Sách thứ bảy Minea
❖ 1 ❖
Khi ra khỏi thành phố, chúng tôi không bị lính gác gọi lại vì ban đêm sông không bị chặn, tôi trườn xuống thuyền và chui vào trong khoang để cho cái đầu mệt mỏi của mình được nghỉ ngơi, vì lính của nhà vua đã đánh thức tôi trước lúc bình minh như tôi đã nói và ban ngày đầy rẫy chuyện rắc rối, khủng khiếp mà tôi chưa bao giờ trải nghiệm trước đây. Nhưng tôi vẫn chưa được yên vì Minea đã lăn ra khỏi thảm, lấy tay vốc nước dưới sông lên để gột máu trên người, ánh trăng sáng lấp lánh trong những giọt nước chảy ra từ tay cô. Cô ta nhìn tôi, không cười mà nói với vẻ trách móc:
- Theo lời khuyên của ông, tôi đã vấy bẩn mình và người đầy mùi máu. Có lẽ tôi sẽ không bao giờ sạch được nữa, tất cả là lỗi của ông. Thêm nữa, khi ôm thảm quấn tôi lên, ông đã ghì chặt tôi vào ngực mình quá mức cần thiết khiến tôi rất khó thở.
Nhưng tôi đã chán ngấy với những gì cô ta nói và rất mệt, vì vậy tôi ngáp và nói:
- Hãy im mồm đi, cô gái đáng nguyền rủa kia, chỉ nghĩ cô đã buộc tôi làm bao việc, tim tôi đã nhói đau và tôi sẵn lòng ném cô xuống sông để nước sông rửa sạch cô như có vẻ cô đang muốn. Nếu không có cô, tôi đã ngồi ở Babylon bên phải nhà vua và các giáo sĩ của Tháp sẽ dạy tôi tất cả sự thông thái của họ mà không giấu giếm bất cứ điều gì, để tôi có thể thành người thông thái nhất trong tất cả các danh y trên trái đất. Tôi cũng đã tiêu tốn hết những món quà mình nhận được khi chữa bệnh để giải cứu cô, vàng của tôi giờ còn rất ít và tôi không dám dùng các bảng đất sét để có thể lấy vàng từ quỹ của các ngôi đền nữa. Tất cả điều này là chỉ vì cô, vậy nên tôi nguyền rủa cái ngày tôi nhìn thấy cô và hằng năm tôi sẽ mặc bao tải, mang hũ tro khi nhớ đến ngày này.
Cô ta khỏa tay trong dòng nước dưới ánh trăng, nước xé rẽ ra tránh đường cho bàn tay cô trông như bạc tan chảy và cô ta nói nhỏ mà không nhìn tôi:
- Nếu vậy, tốt nhất là tôi nhảy xuống sông như ông muốn. Như thế ông sẽ thoát được tôi.
Rồi cô ta đứng lên, định nhảy xuống sông nhưng tôi kịp giữ chặt cô và nói:
- Đừng có ngốc thế vì nếu cô nhảy xuống sông, tất cả những điều tôi làm cho cô thành công cốc và đó sẽ là tột đỉnh của sự điên rồ. Vì thế, lạy tất cả thần linh hãy cho tôi được yên và Minea, đừng hành hạ tôi với những ý nghĩ ngu ngốc của cô vì tôi đang rất mệt.
Nói xong, tôi chui xuống dưới tấm thảm và kéo nó lên che kín đầu vì ban đêm trời lạnh, mặc dù giờ đã là mùa xuân và bầy vịt đang kêu trong đám sậy. Cô ta chui vào dưới thảm bên cạnh tôi và nói thì thầm:
- Khi không thể làm gì khác cho ông, có lẽ cho em được sưởi ấm ông bằng cơ thể của mình, vì đêm đang lạnh.
Tôi không còn sức để phản đối cô ta nữa mà ngủ thiếp đi và cô ta sưởi ấm tôi bằng cơ thể mình, tôi ngủ rất ngon vì cô ta còn trẻ và cơ thể cô giống như một cái lò nướng hẹp bên sườn tôi.
Sáng sớm khi tôi thức dậy, chúng tôi đã rời xa lên thượng nguồn, nhưng những người chèo thuyền càu nhàu và nói:
- Vai chúng tôi cứng như khúc gỗ và lưng chúng tôi đau nhừ. Ông muốn giết chúng tôi bằng cách bắt chúng tôi chèo ư, chúng tôi có đi dập nhà cháy đâu.
Tôi tỏ ra cứng rắn và nói với họ:
- Kẻ nào ngừng chèo sẽ nếm gậy của ta vì đến trưa chúng ta mới dừng lại nghỉ. Lúc đó, các ngươi sẽ được ăn, được uống và ta sẽ cho mỗi người một ngụm rượu chà là để các ngươi thấy sảng khoái và nhẹ nhõm. Còn nếu các ngươi lải nhải với ta, ta sẽ gọi ma quỷ bóp cổ các ngươi, vì các ngươi phải biết ta là giáo sĩ, là phù thủy và quen rất nhiều ma quỷ thích ăn thịt người.
Tôi dọa thế để họ sợ, nhưng mặt trời đã chiếu sáng rực rỡ nên họ không tin tôi mà nói:
- Ông ta chỉ có một mình, còn chúng ta có mười người!
Và kẻ gần tôi nhất đã thử lấy mái chèo đánh tôi.
Đúng lúc ấy, cái chum sành đựng thi thể ở mũi thuyền bắt đầu lạch cạch và Kaptah vừa đập mạnh phía trong vừa gầm gừ và cao giọng chửi rủa, làm những người chèo thuyền tái người kinh hoảng, người trước kẻ sau nhảy xuống sông và bơi nhanh mất hút theo dòng nước. Thuyền xoay ngang rập rềnh và nghiêng đi, nhưng tôi lái được nó vào bờ và thả neo. Minea vừa từ khoang thuyền bước ra vừa chải tóc và tôi không còn sợ nữa vì trong mắt tôi cô ấy thật đẹp, ánh mặt trời đang tỏa sáng và những con diệc đang kêu chiu chíu trong đám sậy. Tôi đến bên cái chum sành, đập vỡ đất sét và hét to:
- Dậy đi, lão kia, đừng nằm nữa!
Kaptah nhô cái đầu xù xì ra khỏi chum, kinh ngạc nhìn xung quanh và có lẽ tôi chưa bao giờ thấy một người nào kinh ngạc hơn ông ta lúc đó. Ông ta rên rỉ và nói:
- Trò quỷ quái gì thế này? Tôi đang ở đâu đây, vương miện của tôi đâu và quyền trượng của tôi ai giấu đâu rồi, còn tôi thì trần truồng và lạnh cóng thế này? Đầu tôi ong ong và tay chân tôi cứng như chì, cứ như bị rắn độc cắn. Coi chừng, Sinuhe, đừng đùa với tôi, vì với các đức vua thì không được đùa giỡn.
Tôi muốn phạt ông ta vì tội xấc xược hôm trước, vì vậy tôi giả vờ không biết gì và nói:
- Ta không biết ông đang nói về chuyện gì, Kaptah ạ. Có lẽ đầu ông vẫn còn lơ mơ với rượu, bởi vì ông nhớ là khi chúng ta rời Babylon hôm qua ông đã uống quá nhiều, quậy phá trên thuyền này rồi nói lảm nhảm đủ thứ khiến các tay chèo thuyền phải nhốt ông trong chiếc chum này kẻo ông đánh chúng. Ông đã nói về nhà vua, các quan tòa và nhiều điều ngớ ngẩn khác.
Kaptah nhắm mắt lại, suy nghĩ một lúc lâu, rồi nói:
- Ông chủ của tôi ơi, trong cuộc đời này tôi sẽ không bao giờ muốn uống rượu nữa vì rượu và cơn mê đã đưa tôi vào những cuộc phiêu lưu khủng khiếp mà tôi không thể kể được với ông. Tôi chỉ có thể nói là nhờ sự che chở của bọ hung, tôi tưởng mình là vua, ban phát công lý từ ngai vàng của nhà vua, thậm chí còn đến hậu cung và thoải mái ân ái với một nàng xinh đẹp. Nhiều chuyện nữa xảy ra với tôi nhưng tôi không thể nhớ được vì đầu tôi rất đau, xin ông nhân từ cho tôi liều thuốc mà những kẻ uống rượu chết tiệt ở Babylon dùng vào ngày hôm sau.
