Chương 33
Tôi đã khóc cả đêm trong căn bếp lặng lẽ. Tôi ngủ thiếp đi vào lúc bình minh. Cô Nella đến đánh thúc tôi dậy và trách tôi, cô nói Nino muốn ăn sáng trên sân thượng để không làm phiền tôi. Anh ấy đã rời đi rồi.
Tôi vội vàng mặc quần áo, cô ấy nhận ra là tôi đang buồn. “Đi đi, cuối cùng cô ấy cũng cho phép tôi, có thể cháu sẽ kịp đấy.” Tôi chạy ra bến cảng với hy vọng đến nơi trước khi tàu khởi hành thế nhưng nó đã ra đến ngoài khơi.
Tôi trải qua những ngày tồi tệ. Trong lúc dọn phòng tôi tìm thấy một cái thẻ đánh dấu trang bằng bìa màu thiên thanh của Nino và tôi đã giấu nó trong đống đồ đạc của mình. Buổi tối, trong bếp, nằm trên giường, tôi hít hà nó, hôn nó, liếm nó bằng đầu lưỡi và khóc. Tôi xúc động với tình cảm tuyệt vọng của chính mình và nước mắt cứ thế trào ra.
Sau đấy ông Donato Sarratore đến và họ bắt đầu mười lăm ngày nghỉ lễ của mình. Ông ấy lấy làm tiếc vì con trai đã rời đi nhưng lại vui mừng rằng nó đã đến chỗ những người bạn của mình gần Avellino để học. “Nó là một đứa thực sự nghiêm túc, ông ấy nói với tôi, giống như cháu. Ta tự hào về nó, giống như ta hình dung rằng bố cháu hẳn cũng tự hào về cháu vậy.”
Sự xuất hiện của người đàn ông điềm đạm ấy đã trấn an tôi. Ông ấy muốn làm quen với bạn bè mới của Marisa, một buổi tối, cô ta mời họ đến đốt lửa trại bên bờ biển. Chính tay ông ấy đã lo việc chất đống củi mà ông kiếm được và ở lại với đám thanh niên chúng tôi cho tới khuya. Chàng trai mà Marisa ít nhiều đang hẹn hò đã đệm đàn ghi ta còn ông Donato thì hát. Ông ấy có giọng hát tuyệt vời. Đêm đã muộn khi ông chính tay gảy đàn, ông đánh đàn giỏi, gợi lên các điệu nhảy. Một vài người bắt đầu nhảy, bắt chước theo Marisa.
Nhìn người đàn ông đó tôi đã nghĩ: ông ấy và con trai mình không hề có điểm chung nào. Nino cao lớn, khuôn mặt thanh thoát, vầng trán khuất dưới mái tóc đen, cái miệng luôn khép hờ với đôi môi mời gọi; ông Donato thì có dáng người tầm thước, các nét trên khuôn mặt rõ ràng, trán hói sâu, đôi môi mỏng gần như không nhìn thấy. Nino thường mang ánh mắt ảm đạm nhìn sâu vào mọi người và mọi vật và cặp mắt ấy có vẻ sợ hãi; ông Donato thì luôn có vẻ thoải mái, đôi mắt luôn gắn vào vẻ ngoài của mọi người hay mọi vật một cách thích thú và ông luôn tươi cười với họ. Nino có điều gì đó chôn giấu bên trong, giống như Lila, đó vừa là một món quà vừa là một nỗi khổ: họ không bao giờ hạnh phúc, không từ bỏ và sợ hãi những gì xảy ra xung quanh mình; nhưng người đàn ông này thì không, ông có vẻ yêu thương mọi thứ diễn ra trong đời, gần như mỗi giây trôi qua ông đều tuyệt đối chân thành.
Từ tối hôm đó, bố của Nino dường như là phương thuốc vững chắc đối với tôi, không chỉ để chống lại bóng tối mà con trai ông đã đẩy tôi vào khi bỏ đi sau một nụ hôn nhẹ đến mức gần như không cảm nhận được mà còn - tôi đã bất ngờ nhận ra - chống lại cả tình cảnh mà Lila đã đẩy tôi vào khi không bao giờ trả lời thư của tôi. Cậu ấy và Nino không quen biết nhau mấy, tôi nghĩ vậy, họ chưa bao giờ đi với nhau, nhưng hiện giờ tôi lại thấy họ thật giống nhau: họ chẳng cần thứ gì cũng chẳng cần ai và họ luôn biết mình nên và không nên làm gì. Nhưng nếu họ sai thì sao? Marcello thì có gì tồi tệ đến thế, ông Donato có điểm gì đặc biệt tồi tệ? Tôi không hiểu. Tôi yêu quý cả Lila và Nino và giờ đây tôi nhớ hai người họ theo một cách khác, nhưng tôi cũng biết ơn người cha bị căm ghét kia vì với tôi, với tất cả lũ trẻ chúng tôi, ông dành sự quan tâm, mang đến niềm vui và sự bình yên trong đêm ở bãi biển Maronti. Bỗng dưng tôi thấy vui khi không ai trong hai người họ có mặt trên hòn đảo này.
