xì gà dài và châm lửa, xoay chậm nó giữa các ngón tay cho cháy đều.

- Hắn ta đang khoe khắp đó đây một tấm ảnh của Wol Pot, một tấm của Cody nữa. Và hắn làm việc cho Sloan.

Tướng Công chắp các ngón tay lại thành hình cái đền và đặt miệng lên đỉnh của nó.

- Hắn nói với Wilkie là hắn đến đây nghỉ hè, nhưng Sy đã kết thân với hắn sau khi hắn ăn sáng với Sloan, - Earp nói tiếp. - Hắn không ngẫu nhiên mà đến đây đâu.

- Có lẽ do may mắn. Cả hai đứa đều ở đây, cả hai...

- Chúng ta hãy nghiêm túc đi. Hắn đang đi tìm, và tôi cho rằng hắn lại ở đây thì cần thanh toán cho nhanh, hắn ở quá gần.

- Đừng để cho sự tưởng tượng sai lầm của anh trở thành kết luận cuối cùng.

- Tôi đoán hắn đang theo dõi một cái gì đó.

- Một cuộc viếng thăm tốt đẹp! Có lẽ anh sẽ phát hiện ra một điều gì đó.

- Tôi bảo Thai Horse đem hắn đi.

- Giết hắn?

- Bộ ông không biết sao, đây là một người rất nguy hiểm. Tôi biết hắn qua tiếng tăm của hắn. Hắn là một tên ám sát được phái đến Việt Nam. Họ cử hắn đi với một bản danh sách. Khi hắn đã xóa số tên cuối cùng trong bản danh sách, hắn trở về và nhận một danh sách khác. Hắn không phải là một tên mật thám ngớ ngẩn nào đó từ San Francisco đến đâu.

- Có thêm nhiều lí do để phải thận trọng. Tôi cho anh ý kiên của tôi. Đến gần hắn. Thân thiện với hắn. Tìm hiểu xem hắn đang làm gì ở đây. Anh không thể đánh bật người ta đi một cách thiếu suy nghĩ, Earp ạ. Bất kể chúng ta gọi là cái gì, đây không phải là...

Earp liếc xuống quầy rượu. Hatcher và Prophett đang tán gẫu. Người đàn ông đang thì thầm dường như không để ý gì đến việc đang xảy ra sau bức bàn kết bằng một chuỗi hột.

- Tôi cũng muốn nhắc anh rằng Porter đã bị giết chết ở đây, - Tướng Công nói.

- Vậy thì sao?

- Như thế, nếu anh có quyết định làm điều gì ẩu thì cũng đừng làm việc ấy ở Bangkok. Hãy nhử hắn ra một nơi nào đó ở miền quê.

- Ý kiến tuyệt vời, - Earp nói dứt khoát. - Tôi chỉ mời hắn đi một buổi picnic là xong.

- Anh phải có thủ đoạn. Anh có vẻ như đang hoang mang. Anh vẫn còn lợi thế, Earp. Chúng ta biết hắn nhiều hơn là hắn biết chúng ta. Bây giờ, anh phải tìm hiểu xem tại sao hắn đến đây.

- Tôi không tin rằng ông có thể tra khảo điều gì đó ở hắn.

- Anh biết người ta thường nói là: dùng kẹo ngọt được việc hơn là dùng kem chua.

- Tên này di chuyển rất nhanh. Đấy là kiểu chơi của hắn.

- Nếu hắn làm cho Sloan thì anh giết hắn, Sloan sẽ có người khác đến.

- Không, nếu ta làm khéo.

Tướng Công ngả người ra sau và mỉm cười, vẫy tay nói:

- Đó là tất cả ý kiến của tôi, anh bạn thân mến. Bất kì điều gì anh làm, thì nên làm cho đích đáng. Như anh cho biết, đây là một ván bài nguy hiểm và hắn ta chơi rất giỏi món này.

- Chơi thật giỏi cũng không thắng được ván bài này đâu, dù hắn là một chuyên viên lão luyện.

Lúc Earp nói chuyện thì một người có vẻ võ sĩ mặc quần shorts đánh quần vợt, áo sơ mi thun, đứng dậy khỏi bàn đánh bài và tới ngồi đối diện với người đàn ông tóc bạc trắng, người này đẩy quyển sách sang một bên và uống một ngụm rượu trong khi người đàn ông tóc sẫm chồm về phía trước và thì thầm với ông ta. Ông già gật gù một cách nghiêm trang lúc nghe người kia nói, và chỉ vào sòng bạc ở bên kia bức màn.

Earp xoay người trên ghế của quầy rượu, ngó vào phòng chính, móc khẩu súng lục 0,357 có nòng đặc biệt và vô tình để vào góc quầy rượu. Hatcher quan sát diễn biến với nhiều lưu tâm hơn.

- Đó là Eddie Riker ở tiệm bán kem, nhớ không, đang nói chuyện với Tướng Công, - Prophett tiếp tục huyên thuyên với Hatcher, hất đầu về phía người đàn ông lớn tuổi hơn.

- Tướng Công là chủ ngân hàng chính thức của khu Tombstone. Mũi Prophett bắt đầu hoạt động, gã đánh hơi rồi gãi gãi vào bên sườn, cười to lên.

Trên kia, Tướng Công mở hộp sắt và lấy ra cái gì như là một tờ giấy nợ. Ông ta ghi vội lên giấy và đẩy nhẹ cho Eddie Riker, người này lại ghi vội mấy chữ, kế đó Tướng Công đếm tờ giấy bạc màu tím đặt lên bàn. Eddie Riker gật đầu cảm ơn và đi trở lại sòng bạc:

- Eddie Riker gặp một ngày xúi quẩy. Prophett nói.