Nói đến đó Kaptah nhận ra Minea, vội vã thụt lại vào chum rồi nói như van nài:
- Ông chủ của tôi ơi, có lẽ tôi không khỏe lắm hay vẫn đang mơ, vì tôi nghĩ cô gái ngồi ở đuôi thuyền kia là người tôi gặp trong hậu cung của vua. Bọ hung ơi hãy bảo vệ tôi vì tôi sợ mình hóa điên mất.
Ông ta lấy tay sờ con mắt bị đánh thâm đen và cái mũi sưng rồi bắt đầu rên to hơn. Nhưng Minea đến bên cạnh cái chum, nắm lấy tóc rồi kéo đầu ông ta lên và nói:
- Hãy nhìn ta xem! Có phải ta là cô gái mà nhà ngươi nghĩ đêm qua đã ân ái cùng không?
Kaptah sợ hãi nhìn cô ta rồi nhắm mắt lại và khóc lóc nói:
- Xin các thần linh Ai Cập hãy thương xót và tha thứ cho tôi khi tôi hầu hạ và cúng tế cho các vị thần lạ nhưng đúng là cô thật rồi, hãy tha thứ cho tôi bởi vì đó chỉ là một giấc mơ.
Minea lấy dép dưới chân ra đập vào hai má ông ta khiến chúng run lên và nói:
- Hãy để hình phạt này xứng với giấc mơ tồi tệ của ông, để ông biết bây giờ ông đã tỉnh.
Nhưng Kaptah còn gào to hơn:
- Thật tình tôi không biết mình đang ngủ hay thức vì điều tương tự đã xảy ra với tôi trong giấc mơ khi người đàn bà khủng khiếp đó đi về phía tôi trong hậu cung.
Tôi giúp ông ấy ra khỏi chum, cho ông một loại thuốc đắng để súc dạ dày rồi buộc một sợi dây quanh người ông và thả xuống nước, mặc cho ông gào thét. Tôi để mặc ông ấy vùng vẫy trong nước cho hết cơn say nhựa anh túc và tỉnh rượu. Nhưng khi kéo ông lên khỏi mặt nước, tôi tha thứ cho ông ấy và nói:
- Đây là một bài học cho sự trơ trẽn của ngươi đối với ta, ông chủ của ngươi. Nhưng hãy biết rằng tất cả những gì xảy ra với ngươi đều đúng và không có ta thì bây giờ ngươi đã chết trong cái chum đựng xác nơi hầm mộ các vị vua hờ.
Sau đó tôi kể với ông ấy mọi chuyện đã xảy ra, và tôi phải nói đi nói lại nhiều lần trước khi ông ấy hiểu và tin tất cả. Cuối cùng tôi nói:
- Chúng ta đang gặp nguy hiểm và ta không cười được nữa, bởi vì đúng là chúng ta đang ngồi trên thuyền đây, nhưng đầu chúng ta cũng sẽ bị treo ngược trên tường, thậm chí còn bị trừng trị tệ hơn nếu nhà vua bắt được chúng ta. Vì thế, ngươi, Kaptah, phải nghĩ làm cách nào chúng ta sống sót đến được đất Mitanni, vì các tay chèo của chúng ta đã bỏ trốn.
Kaptah vò đầu nghĩ một lúc lâu, cuối cùng ông nói:
- Nếu tôi hiểu đúng lời ông, tất cả những gì xảy ra đều là sự thật chứ không phải tôi nằm mơ và rượu làm tôi phát rồ. Nếu đúng vậy, cầu xin phước lành cho ngày hôm nay vì như thế tôi có thể yên tâm uống rượu để chữa cho đầu mình dù tôi đã nghĩ mình sẽ không bao giờ dám ngửi rượu nữa.
Nói rồi ông ta chui xuống khoang thuyền, cạy nắp hũ rượu và uống một lúc lâu, ngợi ca tất cả các vị thần Ai Cập và Babylon mà ông ta biết tên cũng như không biết tên. Mỗi lần nhắc tên một vị thần, ông ta lại nghiêng hũ cho đến khi ngã vật xuống tấm thảm và ngủ thiếp đi rồi bắt đầu ngáy ồm ồm như hà mã.
Tôi tức điên với cách hành xử của ông ta đến mức muốn lăn ông ta xuống sông và dìm chết ông ta, nhưng Minea nói:
- Kaptah này nói đúng vì mỗi ngày một nỗi bận tâm riêng. Vậy tại sao chúng ta không uống rượu và mừng vui ở nơi dòng sông đưa ta đến, bởi đây là một nơi thật đẹp, có đám sậy bảo vệ chúng ta và đàn vịt đang kêu vang trong đó. Em cũng nhìn thấy những con vịt vươn thẳng cánh, ngóng cổ bay đến nơi làm tổ, nước lấp lánh xanh, vàng trong ánh nắng mặt trời và tim em nhẹ bỗng như chim sau khi được giải thoát khỏi kiếp nô lệ.
Ngẫm nghĩ những điều cô ấy nói và thấy thật đúng, tôi nói:
- Khi cả hai người đều điên, tại sao tôi không điên, vì thành thật mà nói tôi cũng mặc kệ điều gì sẽ xảy ra, da tôi bị phơi khô trên tường vào ngày mai hay sau mười năm nữa thì cũng thế cả, vì tất cả những điều này đã được viết trong các vì sao trước ngày chúng ta sinh ra như các giáo sĩ của Tháp đã dạy tôi. Mặt trời chiếu ánh nắng rực rỡ và cây cối xanh mát ven sông, vì thế tôi muốn xuống sông bơi và bắt cá bằng tay như tôi đã từng làm khi còn bé, bởi vì hôm nay là một ngày tốt lành như những ngày khác.
Thế là chúng tôi xuống sông bơi, để mặt trời hong khô quần áo. Rồi chúng tôi cùng nhau ăn uống, Minea đã tế thần của cô, nhảy những điệu nhảy thần linh trên thuyền khiến ngực tôi tức nghẹn và tôi thở dồn dập khi nhìn cô. Vì vậy, tôi nói với cô:
- Trong đời mình chỉ có một lần tôi nói với một cô gái là “em yêu”! Nhưng với tôi vòng tay cô ta như một lò lửa và cơ thể cô ta giống như một sa mạc khô cằn không làm mát được tôi. Vì vậy, Minea, tôi van em, hãy để tôi thoát khỏi vòng quỷ quyệt mà chân tay em đã khóa tôi vào và đừng nhìn tôi bằng cái nhìn như ánh trăng đang chiếu sáng dòng sông, nếu không tôi sẽ nói với em là "yêu dấu của tôi" và em sẽ đưa tôi đến với tội lỗi và cái chết, như cô gái kia đã làm.
Minea tò mò nhìn tôi và nói:
- Sinuhe, qua lời ông nói với em, em nghĩ chắc ông đã phải lòng những người đàn bà kỳ lạ, nhưng có thể đàn bà ở nước ông là như thế. Ông không cần phải lo lắng về em vì em không có ý định cám dỗ ông như ông sợ. Vì thần của em đã cấm em đụng vào đàn ông và nếu làm thế, em sẽ phải chết. Do đó, em tự bảo vệ mình và không bao giờ có ý định cám dỗ ông như ông nghĩ, mặc dù em không hiểu được do đâu trong đầu ông có những suy nghĩ như thế.
Cô đưa hai tay ôm đầu tôi đặt lên đầu gối mình rồi đưa tay xoa má và tóc tôi, nói:
- Ông thật ngốc nghếch khi nói xấu đàn bà vì dù có những người đàn bà đầu độc mọi giếng nước, song chắc chắn cũng có những người như nguồn nước trên sa mạc hay sương ướt trên đồng cỏ khô. Nhưng dù đầu ông đặc, dại khờ và tóc ông đen, thô cứng, song em thích giữ nó trong tay mình, bởi vì trong ông cũng như trong mắt và cánh tay ông có cái gì đó rất đáng yêu mời gọi em. Vì thế em rất tiếc khi không thể đem đến cho ông những gì ông muốn và em không chỉ tiếc cho ông mà còn tiếc cho số mệnh của chính em, nếu lời thú nhận không chút e thẹn này làm ông vui.