Tôi tiếp tục đọc sách và viết bức thư cuối cùng cho Lila, trong thư tôi bảo cậu ấy rằng vì cậu ấy chưa bao giờ trả lời thư tôi nên tôi sẽ không viết cho cậu ấy nữa. Thay vào đó tôi gắn bó với gia đình Sarratore và nhanh chóng thấy mình như chị em của Marisa, Pinuccio và Ciro bé bỏng mà giờ tôi rất mực yêu quý: thằng bé không quậy phá và chơi ngoan ngoãn chỉ với mình tôi mà không phải ai khác, chúng tôi cùng nhau đi kiếm vỏ sò. Bà Lidia đã hoàn toàn chuyển từ thù địch sang cảm thông và yêu mến tôi, bà thường khen ngợi tôi vì sự chuẩn chỉnh trong mỗi việc tôi làm: bày biện bàn ăn, dọn phòng, rửa bát, trông thằng bé con, đọc sách hay học bài. Một buổi sáng, bà cho tôi mặc chiếc áo sơ mi đã chật của mình: cô Nella và cả ông Sarratore, bị vội vã gọi vào để đưa ý kiến, vô cùng hào hứng và nói rằng chiếc áo rất hợp với tôi, rằng bà hãy tặng nó cho tôi. Đôi lúc bà ấy có vẻ còn quý tôi hơn cả Marisa. Bà nói: “Con bé lười nhác và kiêu ngạo, ta đã dạy dỗ nó không tốt, nó không học hành gì cả; cháu thì ngược lại, cháu làm mọi việc một cách thật thông minh.” “Hệt như Nino, bà ấy nói thêm, chỉ có điều cháu là ánh nắng còn thằng bé thì lúc nào cũng lo lắng.” Nhưng khi nghe những lời phê phán đó ông Donato đã nhảy dựng lên và bắt đầu khen đứa con cả. “Nó là một cậu bé vàng,” ông nói trong khi liếc mắt tìm sự xác nhận của tôi và tôi đã ra hiệu đồng tình với sự thuyết phục tuyệt đối.
Sau khi bơi rất lâu, ông Donato lên bờ nằm cạnh tôi để phơi mình dưới ánh nắng và đọc báo, tờ Roma - thứ duy nhất mà ông đọc. Tôi bất ngờ khi thấy một người sáng tác thơ và thậm chí còn tập hợp những bài thơ của mình thành tuyển tập lại không bao giờ mở một cuốn sách. Ông chưa bao giờ mang sách theo và cũng không tò mò về những cuốn sách của tôi. Thi thoảng ông đọc cho tôi một vài đoạn của bài báo - đó là những câu từ sẽ khiến Pasquale tức điên lên và chắc chắn cả cô Galiani cũng vậy. Nhưng tôi im lặng, tôi không muốn tranh luận với một người nhã nhặn như vậy, cũng như phá vỡ sự coi trọng mà người đó dành cho tôi. Một lần ông ấy đọc toàn bộ bài báo cho tôi, từ đầu đến cuối; cứ hai dòng ông ấy lại quay ra cười với bà Lidia và bà đáp lại ông bằng nụ cười tỏ ý đồng tình. Cuối cùng ông ấy hỏi tôi:
“Cháu có thích không?”
Đó là một bài báo viết về tốc độ của việc đi du lịch bằng xe lửa so với những chuyến du lịch trước đây bằng xe ngựa hay đi bộ dọc theo các con đường nông thôn. Nó được viết bằng những lời lẽ khoa trương mà ông ấy đã đọc một cách diễn cảm.
“Vâng, rất thích ạ,” tôi đáp.
“Cháu xem ai đã viết này: cháu đọc được gì ở đây?”
Ông ấy nghiêng người sang và chìa tờ báo trước mắt tôi. Tôi hồi hộp đọc lên:
“Donato Sarratore.”
Bà Lidia bật cười và ông ấy cũng thế. Họ để tôi trông Ciro trên bãi biển trong khi họ xuống tắm biển như mọi lần, hai người sát cạnh nhau và ghé vào tai nhau nói chuyện. Tôi nhìn họ và nghĩ: tội nghiệp bà Melina, nhưng không oán hận ông Sarratore. Tôi thừa nhận rằng Nino đã đúng và rằng giữa hai người ấy thực sự có điều gì đó; nói chung tôi thừa nhận rằng ông Sarratore đã thực sự phản bội bà Lidia, giờ đây khi tôi đã hiểu ông ấy hơn, tôi lại càng không thể thấy ông có lỗi, hơn nữa dường như bà vợ cũng không có lỗi, mặc dù khi đó bà đã ép chồng mình phải rời khỏi khu phố. Với Melina, tôi cũng hiểu bà ấy. Bà ấy đã nhận được niềm vui trong mối tình với người đàn ông trên cả tuyệt vời này - một nhân viên soát vé đồng thời cũng là một nhà thơ, nhà báo - và tâm trí mong manh của bà đã không thể thích nghi lại với cuộc đời bình thường đầy thất vọng khi không có ông ấy. Tôi hài lòng với những suy nghĩ ấy. Trong những ngày đó, tôi mãn nguyện với mọi thứ: với tình cảm của tôi dành cho Nino, với nỗi buồn của tôi, với tình cảm tôi cảm nhận được từ mọi người xung quanh, với chính khả năng đọc sách, tư duy độc lập của mình.