Wilkie thong thả đi lên quầy rượu, hỏi bâng quơ:

- Chúng ta làm gì ở đây nào?

- Tôi sẽ uống một li bia. - Hatcher nói. - Tôi cũng không phản đối chơi vài ván bài.

Wilkie nhìn anh ta một lát rồi nói:

- Họ cũng lạ là hay phân biệt người chơi bài. Nhưng nếu ông la cà lâu lâu thì họ biết ông, họ sẽ mời ông thôi.

Wilkie đi trở lại quầy rượu và bắt đầu nói chuyện với một người khách.

- Chính Wilkie là người mở ra khu Tombstone này, - Prophett nói, và câu chuyện của gã tuôn ra như nước chảy - Wilkie và Earp. Wilkie là một giáo sư tiếng Anh ở học viện Tuskegee, có bằng Tiến sĩ danh dự của trường Đại học Tổng hợp Atlanta. Người ta đã làm gì hắn? Người ta gọi hắn đi quân dịch. Một thầy giáo, một con người, rồi người ta đã ném hắn sang Việt Nam và thầy giáo trẻ thành trung sĩ Wilkie, Wilkie suy nghĩ xem cái gì đang xảy ra và không bao giờ trở về quê hương nữa. Hắn mở quán Longhorn, rồi Eddie Riker mở tiệm Pike’s Peak...

Mắt Wilkie nhìn thẳng vào Prophett. Y đang mỉm cười về công việc bán rượu của y, nhưng Hatcher có thế nói rằng y đang lắng nghe Prophett ba hoa về khu Tombstone này và quán Longhorn. Thình lình y quay lại, đi đến cuối quầy rượu và nói điều gì đó với Corkscrew. Người đàn ông da đen đứng dậy, không nhìn xuống quầy rượu và đi ra phía sau bức rèm kết thúc bằng các chuỗi hột.

- Corkscrew và Potter mở quán Yosemite Sam. Wonderboy mở quán Stagecoach. - Prophett tiếp tục lẩm bẩm nhìn chằm chằm xuống quầy rượu. - Max, anh ta không thể chịu được bất kì nơi nào tối tăm, chật hẹp, hắn đi về phía Nam để trồng trọt. Và Kilhanney, đù mẹ thằng khốn khổ Kilhanney, cái thằng chết tiệt Taisung...

Hatcher đang buồn ngủ vì câu chuyện ba hoa tầm phào đột nhiên giật mình tỉnh dậy. Anh cố không để lộ vẻ ngạc nhiên khi nghe Prophett nói đến cái tên này.

Chưa kịp nói tiếp thì Prophett bị cắt ngang. “Này!”. Từ phía cuối quầy rượu Wilkie gọi và Prophett ngạc nhiên nhìn lên. Wilkie bước nhanh đến chỗ họ, nói với vẻ nghiêm khắc “Thong thả, cậu bé, hãy giữ nó lại để mà viết thành sách”.

Hatcher nhìn chung quanh, hướng về Hole in the Wall (Lỗ Trong Tường). Lờ mờ sau tấm rèm kết bằng các chuỗi hột anh có thể nhân ra một người đàn bà trong số bảy người đánh bạc ở bàn.

Người đàn bà chơi bài đứng dậy, rời sòng bạc, đứng ngay sau bức màn một lúc đếm nắm tiền baht, rồi đi vào phòng chính. Bà ta đẹp, to xương, vai rộng, hầu như không có eo tí nào, mái tóc vàng hoe và bà đã bạc trắng làm người ta tưởng bà phải gần bốn mươi tuổi. Bà mặc áo cánh vải trắng rộng lùng thùng, váy lụa Thái màu lam và mang dép da.

Hatcher lại nhớ trong ảnh bà ta trông nhỏ bé hơn, mảnh khảnh hơn, một người đàn bà thấp hơn do cách chụp ảnh, và do cái túi vải bạt đeo trên vai bà. Sài Gòn vào khoảng thời gian cuối của cuộc chiến tranh, Melinda Prewett đã đoạt thưởng Pulitzer về những ảnh chụp bà ta trong cảnh tàn phá, nỗi sợ hãi, lòng căm thù và niềm đau đớn. Khi chiến tranh chấm dứt, bà ta đã bỏ việc làm có lợi với tờ tạp chí Life và biến mất. “Đời tôi không còn gì để nói nữa”, đó là câu nói lẩn tránh của bà.

Bà đi thẳng về phía anh, tay nhét nắm tiền baht vào trong túi váy và dừng lại bên Johnny Prophett. Bà ta quàng tay quanh cổ gã và thì thầm vào tai gã “chào”. Mặt gã sáng lên và gã đặt má vào mu bàn tay bà.

- Công việc làm ăn thế nào? - Gã hỏi.

- Toàn những chuyện lặt vặt, - bà nói nhỏ vào tai gã. - Đã đến giờ ông dùng thuốc.

- Đúng, - gã nói, giọng nói của gã bắt đầu mạnh hơn.

- Xin giới thiệu ông Hatcher, ông từ xa đến nghỉ hè.

- Thật tuyệt - Bà nói và nhìn chằm chằm vào Hatcher một lúc lâu, rồi mỉm cười, tiếp - Xin chào mừng ông đến Tombstone, ông Hatcher. Chúc ông ở chơi vui vẻ.