Nước xanh mướt, vàng óng dập dềnh vỗ bên mạn thuyền, tôi cầm tay cô, đôi bàn tay rắn chắc và đẹp. Như kẻ sắp chết đuối, tôi nắm chặt tay cô, nhìn vào cặp mắt trong suốt như ánh trăng dưới dòng sông, ấm áp như những cái vuốt ve, và nói:
- Minea, em yêu của ta! Trên thế gian có rất nhiều thần linh và mỗi vương quốc có những vị thần riêng của mình mà con số không có đủ để đếm hết và ta đã quá mệt mỏi với tất cả các vị thần mà con người đã nghĩ ra chỉ vì nỗi sợ hãi của chính mình, ta đoán vậy. Vì thế, hãy từ bỏ thần của em, bởi đòi hỏi của thần thật tàn nhẫn và vô lý, tàn nhẫn nhất là đúng hôm nay, ngay lúc này. Ta sẽ đưa em đến một xứ sở mà quyền lực thần của em không với tới được, dù chúng ta phải đi đến tận cùng trái đất, phải ăn cỏ và cá khô ở vùng đất của những tộc người mọi rợ, đêm phải ngủ trong đám sậy cho đến hết đời, bởi vì phải có một nơi nào đó ở biên giới mà vị thần của em không với tới.
Nhưng cô giữ chặt tay tôi, mắt nhìn sang bên và nói:
- Thần của em đã vạch một ranh giới trong trái tim em, nên dù em đi tới bất cứ nơi đâu, quyền lực của thần cũng với tới và em phải chết nếu chạm vào đàn ông. Khi nhìn ông hôm nay, em tin rằng thần của em có lẽ là một vị thần độc ác và vô lý khi đòi hỏi như vậy, nhưng bản thân em không thể chống lại được thần và có thể ngày mai thôi, mọi việc lại khác đi khi ông chán em và quên em, bởi đàn ông là những người như thế.
- Không ai biết ngày mai chuyện gì sẽ đến, - tôi sốt ruột nói và tất cả trong tôi bùng lên chống lại cô ấy, như thể cơ thể tôi là một đống sậy trên bãi sông đã bị mặt trời thiêu đốt hết năm này sang năm khác cho đến khi chỉ một tia hồng cũng làm nó bùng lên thành đống lửa. - Những điều em nói là cái cớ vớ vẩn và em chỉ muốn trêu chọc ta, giống như đàn bà thường làm, để cười trên nỗi đau của ta.
Nhưng cô rút tay lại, nhìn tôi với vẻ trách móc và nói:
- Em không phải là một cô gái ít học, mà ngoài tiếng của mình, em còn nói cả tiếng Babylon và tiếng của ông, em biết viết tên mình bằng ba thứ chữ trên đất sét cũng như trên giấy. Em cũng đã đi đến nhiều thành phố lớn và đã đến bờ biển Ai Cập với thần của mình, em đã nhảy múa trước nhiều loại khán giả, đến mức họ ngạc nhiên với tài nghệ của em, cho đến khi các thương nhân cướp em vì thuyền của em bị đắm. Em biết rõ đàn ông và đàn bà đều như nhau ở mọi vương quốc mặc dù màu da và tiếng nói của họ khác nhau và họ thờ phụng các vị thần khác nhau. Cũng như thế em biết người có học ở tất cả các thành phố lớn đều giống nhau, suy nghĩ và hành xử không khác biệt nhiều, họ chỉ vui thú với rượu và không còn tin vào thần linh, mặc dù họ phụng sự thần vì đó là tập tục tốt và cẩn tắc thì vô ưu. Em biết rõ những điều này, nhưng ngay từ nhỏ em đã lớn lên trong các nhà trại của thần linh và được tấn phong vào các nghi lễ bí mật của thần mình để không có thế lực hay ma quỷ nào có thể tách em ra khỏi thần của em. Nếu ông đã múa trước những con bò đực, nhảy giữa những chiếc sừng sắc nhọn và thử đưa chân chạm nhẹ, đùa giỡn với mõm bò đang rống trong khi múa, ông sẽ biết điều em nói là gì. Nhưng em nghĩ ông chưa bao giờ nhìn các cô gái và những chàng trai nhảy múa trước những con bò.
- Ta từng nghe kể, - tôi nói. - Ta cũng biết đó là những trò chơi ở miền Hạ nhưng ta nghĩ những trò này mua vui cho dân chúng, dù lẽ ra phải đoán được là các vị thần cũng nhúng tay vào như với tất cả những chuyện khác đã và đang xảy ra. Nhưng nếu đúng là thế thì ở Ai Cập cũng cúng tế bò đực có các biểu tượng của thần và chỉ một lần trong một đời người, mặc dù ta chưa bao giờ nghe nói ai nhảy trên cổ bò, bởi vì như thế là sỉ nhục và xúc phạm thần bò. Vì bò này biết tiên tri. Nhưng nếu em muốn ta hiểu rằng em phải dành sự trinh trắng của mình cho các bò đực thì chuyện em nói ta chưa nghe đến bao giờ, mặc dù ta biết rất rõ trong các nghi lễ bí mật tế mẹ đất ở Syria, các giáo sĩ hiến tế những cô gái trinh trắng được chọn lựa.
Lúc đó cô tát hai bên má tôi đau điếng, hai mắt cô long sòng sọc như mắt mèo hoang trong bóng tối và cô giận dữ hét lên:
- Khi ông nói điều đó, tôi biết đàn ông và dê cụ không khác gì nhau, mọi ý nghĩ của ông chỉ xoay quanh nhục dục thân xác, khiến dê cái cũng có thể làm cho ông thỏa mãn ham muốn như đàn bà. Vậy nên hãy cút xuống âm phủ đi cho tôi nhờ và để tôi yên, đừng chọc tức tôi bằng sự ghen tuông của ông vì ông nói những điều mà ông không biết chút gì.
Điều cô ta nói thật tồi tệ và những cái tát làm má tôi bỏng rát nên tôi mất hết hứng, rời cô ta và đi đến phía cuối thuyền. Để giết thời gian, tôi mở túi đồ nghề của mình rồi lau chùi các dụng cụ và cân thuốc. Cô ta ngồi nơi mũi thuyền và giận dữ giẫm gót chân xuống thuyền, nhưng một lát sau cô bực bội cởi xiêm áo, xoa dầu lên người rồi bắt đầu nhảy múa và uốn người mạnh đến mức làm thuyền lắc lư. Tôi không thể không lén lút liếc nhìn, vì tài nghệ của cô ta thật tuyệt vời và không thể tin nổi. Rồi cô ưỡn người về phía sau, hai tay chống xuống sàn, người cong như cánh cung, sau đó hai chân giơ thẳng lên không trung. Tất cả các thớ thịt trên cơ thể cô rung lên dưới làn da xoa dầu bóng loáng. Cô thở mạnh và mái tóc hất tung quanh đầu vì điệu nhảy của cô đòi hỏi sức mạnh và kỹ năng mà tôi chưa bao giờ được nhìn thấy, mặc dù tôi đã chứng kiến sự điêu luyện của các vũ nữ trong các nhà vui ở nhiều nơi.
Khi nhìn cô, nỗi tức giận trong tôi tan biến và tôi không còn nghĩ đến việc mình đã tiêu phí bao nhiêu để đánh cắp cô gái lạ thường và vô ơn này từ hậu cung của vua Babylon. Tôi cũng nhớ cô ấy đã suýt dùng dao tự sát để bảo vệ sự trinh trắng của mình và tôi hiểu mình đã xử sự sai và thật tệ khi đòi hỏi cô ấy cái mà cô không thể cho tôi. Nhảy múa đến mệt lử, mồ hôi như một lớp ngọc trai phủ khắp làn da và từng thớ thịt run rẩy vì quá mệt, cô gạt mồ hôi và rửa sạch chân tay dưới sông. Rồi cô mặc xiêm áo lên người, che kín cả đầu và tôi nghe thấy cô khóc. Lúc đó tôi quên hết cả thuốc và dụng cụ của mình, vội vàng lại gần, thận trọng đặt tay lên vai cô và hỏi:
- Em ốm à?
Nhưng cô không trả lời mà gạt tay tôi ra và khóc to hơn. Tôi ngồi xuống bên cạnh cô, nỗi buồn trào dâng trong tim, tôi nói:
- Minea, em yêu của anh, đừng khóc, ít ra thì cũng đừng vì anh, vì chắc chắn anh sẽ không động vào em, không bao giờ, cho dù chính em bảo anh làm điều đó, bởi vì anh muốn giúp em thoát khỏi nỗi buồn đau và anh muốn khi nào em cũng như em lúc này.
Cô ngẩng đầu, giận dữ lau nước mắt và cáu kỉnh:
- Em không hề sợ đau đớn hay buồn phiền, nếu anh nghĩ vậy, đồ ngốc ạ. Mà em cũng hoàn toàn không khóc vì anh mà chỉ khóc vì số phận đã dứt em ra khỏi thần của mình và làm người em mềm như miếng giẻ ướt, đến nỗi ánh mắt của người đàn ông ngu ngốc đã làm chân tay em bủn rủn.
Nhưng cô không nhìn tôi khi nói điều này, mà bướng bỉnh nhìn tránh sang chỗ khác, chớp mắt liên hồi và chùi nước mắt. Tôi nắm tay cô, cô không rụt tay lại mà quay sang tôi và nói:
- Sinuhe, Người Ai Cập, chắc trong mắt anh em rất vô ơn và nhõng nhẽo, nhưng em không biết làm gì khác vì em không còn nhận ra bản thân mình nữa. Nếu được phép, em sẽ rất vui kể cho anh nghe về thần của mình để anh hiểu rõ em hơn. Nhưng cho người chưa được tấn phong thì không được phép kể, nên em chỉ có thể nói ngài là thần biển và sống trong một ngôi nhà tối tăm trong núi và ai đã bước chân vào nhà ngài sẽ không bao giờ trở về mà sẽ sống với ngài suốt đời. Nhưng một số người nói rằng ngài có hình dạng giống bò mặc dù ngài sống ở biển, vì thế chúng em, những người được tấn phong cho ngài, đều được dạy nhảy múa trước bò đực. Người ta cũng nói rằng ngài giống người nhưng có đầu bò, song sau khi đến nhiều vương quốc và các thành phố lớn, em nghĩ đó là truyền thuyết. Em chỉ biết là mỗi năm mười hai người trong số những người được tấn phong và chọn ra cho ngài lần lượt vào sống trong nhà của ngài vào đêm rằm mỗi tháng và với những người được tấn phong, không có niềm vui nào lớn hơn là được vào sống ở nhà thần của mình. Số phận cũng chọn em nhưng trước khi đến lượt, thuyền của em bị đắm, như em đã kể, và các thương gia đã cướp rồi bán em ở chợ nô lệ Babylon. Suốt những ngày thơ bé, em đã mơ tới những sảnh phòng tráng lệ, chiếc giường của thần cũng như cuộc sống bất tử, bởi vì nếu muốn, người được tấn phong có thể trở về sau một tháng sống ở nhà của thần nhưng chưa bao giờ có ai từ đó trở về. Vì vậy em tin là với những người từng gặp thần, cuộc sống trên dương gian không có gì mới lạ.
Khi cô ấy nói, trong tâm trí tôi như có đám mây che khuất mặt trời và tất cả trở nên xám xịt, chết chóc, người tôi run lên vì biết Minea không phải dành cho tôi. Câu chuyện cô ấy kể giống hệt những điều các giáo sĩ đã kể ở tất cả các vương quốc, nhưng cô ấy tin và điều đó chia cách cô với tôi mãi mãi. Tôi không muốn làm cô hoảng sợ vì những lời nói của mình hoặc làm cô buồn bã, mà tôi sưởi ấm tay cô trong tay mình, cuối cùng tôi nói:
- Anh hiểu em muốn trở về với thần của mình, vì thế anh sẽ đưa em ra biển để trở lại đảo Crete vì bây giờ anh đã biết em từ đảo Crete đến. Anh đã suy đoán điều đó khi em kể về những con bò đực, nhưng bây giờ anh biết điều đó khi em kể về vị thần sống trong ngôi nhà tối vì các thương gia và thủy thủ ở Simyra đã kể với anh về ngài, mặc dù cho đến giờ anh vẫn không tin họ. Mặt khác họ lại kể các giáo sĩ đã giết những người cố tìm cách trở về từ nhà thần để không ai biết thần biển như thế nào. Nhưng, dĩ nhiên, đây là câu chuyện của các thủy thủ và đám thường dân, còn em biết mọi chuyện rõ hơn vì em đã từng được tấn phong.
- Em phải quay lại, anh biết đấy, - cô nói giọng nài nỉ. - Em sẽ không được yên ở bất cứ nơi nào trên thế gian nếu em không quay trở lại, bởi vì từ khi còn nhỏ em đã được dạy dỗ trong trường trại của thần. Mặc dù vậy em thấy hạnh phúc với từng ngày em còn ở bên anh, với từng giây em còn được nhìn anh. Không phải vì anh đã cứu em khỏi ác quỷ mà vì không có ai đối xử với em như anh, nên em không còn khát khao được vào nhà thần như trước nữa mà đến đó với nỗi buồn bã trong lòng. Nếu được phép, sau một thời hạn nhất định em sẽ từ đó trở về bên anh, mặc dù em không tin, vì chưa ai quay trở lại. Nhưng thời gian của chúng ta ngắn ngủi và không ai biết trước ngày mai sẽ như thế nào, như anh nói. Do đó Sinuhe ơi, tốt nhất là chúng ta hãy vui cho mỗi một ngày, chúng ta hãy vui với đàn vịt đang vỗ cánh bay qua đầu chúng ta, chúng ta hãy vui với dòng sông và lau sậy, với thức ăn và rượu mà không nghĩ điều gì sẽ đến.
Nếu tôi là một người khác, tôi sẽ dùng sức ép buộc cô ấy đi với mình, đưa cô đến đất nước mình và sống với cô hết những ngày còn lại của cuộc đời. Nhưng tôi biết cô ấy đã nói thật, cô sẽ không có một ngày bình yên nếu phản bội lại vị thần mà cô đã vì ngài mà sống và được dạy dỗ, và sẽ có ngày cô nguyền rủa và rời bỏ tôi. Sức mạnh của thần linh quả thật khủng khiếp với những ai tin, còn với những ai không tin, quyền lực của thần linh không chạm tới được họ. Vì thế tôi nghĩ cô ấy có thể sẽ chết nếu tôi chạm vào cô, vì tôi đã thấy nhiều người khô héo và chết trong Nhà Sống không có thương tích hay bệnh tật gì mà chỉ vì họ đã phản lại vị thần mình sùng tín.
Những điều này chắc chắn đã được viết vào các vì sao trước ngày tôi được sinh ra và không thể thay đổi. Vì thế chúng tôi cùng ăn và uống trên thuyền ẩn trong đám sậy và tương lai mới xa xôi làm sao. Minea cúi đầu, lấy tóc vuốt nhẹ má tôi và mỉm cười với tôi. Sau khi uống rượu, cô ấy chạm đôi môi thơm nồng mùi rượu vào môi tôi và nỗi đau mà cô mang đến cho trái tim tôi thật ngọt ngào, có lẽ còn ngọt ngào hơn nếu tôi ân ái cùng cô, dù lúc đó tôi không hề nghĩ đến điều này.
❖ 2 ❖Chập tối, Kaptah tỉnh dậy trong mui thuyền, ông chui ra khỏi tấm thảm, vừa dụi mắt vừa ngáp và nói:
- Nhờ bọ hung và cả thần Amon nên đầu tôi không cứng như cái đe trong xưởng rèn mà tôi thấy hòa nhập lại với thế gian, chỉ cần có thứ gì để ăn vì tôi cảm thấy trong bụng mình như có một vài con sư tử đã nhịn ăn nhiều ngày.
Không thèm xin phép, ông ta ngồi ăn cùng chúng tôi, nhai rau ráu những con chim chiên trong nồi đất rồi phì phì nhổ xương qua mạn thuyền xuống nước.
Nhưng thấy ông ấy tôi lại nhớ ra tình cảnh của chúng tôi và vô cùng hoảng sợ, tôi nói:
- Con dơi đêm say xỉn kia, đáng lẽ ngươi phải đưa ra lời khuyên để động viên và giúp chúng ta ra khỏi tình cảnh nguy hiểm này, để cả ba chúng ta không bị treo ngược đầu cạnh nhau trên tường, đằng này ngươi lại uống đến say xỉn và nằm bẹp như lợn giữa đống rác. Nói ngay đi, chúng ta phải làm gì, vì lính của triều đình chắc chắn đã lên thuyền đuổi theo để giết chúng ta.
Nhưng Kaptah không lo sợ mà nói:
- Nếu đúng như ông nói, nhà vua không mong gặp ông trong vòng ba mươi ngày, lại còn bảo sẽ sai lính dùng gậy đuổi ông ra khỏi cung điện nếu ông đến diện kiến ngài trước thời hạn đó. Do vậy, tôi nghĩ chúng ta không phải vội, nhưng nếu sự việc trở nên tồi tệ và những kẻ khênh kiệu để lộ việc ông đã trốn hoặc bọn hoạn quan trong hậu cung làm rối tung lên thì chúng ta không thể làm gì được nữa. Tuy nhiên, tôi vẫn tin vào bọ hung và tôi nghĩ ông đã rất dở khi cho tôi uống nước anh túc khiến đầu tôi đau như thể thợ giày đang chích nó bằng kim, vì nếu ông không vội vã quá, có thể Burraburiash đã bị hóc xương hoặc trượt chân ngã trẹo cổ để tôi trở thành vua của Babylon và của cả bốn phương đất thì bây giờ chúng ta không gặp rắc rối gì cả. Tôi rất tin vào bọ hung nhưng tôi vẫn tha thứ cho ông vì ông là ông chủ của tôi và ông không thể am hiểu hơn. Tôi cũng sẽ tha thứ cho ông vì đã nhốt tôi trong cái chum sành không xứng với tôi chút nào khiến tôi gần như nghẹt thở. Nhưng vì tất cả những điều này, tôi nghĩ tốt nhất ông nên chữa cho đầu tôi khỏi trước khi tôi cho ông lời khuyên vì vào buổi sáng, ông nhận được lời khuyên từ củ cải thối dễ dàng hơn là từ đầu tôi. Tuy nhiên bây giờ tôi sẵn sàng đem tất cả sự khôn ngoan của mình cho ông dùng vì tôi biết rất rõ rằng nếu không có tôi đi cùng ông trong thế giới này, ông sẽ như cừu con lạc mẹ.
Tôi bảo ông ấy thôi lải nhải những lời nhảm nhí đó và hỏi theo ông ấy chúng tôi nên đi đâu để thoát khỏi xứ Babylon. Kaptah gãi đầu và nói:
- Quả thật chiếc thuyền này quá lớn để ba người chèo ngược sông và thật tình tôi không hề thích chèo vì mái chèo chà xát làm phồng rộp lòng bàn tay. Vì vậy chúng ta phải lên đất liền và trộm vài con lừa để thồ hành lý của chúng ta. Tốt nhất chúng ta nên ăn vận tồi tàn và mặc cả mọi thứ trong nhà trọ và trong làng để tránh sự chú ý, còn ông không nên nói mình là thầy thuốc mà giả vờ là một người khác. Vì vậy chúng ta hãy làm một gánh hát, tối tối mua vui cho dân chúng ở các sân đất nện của làng, vì không ai xua đuổi người hát rong, mà quân cướp đường cũng nghĩ lũ hát rong không đáng cướp. Ông bói dầu cho nông dân như ông đã học và tôi sẽ kể cho họ nghe những câu chuyện cười mà tôi có nhiều vô kể, như ông biết, còn cô gái có thể nhảy múa để kiếm bánh ăn. Nhưng chúng ta cũng có thể thuê người chèo thuyền chèo thuyền này đến biên giới, bởi vì nói cho cùng, tất cả đều tùy thuộc vào bọ hung và nó có thể bảo vệ chúng ta ở dưới sông cũng như trên cạn. Tuy nhiên, cẩn tắc vô áy náy và cũng không hay nếu chúng ta lấy thuyền của những người chèo thuyền nghèo khổ, chắc chắn đang rình rập chúng ta trong đám sậy, chờ tối đến để giết chúng ta. Vì vậy, tốt nhất chúng ta nên đi ngay lập tức và nếu các tay chèo có gắng giục lính gác triều đình đuổi theo chúng ta, tôi nghĩ không ai tin lời họ vì họ sẽ nói về ma quỷ đập phá trong chum đựng thi thể và những điều kỳ lạ họ trải qua, khiến quân lính và quan tòa đưa họ vào đền để nghe các giáo sĩ mà không nhọc công kiểm tra câu chuyện của họ.
Trời đã tối nên chúng tôi phải làm thật nhanh vì có thể Kaptah đoán đúng rằng các tay chèo đã bớt sợ và sẽ quay lại lấy thuyền của họ về, mà họ những mười người lực lưỡng còn chúng tôi chỉ có ba. Vì vậy, chúng tôi xoa lên người dầu bôi của thợ chèo thuyền, bôi đất sét lên quần áo và mặt rồi chia nhau phần vàng, bạc còn lại của tôi để giấu trong thắt lưng và quần áo của mình. Chúng tôi quấn tráp đồ nghề y mà tôi không muốn bỏ lại vào trong tấm thảm và chất hết lên lưng Kaptah mặc cho ông ấy ra sức phản đối. Sau khi lội lên đến bờ, chúng tôi đẩy cho thuyền dập dềnh trôi vào đám sậy. Trên thuyền còn lại thức ăn và một vài be rượu, vì Kaptah tin rằng các tay chèo sẽ hài lòng và uống say mèm mà không thèm đuổi theo chúng tôi. Nếu sau khi tỉnh lại họ đến công đường tố cáo chúng tôi thì họ sẽ kể ra mười câu chuyện khác nhau về một việc và chuyện của họ sẽ rối tung buộc quan tòa sai lính dùng gậy đuổi họ đi. Tôi hy vọng như vậy.
Thế là chúng tôi bắt đầu lên đường và đến được vùng đất có người canh tác, tìm thấy con đường hành hương rồi đi dọc đường đó suốt đêm, mặc cho Kaptah lẩm bẩm và nguyền rủa sự có mặt của mình trên thế gian này vì gói đồ đè nặng làm cổ ông ấy gập xuống. Sáng ra, chúng tôi đến một ngôi làng và được người dân ở đó chào đón rất thân thiện vì chúng tôi dám đi vào ban đêm mà không sợ ma quỷ. Họ cho chúng tôi cháo sữa ăn sáng và bán cho chúng tôi hai con lừa rồi vui mừng tiễn chúng tôi, vì họ là những người chất phác, hàng bao tháng trời không nhìn thấy nhẫn bạc, đóng thuế bằng ngũ cốc và gia súc, sống cùng gia súc và thú nuôi của mình trong các túp lều đất sét.
Như thế, chúng tôi cuốc bộ hết ngày này sang ngày khác dọc theo các con đường của xứ Babylon, chạm trán các thương nhân, nhường đường cho kiệu của những người quyền quý và cúi chào khi họ đi qua. Mặt trời đốt sém da chúng tôi, quần áo của chúng tôi bị sờn và chúng tôi quen dần với việc trình diễn trước dân chúng trên những sàn đất nện. Tôi đổ dầu vào nước và tiên đoán cho họ những ngày tốt đẹp với những vụ mùa bội thu, những đứa bé trai và những cuộc hôn nhân giàu có, vì tôi thấy thương họ sống nghèo khó và không muốn tiên đoán điều gì xấu cho họ. Họ tin tôi và vô cùng mừng rỡ. Nhưng nếu tôi phải kể thật những gì mình thấy, tôi sẽ phải nói cho họ về những kẻ thu thuế độc ác, những cú nện gậy và những quan tòa xảo trá, những năm mất mùa đói khát, những cơn sốt trong mùa nổi, nạn cào cào và ruồi, hạn hán đỏ lửa và lụt thối cây vào mùa hè, cuộc đời lao dịch và sau đó là cái chết, vì đó là cuộc sống của họ. Kaptah kể cho họ nghe những câu chuyện về phù thủy và công chúa, về các vương quốc xa xôi nơi con người ta đi đầu nằm trong nách và biến thành sói mỗi năm một lần. Họ tin chuyện của ông ấy, kính trọng ông và cho ông ăn mập ú. Minea cũng múa cho họ xem trên nền đất nện, vì cô cần múa hằng ngày để luyện tài nghệ vì thần của mình; họ ngạc nhiên trước tài năng của cô và nói: “Từ trước đến giờ chúng tôi chưa từng thấy ai múa như thế này”.
Hành trình này rất có ích cho tôi, bởi vì tôi đã học để nhận ra nếu người giàu có và quyền quý ở tất cả các nước và các thành phố lớn đều giống nhau và suy nghĩ theo cùng một cách, thì người nghèo ở tất cả các nơi cũng giống nhau và suy nghĩ như nhau, mặc dù phong tục của họ khác nhau và thần linh của họ có tên khác nhau. Tôi học để nhận ra người nghèo nhân hậu hơn người giàu, vì khi nghĩ chúng tôi nghèo, họ đã cho chúng tôi cháo và cá khô từ lòng tốt của mình, không mong chờ chúng tôi tặng lại họ thứ gì, trong khi người giàu dùng gậy xua đuổi người nghèo đi và miệt thị họ. Tôi biết được rằng người nghèo cũng cảm nhận được niềm vui cũng như nỗi buồn, niềm mong nhớ cũng như cái chết, và một đứa trẻ nghèo khó cũng được sinh ra trên đời này như một đứa trẻ giàu sang. Trái tim tôi trở nên yếu mềm vì sự chất phác của họ và tôi không thể không chữa trị khi nhìn thấy những người ốm, những cục mủ không được chọc thủng và những cặp mắt mờ mà tôi biết rằng sẽ sớm bị mù nếu không có sự giúp đỡ của tôi. Và tôi không đòi hỏi họ tặng quà cho tất cả những việc đó mà làm thế nào tùy ý.
Nhưng vì sao tôi làm tất cả những điều này bởi làm như thế có thể khiến chúng tôi bại lộ, tôi không thể nói. Có lẽ trái tim tôi yếu mềm vì Minea, người tôi nhìn thấy mỗi ngày và bằng sức trẻ của mình đã sưởi ấm tôi ban đêm khi chúng tôi nằm trên nền đất sét sực mùi rơm và phân gia súc. Có thể tôi dâng tặng các vị thần những việc làm tốt vì cô ấy, nhưng cũng có thể vì tôi muốn luyện tập tay nghề của mình để không quên sự chắc chắn của đôi tay và sự chính xác của đôi mắt trong chẩn đoán bệnh. Bởi càng sống lâu tôi càng hiểu thêm rằng người ta làm bất cứ việc gì thường vì nhiều lý do, mà chính họ đôi khi cũng không biết được. Vì vậy, tất cả các việc làm của con người đều là cát bụi dưới chân tôi khi tôi không biết họ làm việc đó vì mục đích và mong muốn gì.
Chúng tôi đã trải qua nhiều gian khổ suốt hành trình, đôi tay tôi chai cứng và da bàn chân dày cộp, mặt trời làm khô dầu trên mặt tôi và bụi làm mờ mắt tôi nhưng bỏ qua tất cả những cái đó, sau này khi nhìn lại, tôi thấy hành trình dọc theo những con đường bụi bặm của Babylon này của chúng tôi thật đẹp khiến tôi không thể nào quên mà sẵn sàng đổi đi mọi thứ khác tôi đã trải qua và sở hữu được trên thế gian này, nếu tôi có thể thực hiện hành trình đó một lần nữa, trẻ trung như vậy, đầy cảnh giác hệt như vậy và không bao giờ mệt mỏi, với Minea bước bên cạnh tôi, mắt lấp lánh như ánh trăng dưới sông. Suốt cuộc hành trình, cái chết bám theo chúng tôi như hình với bóng, nếu chúng tôi bị phát hiện và rơi vào tay nhà vua thì cái chết của chúng tôi sẽ rất kinh hoàng. Nhưng trong những ngày xa xôi đó tôi không hề nghĩ đến cái chết và không sợ nó, mặc dù lúc đó cuộc sống đối với tôi quý giá hơn bao giờ hết, chừng nào tôi còn được đi bên cạnh Minea và nhìn cô ấy nhảy múa trên nền đất nện. Vì Minea, tôi quên đi tội lỗi và sự nhục nhã thời trẻ của mình, mỗi buổi sáng khi thức dậy trong tiếng cừu be be và tiếng gia súc, trái tim tôi nhẹ bỗng như chim khi bước ra ngoài nhìn mặt trời mọc và như thuyền vàng giương buồm lướt theo đường chân trời đã được màn đêm rửa sạch thành màu xanh lam biêng biếc.
Cuối cùng, chúng tôi đến vùng biên ải đã bị đốt trụi đến hoang vu, những người chăn gia súc nghĩ rằng chúng tôi là những người nghèo nên chỉ dẫn chúng tôi, để chúng tôi đi vào vùng đất Mitanni và Naharani mà không phải trả thuế và tránh gặp phải lính canh của cả hai vương quốc. Chỉ sau khi đến một thành phố lớn, nơi mọi người không còn biết nhau, chúng tôi mới đi đến các sạp hàng trong các khu chợ mua cho mình quần áo mới, tắm rửa rồi ăn mặc theo đúng địa vị của mình và đến ở trong một nhà trọ sang trọng. Vì vàng của tôi đã bị hao hụt, tôi ở lại thành phố này một thời gian để hành nghề của mình. Tôi tiếp rất nhiều bệnh nhân và chữa lành cho rất nhiều người, vì dân Mitanni vẫn luôn tò mò và yêu thích người lạ. Minea cũng thu hút sự chú ý với vẻ đẹp của cô ấy và nhiều người hỏi tôi mua cô ấy. Kaptah được nghỉ ngơi, lại sức, tăng cân và gặp rất nhiều phụ nữ xởi lởi với ông ấy vì những câu chuyện ông kể. Sau khi nốc rượu trong các nhà vui, ông ấy kể cho họ nghe về một ngày làm vua ở Babylon, mọi người phá lên cười nhạo ông ấy, đập tay đen đét lên đầu gối và nói: “Chúng ta chưa bao giờ thấy ai nói khoác không ngượng mồm như thế này. Lưỡi ông ta dài và trơn như suối”.
Thời gian trôi đi cho đến khi Minea bắt đầu nhìn tôi với nỗi lo lắng hiện lên qua đôi mắt và đêm đêm cô thao thức, khóc ròng. Cuối cùng tôi nói với cô:
- Anh biết em nhớ đất nước, nhớ thần của em, và chúng ta còn chặng đường dài phía trước. Nhưng trước tiên anh phải đến thăm xứ Hatti, miền đất của người Hittite, vì những lý do anh không thể nói với em. Sau khi hỏi thăm các thương nhân, khách du lịch và nhà trọ, anh đã biết được nhiều thông tin mặc dù những thông tin đó mâu thuẫn với nhau, anh nghĩ từ đó chúng ta có thể đi thuyền đến đảo Crete song anh không dám chắc, còn nếu em muốn, anh sẽ đưa em đến thẳng bờ biển Syria, từ đó mỗi tuần đều có thuyền đi đến đất nước của em. Nhưng, anh nghe nói một đoàn sứ thần sắp rời khỏi đây để mang quà hằng năm của vua Mitanni đến cho vua xứ Hatti, chúng ta có thể đi cùng với họ một cách an toàn, được nhìn và trải nghiệm nhiều điều mà chúng ta chưa biết đến trước đó, nhưng cơ hội như thế một năm nữa mới đến với anh. Song anh không muốn tự mình quyết định điều này mà tùy thuộc vào ý muốn của em.
Trong thâm tâm tôi biết mình lừa dối cô ấy, vì tôi muốn đến vùng đất Hatti chỉ nhằm giữ cô ấy bên cạnh tôi được lâu hơn trước khi buộc phải từ bỏ cô ấy vì thần của cô. Nhưng cô nói:
- Em là gì mà thay đổi kế hoạch của anh. Em vui lòng theo anh đến bất cứ nơi nào, một khi anh hứa sẽ đưa em về đất mẹ của em. Em cũng biết rằng các cô gái và chàng trai Hittite xứ Hatti có phong tục nhảy múa cho bò rừng trên cánh đồng, nên từ đó đến đảo Crete chắc không quá xa. Như thế, em có thể luyện tập nhảy múa, vì gần một năm rồi em không nhảy trước bò đực nên sợ chúng sẽ dùng sừng đâm em nếu em vụng về nhảy trước chúng ở Crete.
Tôi nói với cô ấy:
- Anh không biết gì về bò đực nhưng anh phải nói với em rằng theo những gì anh biết được, người Hittite là những người độc ác và dối trá, nên chúng ta có thể gặp nhiều nguy hiểm trên đường đi, thậm chí có thể bị giết. Vì vậy có lẽ tốt nhất em nên ở lại Mitanni đợi đến khi anh trở lại, và anh có thể để vàng lại cho em nên em có thể yên tâm ở đây trong thời gian đó.
Nhưng cô ấy nói:
- Đó là lời khuyên dại dột, Sinuhe ạ. Anh đi đâu, em sẽ đi đó và nếu chúng ta bị giết, em sẽ không tiếc cho bản thân mình mà chỉ tiếc cho anh.
Thế là tôi quyết định gia nhập đoàn sứ thần của hoàng gia với tư cách là danh y để được an toàn đến vùng đất Hatti, còn được gọi là Kheta. Nhưng khi nghe thế, Kaptah bắt đầu nguyền rủa và kêu gào thần linh giúp đỡ:
- Chúng ta vừa thoát khỏi miệng tử thần này thì ông chủ của tôi lại mơ đến cuống họng một tử thần khác. Ai cũng biết người Hittite giống như những con thú độc ác, thậm chí còn ác độc hơn, ăn thịt người và chọc thủng mắt người lạ để bắt họ quay những chiếc cối đá lớn. Thần linh đã lấy sự điên rồ trừng phạt ông chủ tôi, và cả cô Minea cũng ngốc nghếch khi bảo vệ ông ấy, tốt hơn hết là chúng ta trói ông chủ lại rồi nhốt ông ấy trong một phòng kín và cho đỉa vào dưới khuỷu đầu gối để ông ấy bình tĩnh lại. Thề có bọ hung, tôi vừa mới lấy lại được da thịt, nay lại phải bắt đầu một hành trình gian khó mà vì cái gì chứ. Vì thế, thật đáng nguyền rủa cái ngày tôi được sinh ra trên thế gian này để phải chịu đựng những ý thích điên rồ của ông chủ mất trí của tôi.
Thế là tôi lại phải lấy gậy quất ông ấy mấy cái cho đến khi ông bình tĩnh lại và khi ông ấy đã tĩnh tâm, tôi mới nói:
- Được thôi, như ngươi muốn. Ta sẽ trả tiền và gửi ngươi đến thẳng Simyra với các thương gia. Hãy trông coi nhà của ta ở đó cho đến khi ta trở lại vì ta thực sự ngán đến tận cổ cái tật lải nhải muôn thuở của ngươi rồi.
Nhưng Kaptah lại nổi đóa lên và nói:
- Thế mà được à? Lại còn nói tôi để ông chủ đi một mình đến Hatti, vì như thế có khác gì nhốt con cừu non mới sinh vào chuồng chó, mà như vậy tôi sẽ không bao giờ ngừng buộc tội mình. Vậy nên tôi chỉ hỏi ông chủ một câu và hãy nói thẳng với tôi những gì ông biết. Chúng ta đến Hatti bằng đường biển hay sao?
Tôi bảo với ông ấy theo như tôi biết, giữa Hatti và Mitanni không có biển, mặc dù người này nói có, người kia nói không, và không biết chặng đường đi dài hay ngắn. Lúc đó Kaptah nói:
- Cầu xin bọ hung của tôi phù hộ, vì nếu phải đi bằng đường biển, tôi không thể đi cùng ông chủ vì tôi đã thề với thần linh rằng tôi không bao giờ bước chân lên một chiếc thuyền biển nào nữa. Tôi không thể vì ông mà cũng không phải vì Minea trơ trẽn, nói năng và cư xử như một đứa trẻ này mà phản bội các vị thần tôi có thể kể tên nếu cần.
Nói xong, ông ta bắt đầu thu dọn đồ đạc của chúng tôi và chuẩn bị cho cuộc hành trình, tôi để mặc tất cả cho ông ấy lo, vì ông hiểu rõ những việc đó hơn tôi.
❖ 3 ❖Tôi đã kể những gì mà dân xứ Mitanni nói về người Hittite, còn sau đây tôi sẽ kể những điều mình tận mắt nhìn thấy và biết là đúng sự thật. Nhưng không biết liệu có ai tin những gì tôi kể không, vì sức mạnh của người Hittite đã khiến cả thế giới kinh hoàng đến thế và người ta kể nhiều đến thế về những hành động độc ác, xấu xa của họ. Nhưng dù sao họ cũng có điểm gì đó tốt và đáng để học hỏi, cho dù họ là một dân tộc nguy hiểm, có phong tục khác với phong tục các dân tộc khác trên thế giới. Không phải đất nước họ hỗn loạn như lời kể mà họ có luật lệ và kỷ cương, nên với những người đã được cấp phép, việc đi lại qua núi non hiểm trở trên đất họ an toàn hơn rất nhiều so với bất cứ vương quốc nào khác, đến mức nếu người được cấp phép bị lạc hoặc bị cướp dọc đường, vua của họ sẽ đền bù thiệt hại gấp đôi cho người đó, còn nếu bị chết trong tay người Hittite, nhà vua sẽ bồi thường cho người thân của nạn nhân theo cách tính đặc biệt, theo giá trị người đó có khi còn sống.
Bởi thế nên hành trình cùng đoàn sứ thần của vua Mitanni rất buồn tẻ, không có nhiều điều để kể vì các chiến xa của người Hittite luôn theo sau chúng tôi và họ luôn lo cho chúng tôi đủ đồ ăn và thức uống ở nhà trọ. Người Hittite quen chịu gian khổ, không sợ giá rét cũng không sợ nóng nực, vì họ sống ở vùng đồi núi cằn cỗi và từ thời thơ ấu đã quen với những gian nan khốn khó của cuộc sống nơi đó. Vì vậy họ không sợ chiến tranh, không tiếc thân mình, coi khinh những dân tộc hèn yếu bị họ chinh phục nhưng coi trọng những dân tộc dũng cảm, kiên cường và kết giao bạn hữu với họ.
Dân của họ gồm nhiều bộ lạc sống trong các bản làng nơi các hoàng thân nắm toàn bộ quyền hành, nhưng quyền cai trị tối cao thuộc về một vị vua tối thượng sống ở thành phố Khattushash nằm giữa những ngọn núi. Ngài là giáo sĩ tối cao, người thống lĩnh quân đội và là vị quan tòa cao nhất, ngài nắm tất cả quyền cai trị đất nước, cai trị cả dân chúng cũng như thần linh và tôi không biết vị vua nào khác có quyền lực tuyệt đối như ngài, mặc dù các vị vua đều được cho là có quyền hành vô biên. Ở các vương quốc khác, cũng như ở Ai Cập, các giáo sĩ và quan tòa kiểm soát các việc làm của vua nhiều hơn ta nghĩ.
Nhưng thành phố nơi quốc vương họ trị vì nằm giữa núi như thế nào, tôi sẽ kể, mặc dù tôi biết có lẽ sẽ không ai tin tôi dù có đọc những điều tôi kể.
Khi đi dọc vùng đất biên cương đã bị đốt trụi, nơi các đội quân biên phòng dựng trại, vừa lấy những thứ cướp bóc được của các vương quốc láng giềng làm lương ăn vừa tùy ý xê dịch các cột mốc biên giới mà không ai dám ngăn cản, không ai có thể đoán được sự giàu có của vương quốc Hatti, cũng như những ngọn núi trơ trọi nóng hừng hực dưới mặt trời vào mùa hè, không ai đoán được khi đông đến lại chìm dưới những lớp lông lạnh lẽo, như tôi cũng chỉ được nghe kể chứ không tận mắt nhìn thấy. Những lớp lông này từ trên trời rơi xuống và tan thành nước phủ kín mặt đất khi hè sang. Tôi đã nhìn thấy nhiều điều kỳ lạ ở đất Hatti nên tôi cũng tin chuyện này, mặc dù không hiểu lông có thể tan thành nước như thế nào. Nhưng tôi đã tận mắt nhìn thấy đỉnh của một số ngọn núi trắng xóa vì lông.
Pháo đài biên giới Karkemish của Hatti, nằm trên cao nguyên bị đốt trụi ở biên giới Syria, có những bức tường được xây từ những tảng đá khổng lồ và đầy những hình đục khắc đáng sợ. Từ pháo đài này, họ thu thuế tất cả các đoàn hành hương và thương nhân đi qua địa phận của họ, nhờ đó có được nguồn của cải rất lớn, vì thuế của họ rất hà khắc và Karkemish nằm ở giữa nhiều tuyến đường hành hương. Ai đã từng nhìn thấy pháo đài này nhô lên đe dọa trên triền núi vào lúc mờ sáng giữa một cao nguyên bị cháy trụi, nơi những con quạ sà xuống rỉa những hộp sọ và xương người trắng hếu, người đó sẽ tin vào điều tôi kể về Hatti và không nghi ngờ câu chuyện kể của tôi. Nhưng các đoàn hành hương và thương gia chỉ được phép đi qua vùng đất Hatti theo những con đường được chỉ định, hai bên đường chỉ có làng mạc nghèo khó, hoang sơ, và có rất ít đất canh tác theo cái nhìn của các thương nhân và nếu ai rời con đường được cho phép sẽ phải vào tù, hàng hóa bị tịch thu và người đó sẽ bị đày đi khổ sai trong hầm mỏ.
Tôi nghĩ sự giàu có của người Hittite đến từ các hầm mỏ, nơi tù nhân và nô lệ của họ đào lên không chỉ vàng và đồng mà cả thứ kim loại bí hiểm, phát màu xám sáng và xanh lam, cứng hơn bất cứ kim loại nào và đắt đến mức được dùng làm trang sức ở Babylon, song người Hittite tôi luyện nó thành vũ khí. Nhưng tôi không biết các thứ kim loại này được rèn dập như thế nào vì nó không được chế tác ở vương quốc nào khác và cũng không tan chảy trong độ nóng mà đồng tan chảy. Điều này tôi tận mắt thấy. Ngoài các hầm mỏ, họ có những cánh đồng màu mỡ và những dòng suối trong vắt trong các thung lũng nằm giữa những rặng núi cao, ở đó họ trồng cây ăn quả, những thảm cây như những khu rừng che phủ sườn núi và trồng cả nho ven bờ biển. Của cải lớn nhất mắt thường có thể nhìn thấy là những đàn gia súc.
Khi nói đến các thành phố lớn trên thế giới, người ta thường nhắc đến Thebes và Babylon, một số nói đến Nineveh mặc dù tôi chưa từng đến đó, chứ tôi chưa bao giờ nghe ai nhắc đến Khattushash, thành phố lớn của người Hittite và là tổ quyền lực của họ, giống như diều hâu có tổ trên núi ở giữa vùng săn mồi. Nhưng thành phố lớn này có thể so sánh với Thebes và Babylon về sự hùng vĩ và khi nghĩ đến các tòa nhà đáng sợ to như trái núi của nó, được dựng bằng những tảng đá được đục ra với các tường thành vững chãi và chắc chắn hơn tất cả các tường thành tôi đã nhìn thấy trước đây, tôi cho rằng thành phố này là một trong những điều kỳ diệu nhất mà tôi từng thấy, vì tôi không hề nghĩ mình sẽ được đến một nơi như thế. Song thành phố này bí ẩn ở chỗ nó bị đóng cửa với người lạ theo lệnh vua, chỉ các sứ thần của các triều đình mới được phép vào để gặp nhà vua, mang quà cho ngài và họ cũng bị theo dõi nghiêm ngặt trong suốt thời gian ở lại Khattushash. Bởi vậy người dân thành phố không muốn chuyện trò với người lạ dù biết ngôn ngữ của họ đi nữa và khi được hỏi điều gì đó, họ sẽ trả lời “Tôi không hiểu” hoặc “Tôi không biết” rồi liếc nhìn xung quanh vì sợ ai đó trông thấy. Tuy nhiên, họ không phải là những người hiểm ác mà có bản tính thân thiện, họ thích ngắm nhìn trang phục của người lạ và nếu chúng đẹp, họ sẽ đi theo người lạ trên đường phố.
Trang phục của người giàu và quan lại Hittite cũng lộng lẫy không kém người ngoài và sứ thần các vương quốc khác, vì họ nhuộm quần áo nhiều màu và dùng chỉ vàng và bạc thêu vào nhiều hoa văn, ví như vương miện tường thành và rìu đôi vốn là dấu hiệu thần của họ. Trang phục lễ hội của họ cũng thường có hình mặt trời có cánh. Chân họ đi giày hoặc dép bằng da thuộc, mềm, mũi dài và nhọn hất lên; đầu họ đội mũ cao chóp nhọn; tay áo của họ rộng, có thể dài xuống tới sát đất, còn váy xòa quệt đất được gấp nếp rất khéo. Khác với người Syria, Mitanni và Babylon, họ cạo râu như người Ai Cập, một số người quyền quý còn cắt tóc, chỉ để một núm tóc tết trên đỉnh đầu. Cằm họ dày, chắc nịch, mũi cũng to và khoằm như của các loài chim ăn thịt. Quan lại và quý tộc sống trong thành phố béo tốt, mặt bóng mỡ vì quen sống xa hoa như những người giàu sang ở các thành phố lớn khác.
Họ không trả lương cho quân lính như các vương quốc văn minh, mà mọi người đều là chiến binh và đàn ông được xếp hạng theo thứ bậc trong quân ngũ, trong đó cao nhất là những người có nhiều chiến xa, và địa vị của họ được xác định dựa trên tài nghệ sử dụng vũ khí chứ không phải xuất xứ gia đình. Vì thế hằng năm, tất cả đàn ông chịu sự chỉ huy của các hoàng thân và võ quan của họ. Khattushash không phải là thành phố buôn bán như các thành phố lớn khác mà đường phố đầy các xưởng rèn phát ra tiếng búa chát chúa vang rền không dứt, vì các binh xưởng này là nơi họ rèn mũi giáo, mũi tên, làm bánh xe và khung cỗ chiến xa.
Tòa án của họ cũng khác với tòa án ở các vương quốc khác vì hình phạt của họ lạ lùng và phi lý. Chẳng hạn, nếu một hoàng thân âm mưu chống lại đức vua để tiếm ngôi, người đó không bị giết mà chỉ bị đày ra miền biên ải để lập công và cải thiện danh tiếng của mình. Người Hittite dùng quà cáp để xét xử hầu hết mọi tội lỗi, ví như một người có thể giết người khác nhưng không bị xử trảm mà chỉ trao quà cho người thân của nạn nhân để bồi thường những thiệt hại mà họ phải gánh chịu. Họ cũng không trừng phạt tội ngoại tình, vì nếu một người đàn bà gặp một người đàn ông thỏa mãn ham muốn của mình tốt hơn chồng mình, người nữ đó có quyền rời khỏi nhà mình đến ở nhà người đàn ông kia, và người kia phải vì người nữ này mà bồi thường cho chồng bà ta. Các cặp vợ chồng vô sinh cũng được công khai bỏ nhau, vì vua của họ đòi hỏi thần dân sinh nhiều con. Nếu ai đó giết người nơi vắng vẻ, người đó không phải đền bù nhiều như khi hành động này xảy ra trong thành phố và có nhiều người chứng kiến, vì họ cho rằng ai đó đi một mình đến nơi vắng vẻ là cố tình dụ người khác “hãy giết tôi đi” để luyện tập kỹ năng đánh giết. Chỉ có hai việc nếu phạm phải sẽ bị xử trảm, qua đó có thể thấy rõ nhất sự vô lý trong luật pháp của họ. Anh chị em ruột không được phép lấy nhau, nếu vi phạm sẽ bị xử tội chết. Không ai được hành nghề phù thủy khi chưa được phép - phù thủy phải chứng minh được khả năng của mình trước các nhà chức trách và được những người này cấp giấy phép hành nghề.
Khi tôi đến xứ Hatti, vua Shubbiluliuma của họ đã trị vì đư?